VĂN KIỆN TATB 2016
HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH
TÒA THÁNH LONG CHÂU
NĂM ĐẠO THỨ 91
-----
THÁNH TỊNH LONG THÀNH
Nội San
TRI ÂN TIỀN BỐI
2016
MỪNG LỄ KỶ NIỆM 74 NĂM (1942-2016)
THÀNH LẬP THÁNH TỊNH LONG THÀNH
VÀ KỶ NIỆM TRI ÂN TIỀN BỐI LẦN THỨ 10
NGÀY 10 THÁNG 10 BÍNH THÂN ( 09 / 11 / 2016 )
CHƯƠNG TRÌNH
MỪNG LỄ KỶ NIỆM 74 NĂM THÀNH LẬP
THÁNH TỊNH LONG THÀNH
VÀ TRI ÂN TIỀN BỐI LẦN THỨ 10
09 – 10 Bính Thân ( DL: 09 – 11 – 2016)
-Tòan đạo tề tựu họp ban tổ chức chuẩn bị cuộc lễ
10 – 10 Bính Thân ( DL: 09 – 11 – 2016)
7 h - Tiếp rước quan khách
8 h – Nghi thức khai mạc
-Tuyên bố lý do
-Đồng nhi đọc kinh khai hội
-Giới thiệu đại biểu tham dự
-Diễn văn khai mạc
-Sơ lược tiểu sử Thánh Tịnh Long Thành
-Báo cáo Đạo sự năm qua
-Cảm tưởng Quan khách
-Huấn từ của Hội Thánh
-Đáp từ của Ban Tổ Chức
-Đồng nhi đọc kinh xuất hội
-Dùng tiệc chay thân mật
Mãn Lễ
DIỄN VĂN KHAI MẠC
ĐẠI LỄ KỶ NIỆM 74 NĂM (1942-2016)
NGÀY THÀNH LẬP THÁNH TỊNH LONG THÀNH
VÀ KỶ NIỆM TRI ÂN TIỀN BỐI LẦN THỨ 10
(Ngày 10/10 Bính Thân (09/11/2016)
BAN TỔ CHỨC
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Kính thưa:
- Đòan Chủ tọa cuộc lễ;
-Quý Anh Chị lớn Ban Thường trực Hội Thánh;
-Quý Đại diện chính quyển, Mặt trận, Ban Tôn Giáo các cấp;
-Quý Đại diện các Hội Thánh;
-Quý Sư, Thầy, Quý Đại diện Tôn Giáo bạn,
-Quý Chức sắc Chức việc các Thánh Thất, Thánh Tịnh, Điện thờ;
và quý vị khách mời; các Mạnh thường quân, các Nhà hão tâm, chư Đạo tâm nam nữ,…xa gần kính mến!
Ban Tổ Chức và Họ Đạo chúng tôi rất vui mừng và nhiệt liệt đón tiếp cùng tòan thể quý vị đã dành thời giờ quý báu của mình để đến đây với chúng tôi tham dự ngày Đại Lễ kỷ niệm 74 năm thành lập Thánh Tịnh Long Thành, cũng là lễ tưởng niệm Tri Ân Chư Vị Tiền Bối lần thứ 10. Nên việc tổ chức đại lễ của Thánh Tịnh Long Thành lần nầy khá đặc biệt vì đã tròn 10 năm thiết lễ Tri Ân Tiền Bối, được tiến hành cùng thời điểm quan trọng trong tháng 10 đã tròn 91 năm khai sáng Đạo Cao Đài để chuẩn sang bước qua năm đạo lần thứ 92 của Đạo Cao Đài.
Chúng tôi rất luôn biết quý trọng và ghi nhớ đối với những ân tình trên tinh thần Liên Giao Đời Đạo mà quý vị đã dành cho chúng tôi từ những năm qua, với ý nghĩa đó chúng tôi tự cảm nghỉ rằng mình đã được hòa mạng vào vòng tay lớn bác ái Tình Người, được đồng hành phận sự trong một tập đòan Thiên Đức đa dạng vô biên của các Đấng Thiêng Liêng. Chúng tôi xin hứa với quý vị rằng chúng tôi sẽ thực hành và phát huy thật tốt vai trò Đạo đức của mình để góp phần xây dựng xã hội lành mạnh.
Chúng tôi cũng rất biết ơn riêng đến quý vị Chính Quyền địa phương đã giúp đở chúng tôi được hành Đạo trên phương diện Đạo đức tâm linh được hòa nhịp với pháp lý chủ trương của nhà nước trên tiêu chí Tốt Đời Đẹp Đạo, cùng góp phần xây dựng xã hội lành mạnh.Trong giờ phút Thiêng Liêng ấm áp tình nhân ái Đại Đồng, lời đầu tiên tôi xin thay mặt Ban Cai Quản Họ Đạo Thánh Tịnh Long Thành xin chân thành gởi đến toàn thể chư quý liệt vị lời chào thân ái trên tinh thần liên giao đòan kết sâu sắc và nồng nhiệt nhất.
Vì sự nghiệp Đạo đức chung, không phân Đạo Đức Tôn Giáo và Đạo Đức xã hội trên tinh thần liên giao đòan kết mà quý vị đã dành cho chúng tôi từ những năm qua và cũng như hôm nay, chúng tôi rất vui mừng đón tiếp và xin thành tâm cầu chúc cho tòan thể quý vị và cả gia đình luôn được dồi dào sức khỏe, an lạc, hạnh phúc và thành đạt trong sự nghiệp Đạo đức chung của chúng ta.
Kính thưa qúy vị! Nhân được hội ngộ cùng quý vị trong ngày Đại Lễ hôm nay, chúng tôi xin được chia sẽ cùng quý vị vài nhận xét của chúng tôi về Đạo Cao Đài và các Tôn Giáo…Đạo Cao Đài ra đời vào năm 1926 qua hình thức cơ bút. Giáo lý Đạo Cao Đài xem nhân lọai là con chung một cha và sẽ được hiệp nhứt lại thành một nhà, có chủ trương Dung Hòa các Tôn Giáo và dung thông ba nền Đạo đức là Gia Đạo, Quốc Đạo và Thiên Đạo và lập lại đời Thượng Nguơn Thánh Đức, Bởi từ lâu nhân lọai đã trãi qua hàng chục, hàng trăm ngàn năm lịch sử bị phân biệt kỳ thị, chia rẽ bất hòa, nhồi da xáo thịt với nhau, con người đã luôn bất công, bất thiện nhau để sống… Nhìn chung các Tôn Giáo đều có cùng một sứ mạng là cứu khổ, giải mê cho đời. Giáo lý các Tôn Giáo là tiêu biểu cho cái chân thiện, cao đẹp, cho sự hòa ái yêu thương cho đời được an lạc và hướng thượng, vô ngã. Thế mà có phải do lòng nhân ngã Ta và Người mà con người đã làm cho bản thể các Tôn Giáo chưa được đòan kết nhau, chưa vun đắp hổ tương cho nhau một cách thiết thực hơn.
Trước tình cảnh trần gian còn bị chia rẽ, phân biệt, bất hòa mênh mông là nguyên nhân của lịch sử xã hội khổ đau. Vì thế, để xây dựng một cảnh đời Nhân Hòa, An Lạc và tiến bộ về mặt tâm linh, nên ở vào thời điểm cuối cùng của chu kỳ Tam Nguơn đã mãn, Đức Thượng Đế đã xuất hiện qua bản thân Đạo Cao Đài, đưa ra chủ thuyết Đại Đồng, lấy Dung Hòa, Hiệp Nhứt làm tôn chỉ thực thi, xây dựng một cõi đời Đại Đồng Thánh Đức trong tương lai.
Kính thưa qúy vị! Dân tộc Việt Nam không phân biệt thành phần xã hội, và các Tôn Giáo, chúng ta hãy thực thi tôn chỉ dung hòa, hiệp nhứt, sống biết thương mình, thương con người, biết hổ tương đòan kết để cùng nhau sống cảnh Nhân Hòa, An Lạc, Hạnh Phúc v.v…Đó là chúng ta đã thực thi con người Thánh Đức, biết cộng sự, cộng hưởng cùng người Thiên Đức đang diển hành hướng đến đời Thượng nguơn Thánh Đức.
Vậy việc Liên Giao Đời Đạo trong sự nghiệp Đạo Đức chung, dầu của chúng ta ở đây hay của những người khác bất cứ ở đâu cần phải được quan tâm nêu cao và mở rộng, để cùng nhau phát huy sống dậy cái Đạo đức tình người, để ngày càng xóa tan sự chia rẽ sai biệt lổi thời còn tồn tại trong cuộc sống rất đa dạng sự tiến bộ hiện nay.
Tiếp theo, chúng tôi xin được nói lên sự phát triển cơ Đạo Thánh Tịnh Long Thành. Nhìn chung từ trước và về hình thức cơ Đạo, chúng tôi luôn giữ lấy nghi thức thờ cúng và tu học theo Đạo đức truyền thống của Đạo Cao Đài. về ý tưởng, về lý pháp, chúng tôi luôn học hỏi và được Ơn Trên dạy rất nhiều về lý pháp Đại Đồng Thánh Đức, cũng như việc Liên Giao Hành Đạo chúng tôi luôn gìn giữ những nơi đã được Liên Giao và luôn phát triển rộng thêm những nơi chưa được Liên Giao. Về mặt đối ngọai, chúng tôi luôn quan hệ với Hội Thánh để thường xuyên nắm bắt những chỉ dẫn của cấp trên để chúng tôi hành Đạo được hợp ý và đồng điệu trong hệ thống của Hội Thánh. Ngòai ra chúng tôi đã thực thi và xem trọng tinh thần Liên Giao Đòan Kết để hành Đạo, không phân biệt Đời, Đạo và Tôn Giáo. Chúng tôi luôn tìm lấy những ý tưởng, những bước đi tới có hiệu quả thiết thực lợi lạc và tiến bộ, tiến bộ từ ý thức luôn nâng cấp cao cả chứ không phải bứơc đi tại chỗ của những điều sẳn có.
Trước khi dứt lời, Chúng tôi xin chân thành kính chúc toàn thể chư quý liệt vị cùng gia đình có được sức khỏe dồi dào và thành đạt tốt đẹp nhất trên mọi lĩnh vực
Thay mặt Ban Tổ Chức, chúng tôi xin tuyên bố khai mạc buổi lễ kỷ niệm 74 năm thành lập ngôi Thánh Tịnh Long Thành và kỷ niệm tròn 10 năm tổ chức Tri Ân Chư vị Tiền Bối quá vãng.
Xin chân trọng kính chào và tri ân tòan thể chư quý liệt vị.
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
THÁNH TỊNH LONG THÀNH
TỪ NĂM 1942 ĐẾN NĂM 2016
I – VỊ TRÍ TỌA LẠC THÁNH TỊNH LONG THÀNH
Thánh Tịnh Long Thành tọa lạc tại Khu Vực Bình Yên B, Phường Long Hòa, Quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ.
Thánh Tịnh Long Thành nằm trên bờ sông Rạch Cam chạy qua trước mặt, in bóng những vườn cây ăn trái sum xuê, lại được những con lộ quan trọng có sẳn và sắp mở thêm nhiều con lộ bọc quanh, tạo nên một thắng cảnh hữu tình, trù phú, báo hiệu một tương lai sáng lạn về văn hóa, lịch sử và kinh tế của vùng địa linh nhân kiệt sông Tiền, sông Hậu.
Thánh Tịnh Long Thành Tôn Giáo Cao Đài thuộc phái Chiếu Minh được xây dựng từ năm 1942.
Người sáng lập Thánh Tịnh là Ông Nguyễn Văn Cứ, Thánh Danh là Ngọc Minh Sắc. Ông Cứ được Ông Nguyễn Văn Kiết để cho một mẫu đất dùng để lo việc Đạo, xây dựng chùa, không sang bán gì cả.
Ông Nguyễn Văn Cứ đề xướng và điều động Bổn Đao cùng nhân sanh thiện nam tín nữ nhiều nơi đóng góp công quả, xây dựng và trùng tu Thánh Tịnh qua từng đợt như sau:
Năm 1942 khởi công xây dựng, chùa lá cột cây, ngang 5m, dài 9m.
Năm 1944 tu sửa lần thứ nhất cũng bằng cây lá : ngang 9m, dài 12m
Năm 1946 tu sửa lần thứ nhì đóng vách ván, lợp mái ngói : Ngang 14m, dài 18m. Kể cả Tây và Đông lang.
Năm 1966, tu sửa lần thứ ba, xây tường gạch, mái ngói, lợp tole Thánh Tịnh được tạo thành ba gian, giữa là Chánh Điện thờ cúng, bên tả là Đông lang, dành cho phái nam, bên hữu là Tây lang dành cho phái nữ. Chánh Điện thờ ở giữa cũng được chia làm ba phần : Ngòai vào là Hiệp Thiên Đài giữa là Cửu Trùng Đài, trong là Bát Quái Đài. Cả ba phần đều đổ la phông ngăn tầng trên.
Tu sửa hòan tất thì vào ngày 10 tháng 10 năm 1969, Ông Cứ liểu đạo, đắc vị là Đẳng Giác Kim Tiên.
Ngày 29 tháng 9 năm 1989 bà Cứ là Võ Thị Kiên cũng Liểu Đạo, giao lại Thánh Tịnh cho anh Phạm Hữu Lợi là cháu ngọai của bà, để kế tục lo Đạo, lo Thánh Tịnh.
Ngày 18 tháng 11 năm 1995, anh Phạm Hữu Lợi giao trách nhiệm lại cho em ruột là Phạm Trường Thọ. Phạm Trường Thọ cho bổn Đạo gìn giữ riêng phạm vi đất ngang 20m, dài 53m (kể chung phạm vi đất đã xây dựng và chưa xây dựng) và được Sở Địa Chính tỉnh Cần Thơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Thánh Tịnh Long Thành vào ngày 22 tháng 01 năm 2003, trừ đường đi còn : ngang 20m, dài 51,2m. tổng diện tích 1030,2m 2.
Đến năm 2009. vì Thánh Tịnh xây dựng theo thời chiến tranh và trãi qua thời gian khá dài, đã xuống cấp nghiêm trọng, nên được phép xây dựng cûa Sở Xây Dựng Thành Phố Cần Thơ số 07/GPXD đề ngày 03/03/2009. Thánh Tịnh hiện đang xây dựng lại kiên cố như sau:
*Vì chu vi đất hẹp nên Thánh Tịnh xây dựng hai tầng: Ngang 13m, dài 29m. Tầng dưới làm Hội Trường Liên Giao Đời Đạo, tầng trên có đủ Tam Đài là Bát Quái Đài, Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài đúng ngôi Thánh Thể Đức Chí Tôn.
II- TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH ĐẠO CỦA THÁNH TỊNH LONG THÀNH
ĐƯỢC THÀNH LẬP BAN CAI QUẢN VÀ BAN TRỊ SỰ
-Ban Cai Quản chăm lo việc tổ chức lễ hội, kế họach xây dựng, điều động nhân lực.
-Ban Trị Sự : chăm lo sổ sách, hành chánh, sổ bộ Đạo.
Nhiệm kỳ 1 (gồm 8 năm) 1948-1956.
Ông Lý Văn Nhãn : Chánh Hội Trửơng
Ông Nguyễn Văn Thọai : Phó Hội Trưởng
Ông Lê Văn Sáu : Thủ Bổn
Ông Quảng Văn Quang : Thư Ký BCQ
Ông Lê Văn Dịp : Chánh Trị Sự
Bà Lê Thị Huê : Trụ Trì
Nhiệm kỳ 2 (gồm 3 năm) 1956-1959.
Ông Lê Văn Húynh : Chánh Hội Trửơng
Ông Lê Văn Sáu : Thủ Bổn
Ông Quảng Văn Quang : Thư Ký BCQ
Ông Hùynh Văn Danh : Chánh Trị Sự
Bà Lê Thị Huê : Trụ Trì
Nhiệm kỳ 3 (gồm 2 năm) 1959-1961.
Ông Lê Văn Húynh : Chánh Hội Trửơng
Ông Nguyễn Văn Trượng : Phó Hội Trửơng
Ông Lê Văn Sáu : Thủ Bổn
Ông Lê Phát Thọai : Chánh Trị Sự
Ông Quảng Văn Quang : Thư Ký BCQ
Bà Nguyễn Thị Mười : Trưởng Ban Kinh Sư
Bà Lê Thị Huê : Trụ Trì
Nhiệm kỳ 4 (gồm 3 năm) 1961-1964.
Ông Lê Văn Húynh : Chánh Hội Trửơng
Ông Dương Hiếu Sen : Phó Hội Trửơng
Ông Quảng Văn Quang : Thư Ký BCQ
Bà Trần Thị Hòa : Trưởng Ban Trù Phòng
Bà Thái Thị Kim Sa : Trụ Trì
Ông Lê Văn Sáu : Thủ Bổn
Ông Lâm Văn Năm : Chánh Trị Sự
Ông Nguyễn Văn Tấn : Phó Trị Sự
Ông Đặng Thiên Kiêm : Thư Ký BTS
Bà Nguyễn Thị Mười : Trưởng Ban Kinh Sư
Nhiệm kỳ 5 (gồm 3 năm) 1964-1967.
Ông Lê Văn Húynh : Chánh Hội Trửơng
Ông Dương Hiếu Sen : Phó Hội Trửơng
Ông Hà Thanh Phong : Từ Hàn
Ông Lê Văn Sáu : Thủ Bổn
Ông Quảng Văn Quang : Thư Ký BCQ
Bà Nguyễn Thị Mười : Trưởng Ban Kinh Sư
Bà Phạm Thị Tiền : Trưởng Ban Trù Phòng
Ông Nguyễn Văn Giáo : Chánh Trị Sự
Ông Lâm Văn Năm : Chánh Trị Sự
Ông Nguyễn Văn Tấn : Phó Trị Sự
Ông Nguyễn Văn Thìn : Thông Sự
Ông Đặng Thiên Kiêm : Thư Ký BTS
Bà Nguyễn Thị Thum : Trưởng Ban Đồng Nhi
Bà Nguyễn Thị Mười : Trưởng Ban Kinh Sư
Bà Trần Thị Hòa : Trưởng Ban Trù Phòng
Bà Đặng Thị Phương : Trụ Trì
Nhiệm kỳ 6 (gồm 11 năm) 1967-1978.
Ông Võ Văn Dung : Chánh Hội Trửơng
Ông Đặng Thiên Kiêm : Phó Hội Trưởng
Ông Lâm Văn Năm : Chánh Trị Sự
Ông Nguyễn Văn Bảy : Từ Hàn
Ông Lê Văn Thôn : Phó Trị Sự
Ông Nguyễn Văn Thông : Phó Trị Sự
Bà Nguyễn Thị Mười : Chánh Trị Sự nữ phái
Ông Phạm Văn Tư : Trưởng Ban Kinh Sư
Bà Trần Thị Anh : Trưởng Ban Đồng Nhi
Bà Đặng Thị Phương : Trụ Trì
Nhiệm kỳ 7 (gồm 3 năm) 1978-1981.
Ông Võ Văn Dung : Chánh Hội Trửơng
Ông Hà Tấn Việt : Chánh Trị Sự
Bà Nguyễn Thị Mười : Chánh Trị Sự nữ phái
Ông Nguyễn Văn Sáng : Thông Sự
Ông Đặng Thiên Kiêm : Thông Sự
Bà Nguyễn Thị Năm : Trưởng Ban Đồng Nhi
Bà Phan Thị Nở : Phó Ban Đồng Nhi
Bà Ngưyễn Thị Xinh : Trưởng Ban Trù Phòng
Nhiệm kỳ 8 (gồm 6 năm) 1981-1987.
Ông Võ Văn Dung : Chánh Hội Trửơng
Ông Lê Văn Sáu : Phó Hội Trưởng
Ông Võ Văn Phước : Từ Hàn
Ông Hà Tấn Việt : Chánh Trị Sự
Ông Nguyễn Văn Khương : Từ Hàn
Bà Nguyễn Thị Mười : Chánh Trị Sự nữ phái
Ông Nguyễn Ánh Thanh : Phó Trị Sự
Ông Nguyễn Văn Năng : Thông Sự
Bà Phan Thị Nở : Phó Ban Đồng Nhi
Nhiệm kỳ 9 (gồm 3 năm) 1987-1990.
Ông Lê Văn Sáu : Chánh Hội Trửơng
Ông Đặng Hữu Cây : Phó Hội Trửơng
Bà Nguyễn Thị Năm : Trưởng Ban Đồng Nhi
Bà Phan Thị Nở : Phó Ban Đồng Nhi
Bà Hà Thị Mỹ : Trụ Trì (87-93)
Nhiệm kỳ 10 (gồm 4 năm) 1990-1994.
Ông Đặng Hữu Cây : Chánh Hội Trửơng
Ông Quảng Văn Hai : Phó Hội Trửơng
Bà Nguyễn Thị Năm : Trưởng Ban Đồng Nhi
Bà Phan Thị Nở : Phó Ban Đồng Nhi
Bà Hùynh Thị Lan : Trưởng Ban Trù Phòng
Bà Hà Thị Mỹ : Trụ Trì
Nhiệm kỳ 11 (gồm 5 năm) 1994-1999.
Ông Lâm Văn Năm : Chánh Hội Trửơng
Ông Đặng Thiên Kiêm : Phó Hội Trưởng
Ông Quảng Văn Hai : Phó Hội Trửơng
Bà Phan Thị Nở : Phó Ban Đồng Nhi
Bà Lê Thị Tám : Phó Ban Lễ Sĩ
Bà Nguyễn Thị Đâu : Trụ Trì
Bà Nguyễn Thị Thu Mãnh : Trù phòng
Nhiệm kỳ 12 (gồm 2 năm) 1999-2001.
Ông Quảng Văn Hai : Chánh Hội Trửơng
Ông Quảng Văn Quang : Phó Hội Trưởng
Ông Đặng Thiên Kiêm : Phó Hội Trưởng
Quảng Chí Tâm : Từ Hàn
Bà Lê Thị Tám : Phó Ban Lễ Sĩ
Nhiệm kỳ 13 (gồm 5 năm) 2001-2006
Ông Quảng Văn Hai : Chánh Hội Trửơng
Quảng Chí Tâm : Từ Hàn
Bà Nguyễn Thị Đâu : Trụ Trì
Bà Lê Thị Tám : Phó Ban Lễ Sĩ
Nhiệm kỳ 14 (gồm 4 năm) 2006-2010.
Ông Hà Tấn Việt : Quyền Hội Trửơng
Bà Lê Thị Tám : Phó Hội Trưởng
Quảng Chí Tâm : Từ Hàn
Nguyễn Thị Rảnh : Phòng Thư
Ông Phạm Văn Tư : Phòng Lễ
Bà Nguyễn Thị Thu Mãnh : phòng Lương
Quảng Văn Chích : Phòng Công
Nhiệm kỳ 15 (gồm 5 năm) 2010-2015.
Ông Hà Tấn Việt : Chánh Hội Trửơng
Bà Lê Thị Tám : Phó Hội Trưởng
Quảng Chí Tâm : Từ Hàn
Nguyễn Thị Rảnh : Phòng Thư
Hà Tấn Út : Phòng Lễ
Bà Nguyễn Thị Thu Mãnh : Phòng Lương + Thủ Bổn
Ông Quảng Văn Chích : Phòng Công
Ông Phạm Văn Tư : Chánh Trị Sư
Ông Dương Hiếu Hạnh : Phó Trị Sự
Bà Lý Ngọc Hoa : Phó Trị Sự
Hà Thanh Tuấn : Thông Sự
Nhiệm kỳ 16 (gồm 5 năm) 2015 - 2020
Ông Hà Tấn Việt : Chánh Hội Trửơng
Bà Lê Thị Tám : Phó Hội Trưởng
Quảng Chí Tâm : Từ Hàn
Nguyễn Thị Miếng : Thủ Bổn
Nguyễn Văn Bảy : Phòng Thư
Hà Tấn Út : Phòng Lễ
Bà Nguyễn Thị Thu Mãnh : Phòng Lương
Ông Hà Thanh Tâm : Phòng Công
Ông Phạm Hữu Lợi : Chánh Trị Sư
Bà Lý Ngọc Hoa : Phó Trị Sự
Nguyễn Văn Thơ : Thông Sự
III- THÀNH TÍCH CỦA THÁNH TỊNH LONG THÀNH
Suốt 74 năm qua, tổ chức hành chánh Đạo của Thánh Tịnh Long Thành vẫn giữ vững được kỷ cương chặt chẽ, có nội quy Đạo luật nghiêm minh, có phân công trách nhiệm rõ ràng, đòan kết tương trợ giữa Nhị Ban, chưa hề xảy ra bất hòa trong nội bộ hoặc bị Đạo hay nhân dân chê trách.
Được như vậy là nhờ Nhị Ban cũng như tòan thể Bổn Đạo luôn luôn một lòng tuân thủ Đạo luật, chăm lo Đạo sự, đòan kết với mọi Chi Phái, Tôn Giáo. Chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương chính sách pháp luật Nhà Nước, giáo dục truyền thống bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc, làm vui Đời như lời Bác Hồ dạy.
Hằng năm Thánh Tịnh Long Thành tổ chức Đại lễ Liên Giao Đời Đạo ngày 10 tháng 10 âm lịch, cũng là Đại Lễ kỷ niệm thành lập ngôi Thánh Tịnh, kỷ niệm Khánh Thành, kỷ niệm tri ân chư vị Tiền Bối cũng là ngày kỷ niệm Tri Ân Tiền Bối, có mời đông đủ Chánh quyền,.Mặt Trận, Tôn giáo các cấp. Các Tôn Giáo, Hội Thánh, Cơ Quan Đạo, Thánh Thất, Thánh Tịnh, Điện, Đàn cùng đạo tâm nam nữ tham dự trên 300 vị. Tình Liên Giao Đời Đạo của Thánh Tịnh Long Thành là không phân biệt sắc màu Tôn Giáo, Đạo Đời. Hằng tháng nơi Thánh Tịnh đều có tổ chức cúng thường lệ vào ngày 14 và 29 âm lịch.Ngày cúng có bình Thánh giáo và sinh hoạt đạo.
Ngoài việc chăm lo Đạo sự của Nhị Ban nói riêng, của Bổn Đạo nói chung, Thánh Tịnh Long Thành luôn cố gằng hết sức mình dống góp rất nhiều cho cách mạng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như sau:
1- Trong hai cuộc kháng chiến, Thánh Tịnh Long Thành cũng là nơi nuôi dạy thanh niên trốn quân dịch, xin miễn hoãn dịch cho họ, vận động phong trào phản chiến và nuôi dấu cán bộ như các ông: Lê Phát Thoại, Huỳnh Văn Danh, Lê Văn Út, Đặng Thiên Kiêm, Lâm Văn Năm, Nguyễn Quốc Khánh.
2- Trong hai thời kỳ kháng chiến, Thánh Tịnh Long Thành là điểm hội họp của cán bộ làm việc mật cũng như hiện nay chính quyền địa phường vẫn thường mượn điểm để hội họp.
3-Khi bom đạn giặc ồ ạt đổ trút xuống các làng xã kề cận, thì Thánh Tịnh cũng là nơi ẩn nương của toàn thể bà con các nơi kéo về lánh nạn.
4- Từ năm 1978 đến nay, Thánh Tịnh Long Thành có tổ chức chữa bệnh miễn phí giúp cho Bổn Đạo và nhân sanh, đem lại sự an vui cho bà con. như
Hằng năm, Thánh Tịnh Long Thành có tổ chức nhiều ngày lễ hội, Đặc biệt là kỷ niệm liên giao hành đạo được chọn vào ngày 10 tháng 10 âm lịch là cùng khớp với nhiều kỷ niệm tại Thánh Tịnh Long Thành, kỷ niệm thành lập ngôi Thánh Tịnh Long Thành, Kỷ niệm an vị Bát Quái Đài, Kỷ niệm Khánh Thành ngôi Thánh Tịnh, kỷ niệm Tri Ân Tiền Bối. Tinh thần liên giao đời đạo, hoằng dương chánh pháp của Thánh Tịnh Long Thành ngày thêm phát triển mở rộng. Chúng tôi rất mong được sự ủng hộ nhiệt tình của các cấp chính quyền nhiều hơn nữa, cũng như quan tâm ủng hộ của Hội Thánh, sự hổ trợ của toàn đạo và nhân sanh.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu tập thể về Thánh Tịnh Long Thành, về vị trí tọa lạc, qua quá trình hình thành và phát triển, về tổ chức Hành Chánh Đạo quy mô chặt chẽ, về thành tích Đạo với Đời của Bổn Đạo Nhị Ban, về cá nhân từng thành viên nêu trên đây, chúng tôi có thể nói chắc rằng, Thánh Tịnh Long Thành là một niềm tự hào lớn, không chỉ của địa phương mà của cả nước.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
HỘI THA1NH CAO ĐÀI CHIẾU MINH - LONG CHÂU
-----------------
THÁNH TỊNH LONG THÀNH
CÁO HOẠT ĐỘNG ĐẠO SỰ
NĂM 2016 CỦA TTLT
-----------
TTLT, ngày 09/ 10/ 2016
(10/10 Bính Thân)
I- Tổ chức :
Họ đạo có Nhị ban - Ban Cai Quản và Ban Trị Sự
Ban Cai Quản có: 8 vị gồm 5 nam 3 nữ. Ban Trị Sự có 3 vị gồm 2 nam 1 nữ. Chức Sắc: Giáo Sư 1 vị nam. Giáo Hữu: 1 vị nam. Lễ Sanh: 20 vị gồm 11 nam 9 nữ. Chức Việc: 3 vị gồm 2 nam 1 nữ. Tổng số tín đồ Nam phụ Lão Ấu. 410..trong đó có Chức Săc - Chức Việc.
II. Phát triển và xây dựng:
*Phát triển
Trong năm:
-Phát triển tín đồ mới.28 vị tín đồ. Trong đó 12 Nam 16 Nữ
-Liểu đạo: 4 vị gồm 2 nam 2 nữ
-Sinh hoạt giáo lý, lễ hội trong phạm vi đăng ký hằng năm với chính quyền địa phương có: 16 cuộc với 900 lượt người dự.
*Xây dựng- sửa chữa như:
-Cây dựng và trang trí các bàn thờ: -Bàn Chánh điện, -bàn Quan Thánh, -bàn Quan Âm, -bàn Hộ Pháp, bàn Di Lạc hoàn tất trị giá 120.000.000đ
-Xây dựng bờ kè: 100.000.000 đồng
III. Tuyên truyền - Huấn luyện:
*Tuyên truyền:
Nội dung truyền về chủ trương của Đảng - Chính sách pháp luật Nhà nước học tập làm theo lời Bác. đề cao cảnh giác kẻ xấu lợi dụng Tôn tuyên truyền kích động, gây rối an ninh trật tự, ảnh hưởng khối Đại đoàn toàng dân tộc. . Có 3 cuộc với 250 lượt người nghe.
*Huấn luyện:
Họ đạo tham gia dự lớp hạnh đường do Ban Khai Minh Giáo Lý Hội Thánh Chiêu Sinh mở lớp. Hoặc những lớp học về pháp lệnh tín ngưỡng Tôn giáo. Quốc phòng an ninh, do quận huyện tỉnh TP triệu tập. có.3 cuộc với 6 lượt người tham dự.
IV. Hoạt động từ thiện xã hội:
-Vận động Mạnh thường quân giúp 02 nhà tình thương trị giá 20.000.000đ
-Phát quà hộ nghèo địa phương cho 320 hộ nghèo trị giá 32.000.000đ
-Kết họp Quận Bình Thủy phát quà hộ nghèo 2.000.000đ
-Kết họp Hội Thánh phát quà hộ nghèo 1.000.000đ
-Gởi cứu trợ bảo lục Miền Trung 2.000.000đ
* Về phục vụ các lễ cúng trong dân gian: Đám tang 4 cuộc, làm tuần 36 cuộc, giao lưu hành đạo lễ hội với các Thánh Thất, Thánh Tịnh, Tôn giáo bạn 32 cuộc.
Tổng số xây dựng và từ thiện xã hội 277.000.000đ trong đó từ thiện 57.000.000đ.
Trên đây là báo cáo đạo sự trong năm 2016 của Thánh Tịnh Long Thành, kính trình đại hội để tường.
BAN CAI QUẢN
NGŨ NHẪN
GS: NGỌC VIỆT THANH
I- NHẪN NHỤC
-Nhẫn là nhịn là chịu đựng phần kém phần thiệt thòi về mình.
-Nhục là hèn kém đáng xấu hổ.
Như vậy nhẫn nhục là chịu đựng sự hèn kém nhục nhã đáng xấu hổ.
Trong trường hợp nào chúng ta phải chịu đựng và sự chịu đựng ấy được coi là nhẫn nhục?
Chúng ta thường nhẫn nhục trong trường hợp bị xúc phạm bởi người bằng mình hoặc dưới mình.
Ví dụ
Như chúng ta cảm thấy bị xúc phạm khi một người nhỏ hơn mình lại hỗn láo với mình. Nhưng khi bị xúc phạm chúng ta vẫn bình thản chịu đựng không có sự phản ứng gì trước sự xúc phạm ấy. Như thế là chúng ta đã nhẫn nhục.
Hoặc một người "bằng vai phải lứa" với chúng ta lại nặng lời hoặc tỏ ra lấn át chúng ta nhưng lúc ấy chúng ta không phản ứng phải chịu đựng phần thiệt thòi về mình đó cũng là sự nhẫn nhục.
Hoặc chúng ta là người nhỏ bị người lớn chèn ép tước đoạt hết quyền lợi phải gánh chịu những vất vả cực nhọc cho người khác. Sự chịu đựng đó được gọi là nhẫn nhục.
Hoặc chịu đựng nhẫn nhục khi rơi vào những hoàn cảnh khốn khó. Chẳng hạn gặp lúc thiếu thốn đói khổ chúng ta không bi quan không ngã gục phải chịu đựng để vượt qua. Sức chịu đựng ấy cũng được coi là nhẫn nhục.
NHẪN NHỤC VỚI NHỮNG TÂM TRẠNG KHÁC NHAU
Nếu bị người khác xúc phạm chúng ta không giữ được bình tĩnh thì sẽ rơi vào tâm sân( nóng nảy). Nhẫn nhục không phải là phản nghĩa của nóng nảy. Nóng nảy là mất bình tĩnh là đưa ra những phản ứng mạnh. Trong khi đó nhẫn nhục là chịu đựng sự xúc phạm mà không phản ứng. Người vượt lên tâm sân sẽ giữ được trầm tĩnh không phản ứng. Nhưng thái độ trầm tĩnh ấy chưa hẳn là nhẫn nhục. Vì ẩn sau vẻ ngoài trầm tĩnh ấy thường có nhiều tâm trạng khác nhau.
Như sự thâm hiểm. Chúng ta biết rằng người có lòng dạ thâm hiểm luôn tỏ ra bình tĩnh không phản ứng trước sự xúc phạm của người khác. Nhưng họ nuôi trong lòng sự oán hận nuôi ước muốn trả thù. Đây là trường hợp rất nguy hiểm.
TRÁNH HIỂU LẦM KHÔNG PHẢI NHẪN NHỤC
Như lầm do nhu nhược. như trường hợp bị hiếp đáp bị xúc phạm nhưng người ta không phản ứng. Mặc dù bên ngoài họ có vẻ như trầm tĩnh nhưng thực chất bên trong họ mang tâm trạng sợ hãi. Đó không phải là nhẫn nhục mà là nhu nhược.
Vì nhẫn nhục khác với những tâm lý ấy. Nhẫn nhục là chịu đựng mọi việc với tâm tha thứ không nhu nhược cũng không nuôi sự giận ghét trong lòng. Vì vậy khi gặp trường hợp bên ngoài trầm tĩnh chúng ta phải xét nội tâm bên trong để đánh giá. Cần phân biệt rõ đâu là nhẫn nhục đâu là thâm hiểm đâu là nhu nhược yếu đuối.
Vì Nhẫn nhục khác với nhu nhược yếu đuối. Chính vì sự nhu nhược yếu đuối nên khi ta lầm lỗi có người góp ý nhưng ta vẫn trơ ra không biết hối hận không biết lỗi vẫn tiếp tục làm. Đó không phải là nhẫn nhục mà gọi là trơ lì, vô tàm, không biết hổ thẹn.
Ví dụ:
Như khi bị phát hiện một người có tật ăn cắp vặt vẫn im lặng tỏ ra bình tĩnh không hổ thẹn coi như không có gì xảy ra. Sự im lặng đó không phải là nhẫn nhục mà trơ lì.
Người vô tàm là người khi mắc phải lỗi lầm được người khác chỉ lỗi vẫn không mắc cỡ không hổ thẹn. Theo ngôn ngữ của người đời đó là người "mặt dày". Những người này thường không biết thiện ác tội lỗi Nhân Quả là người rất đáng sợ.
Trong cuộc sống chúng ta gặp những trường hợp tương tự như nhẫn nhục nhưng thực chất đó là người không có lòng tự trọng vì cầu danh lợi nên chịu hèn kém nịnh bợ luồn cúi. Đó là hạng người vô liêm sỉ không có tiết tháo. Trường hợp này thường xảy ra ngoài đời trong Đạo ít khi gặp phải. Chẳng hạn có người thấy người khác giàu sang bèn lân la kết thân. Khi người giàu tỏ ra khinh thường sai làm hết việc này sang việc khác thậm chí chửi mắng họ cũng cười trừ coi như chẳng có gì quan trọng. Như vậy không thể gọi là nhẫn nhục . Đó là cầu cạnh luồn cúi nịnh bợ. Nhẫn nhục của người đạo là không có sự cầu cạnh không mong muốn điều gì cho mình.
Những người chịu đựng nhục nhã hạ thấp phẩm giá để mong được ích lợi cho mình mà dân gian gọi là " chịu đấm ăn xôi" là người không có liêm sỉ là kẻ tiểu nhân với tư cách tầm thường hèn hạ. Biểu hiện bên ngoài của hạng người này rất giống nhẫn nhục nhưng hoàn toàn không phải. Chúng ta cần chú ý phân biệt cho đúng. Bởi vậy khi tiếp xúc với những người giàu có quyền thế chúng ta phải kiểm soát tâm mình. Nếu bị người ta đối xử không đàng hoàng mà mình vẫn nhịn phải xét lại tâm mình xem việc mình nhịn là nhẫn nhục hay nịnh bợ muốn cầu cạnh điều gì.
Có trường hợp người ta không phản ứng lại việc người khác chèn ép hay xúc phạm mình không phải vì yếu thế mà không muốn sự việc trở nên phức tạp để lại hậu quả xấu. Như thế gọi là người biết nhẫn nhục. Câu chuyện về hai đứa bé với một cái bóp nhặt được trên đường là một ví dụ.
Một thằng bé trông cũng to con đang đi trên đường chợt thấy cái bóp của ai đó đánh rơi. Nó vừa nhặt lên xem thì một đứa bé khác nhỏ hơn nó ở đâu chạy tới đòi chia đôi số tiền có trong bóp. Nó không chịu vì muốn trả lại cho người bị mất. Đang dùng dằng bỗng nó nhìn thấy một người đàn ông loay hoay tìm kiếm một vật gì. Hỏi ra biết cái bóp nhặt được là của ông ta nó vui vẻ trả lại. Người đàn ông mừng quá mở ra xem. Tất cả tiền bạc giấy tờ trong bóp vẫn còn nguyên. Ông bèn lấy ra năm chục ngàn để "hậu tạ" nó. Thằng bé dứt khoát không lấy. Nó giải thích ngắn gọn: Nếu con muốn thì đã lấy hết rồi con không trả lại chú đâu. Nghe vậy ông ta cảm ơn nó rối rít rồi đi. Người đàn ông vừa đi khỏi thằng bé nhỏ hơn nói:
-Mày đưa tao hai lăm ngàn.
- Tiền gì ?
- Vì tao với mày cùng nhặt được ông ta cho năm chục thì phải chia đôi mày hai lăm tao hai lăm.
- Lúc nãy mày không thấy tao trả lại hết cho ông ta rồi à?
- Tao không cần biết ông ta cho năm chục tức mày hai lăm tao hai lăm còn trả là việc riêng của mày tao không biết.
Hai đứa cứ cãi qua cãi lại như vậy một lúc. Thằng nhỏ đòi đánh thằng lớn vì không đưa tiền cho nó. Thằng lớn bỗng đâm đầu chạy. Người ta hỏi nó: "Chẳng lẽ con không đánh lại nó hay sao mà bỏ chạy ?". Nó trả lời: "Đâu có nếu con đánh lại là nó chết con phải chạy để đừng đánh nó".
Đó chính là sự nhẫn nhục đúng nghĩa.
Như vậy người có khả năng mà vẫn chịu đựng không phản ứng không trả đũa là người có sức nhẫn nhục rất cao. Trong cuộc sống ta gặp không ít trường hợp chịu đựng bởi không dám hoặc không đủ sức phản ứng nhưng trong lòng vẫn nuôi ấm ức chờ cơ hội phục thù: " rồi sẽ biết tay ta". Đó không còn là nhẫn nhục nữa.
Nói đến nhẫn nhục người ta thường nhắc lại câu chuyện nổi tiếng: "Tây Thi- Nữ hoàng Ngô quốc". Thời đó Ngô Vương Phù Sai đem quân đánh chiếm nước Việt (không phải Việt Nam bây giờ) và bắt Việt Vương Câu Tiễn về làm nô lệ. Đó là mối nhục lớn đối với một vị vua. Việt Vương Câu Tiễn ngày ngày vẫn hầu hạ vua Ngô một cách chu đáo tận tuỵ. Thậm chí một lần Phù Sai bị bệnh rất nặng các Thái y hoang mang không biết phải làm thế nào Câu Tiễn đã xin được nếm phân Phù Sai để định bệnh. Việc làm của Câu Tiễn khiến vua Phù Sai và các quan trong triều vô cùng cảm phục. Ngô Vương Phù Sai tin rằng vua nước Việt đã hoàn toàn quy phục không còn ý định trả thù. Sau khi khỏi bệnh Phù Sai cho Câu Tiễn trở về nước. Việt Vương Câu Tiễn hằng năm vẫn dâng cống phẩm đều đặn cho vua Ngô. Lúc đầu là vàng bạc châu báu sau là các loại gỗ quý để vua Ngô xây Cô Tô đài cuối cùng là tiến cống mỹ nhân để vua vui chơi giải trí. Trong số các mỹ nhân được dâng nạp có nàng Tây Thi sắc đẹp "nghiêng thành đổ nước". Một mặt vua Câu Tiễn dặn những người đẹp phải làm cho Ngô Vương Phù Sai mê đắm suốt ngày vui chơi trong Cô Tô đài mà quên hết mọi công việc triều chính. Một mặt ông củng cố binh lực và rèn luyện ý chí bằng cách "nằm gai nếm mật". Khi thời cơ đến quân đội của Câu Tiễn kéo sang đánh Phù Sai không kịp trở tay. Cả thành Cô Tô chìm trong biển lửa và Phù Sai cũng chết một cách bi thảm.
Giai đoạn làm nô lệ cho Phù Sai Câu Tiễn đã nhẫn nhục chịu đựng một cách đáng khâm phục. Nhưng đó không phải là sự chịu đựng nhẫn nhục của đạo. Đó là sự thâm hiểm nhẫn nhục nhằm mục đích trả thù.
Hàn Tín ngay từ nhỏ đã bộc lộ tài năng thiên bẩm. Ông rất giỏi về quân sự nghiên cứu binh thơ đồ trận gặp ai cũng bàn bạc. Một lần ra chợ ông ta gặp một kẻ du côn. Hắn đứng dạng chân và yêu cầu ông phải chui qua nếu không hắn sẽ giết. Hàn Tín suy nghĩ một lát rồi chui qua. Người kia cười đắc chí. Hắn cho rằng như vậy không phải anh hùng. Nếu thực sự là anh hùng thì thà chết chứ không chịu nhục. Hắn không biết rằng Hàn Tín là con người nuôi chí lớn. Con người ấy sẵn sàng nhịn nhục để bảo toàn thân mình tránh rắc rối với những việc trước mắt dấu diếm khả năng võ nghệ siêu phàm của mình để sau này còn làm được việc lớn trong thiên hạ. Sau này được làm tướng chẳng những không giận ông còn thưởng cho người kia. Ông muốn cho thiên hạ biết mình không phải là kẻ tiểu nhân. Đây là trường hợp người có chí lớn nên nhịn được những điều nhỏ nhặt.
Trường hợp Mạc Đĩnh Chi của nước ta cũng là tấm gương về nhẫn nhục. Ông sinh ra trong một gia đình rất nghèo cha chết sớm bản thân lại xấu xí. Tuy vậy ông vẫn cố gắng học hành và đỗ Trạng nguyên. Khi đi sứ bên Tàu ông được vua nước ấy nể phục và phong làm Trạng nguyên. Như vậy ông được làm Trạng nguyên cả hai nước . Sự chịu đựng gian khổ để học thành tài của Mạc Đĩnh Chi tuy còn vì mục đích cầu sự nghiệp nhưng tâm ông tốt không làm điều gì ác nên vẫn gần với nhẫn nhục của đạo Phật.
Nhẫn nhục để dập tắt giận dữ chứ không phải dùng nhẫn nhục để gây thù kết oán về sau. Nhẫn nhục để gây thù kết oán là nhẫn nhục tham sân si.
Nhẫn nhục là để làm nhẹ bớt bản ngã của mình không phải để làm tăng bản ngã.
Người tu theo đạo luôn nhẫn nhịn được mọi điều từ điều nhỏ đến điều lớn. Chúng ta nhẫn nhục không phải để cầu mong sự nghiệp mong danh dự. Vì chúng ta quan niệm cái ta này không có thật nên nhẫn nhục của học đạo vẫn khác so với nhẫn nhục của người đời. Nhưng nếu nghĩ sâu hơn chúng ta có chí lớn là cầu thành Phật thì những chuyện khác là nhỏ nhặt cần bỏ qua.
Lấy không giận thắng giận
Lấy thiện thắng không thiện
Lấy thí thắng xan tham
Lấy chơn thắng hư ngụy
Với hận diệt hận thù
Ðời này không có được.
Không hận diệt hận thù
Là định luật ngàn thu ( Kinh Pháp cú ) Nhẫn nhục thế nào cho đúng ?
Từ chuyện vị vua rời bỏ ngai vàng (tiền thân của Đức Phật) ấy chúng ta liên hệ đến trường hợp vua Trần Thái Tông ở Việt Nam. Khi ông mới lên ngôi Mông Cổ kéo quân sang xâm lược nuớc ta. Lịch sử còn ghi lại vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu cỏ cây không mọc được đến đó. Quân Mông Cổ rất hùng mạnh. Chúng đem quân xâm chiếm khắp nơi từ châu Á đến châu Âu. Bởi vậy khi nghe tin Mông Cổ sắp đem quân sang đánh nước ta vua Trần Thái Tông rất lo sợ. Ngài nghĩ rằng nếu đương đầu với chúng chắc chắn sẽ tắm máu không biết bao nhiêu sinh linh vô tội. Ngài bàn với Thái sư Trần Thủ Độ nên đầu hàng cho muôn dân thoát khỏi cảnh núi xương sông máu. Ông Trần Thủ Độ trả lời một cách cương quyết : " Nếu Bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu thần đi đã". Lúc đó ông Trần Thủ Độ cương quyết chiến đấu vì ông có niềm tin là mình sẽ chiến thắng. Dù có quyết đoán và đôi khi thủ đoạn nhưng quyết tâm của ông đã giúp chúng ta chiến thắng quân Mông Cổ mở ra một trang sử oai hùng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Cho đến bây giờ thế giới vẫn chưa hết băn khoăn không hiểu vì sao một đất nước nhỏ bé như Việt Nam lại chiến thắng được quân Mông Cổ. Người ta đặt vấn đề nghiên cứu lại những bài học chiến thắng quân Mông Cổ của Việt Nam.
Như vậy việc Trần Thủ Độ cũng như các đời vua Trần sau này quyết tâm chiến đấu chống Mông Cổ mà không nhẫn nhục là đúng hay sai? Phải chăng hành động chống lại ngoại xâm một cách ngoan cường như vậy là không đúng với hạnh nhẫn nhục của đạo Phật?
Ở đây chúng ta cần lưu ý một điều ở vào hoàn cảnh của các vị ấy thì không thể nghĩ đến cá nhân nữa mà phải đặt vấn đề đại thể vấn đề của quốc gia dân tộc. Cho nên các vua Trần quyết đánh cũng vì dân chứ không phải vì sự nghiệp của riêng mình.
Vẫn biết rằng nhẫn nhục là Đạo đức cao quý mà mỗi chúng ta phải tu tập rèn luyện nhưng không phải trong bất kỳ tình huống nào chúng ta cũng nhẫn nhục. Chúng ta cần lưu ý đến quyền lợi của nhiều người mà có thái độ ứng xử phù hợp. Với bản thân mình một khi đã tu hạnh vô ngã khiêm hạ thì chúng ta sẽ nhẫn nhục được. Nhưng khi biết thái độ quyết định của mình có liên quan đến quyền lợi của mọi người chúng ta phải cân nhắc. Trong đánh giá người khác cũng vậy chúng ta phải xem thái độ ứng xử của họ liên quan đến lợi ích cá nhân hay quyền lợi của nhiều người không được đánh giá một cách phiến diện một chiều.
II- NHẪN KIÊN
Có lẽ đức tính được người đời ca tụng nhiều nhất là tính kiên nhẫn. Từ kiên nhẫn có nhiều nghĩa hơi khác nhau tùy theo từng ngữ cảnh. Khi thì nó có nghĩa kiên trì, hoặc không bỏ cuộc; hoặc không quá nóng lòng chờ kết quả, hoặc cứ bình tĩnh chờ thời gian đến; hoặc có nghĩa nhẫn nhục chịu đựng khó khăn. Tùy theo y’ nghĩa khác nhau, chúng ta có luyện tập kiên nhẫn khác nhau.
1. Kiên nhẫn là biết thời gian tính. Đây là kiên nhẫn người ta nói đến thường nhất, thực tế nhất, và cần ít công phu nhất.
Bất cứ điều gì trên đời cũng cần thời gian. Nếu nấu cơm cần 20 phút để cơm chín, thì ta không thể tăng lửa cao gấp 5 lần và 4 phút sau thì xong nồi cơm… cháy. Kiên nhẫn là biết thời gian đòi hỏi cho một vấn đề, chờ thời gian đó đến. Đây thuần túy là kiến thức và kinh nghiệm.
Mỗi vấn đề, mỗi công việc, đều có những chu trình riêng và những mốc thời gian cho chu trình. Người hiểu vấn đề thì kiên nhẫn đợi thời gian, làm việc theo chu trình thời gian. Người không hiểu thì bồn chồn nóng nảy “Tại sao chưa thấy gì?” và làm thêm điều gì đó chưa nên làm, vì vậy mà hỏng chuyện. Cho nên, việc gì chưa biết chưa rành, thì học người có kinh nghiệm hơn chỉ lại.
Chú sư tử rình mồi, biết là dòng suối này thường có nai đến uống nước, cho nên cứ kiên nhẫn nằm trong bụi rậm, hết trưa đến chiều đến tối, hôm nay chưa có, ngày mai cũng phải có. Căn bản thời gian tính này mà còn không biết, và không hành động theo thời gian, thì nhất định là phải đói.
2. Kiên nhẫn là kiên trì cho đến lúc thành công. Đây là mức cao hơn của kiên nhẫn, và là yếu tố số một của thành công trong các dự án. Nếu ta có một mục đích, và mắt ta không rời mục đích đó, cứ gắng công đi đến mục đích dù mưa gió bão bùng hay động đất, thì ta sẽ đến mục đích một ngày nào đó. Đây thuần túy là vấn đề y’ chí. Chúng ta đã nói đến vấn đề này trong bài Kiên trì—Yếu tố số một của thành công.
Kiên trì ở đây, ngoài yếu tố “đi hoài cũng tới đích”, nó còn hàm y’ nghị lực chiến thắng 3 lọai tiêu cực trên đường đi: tiêu cực từ chính mình, tiêu cực từ hoàn cảnh, và tiêu cực từ người khác.
· Tiêu cực từ chính mình là không tự tin vào mình, không tin là mình có thể có tài năng, không tin là mình có thể thành công. Người không tin vào mình thì không bao giờ đến đích vì họ không bao giờ đi, vì họ tin là họ không đủ sức đi. Đây là chưa đánh đã thua.
Tiêu cực từ chính mình còn là ngượng ngùng, ngại ngùng, không dám đứng dậy nổi bật lên, chỉ muốn chìm vào đám đông cho thoải mái, cho nên không dám làm điều gì vượt trội.
Muốn tự tin vào chính mình thì chỉ phải lăn vào chiến trận để biết là mình thực ra cũng không tồi. Như học trò học võ, cách duy nhất để tự tin là ra sân đấu. Mấy hôm đầu ăn đòn hơi nhiều, mấy hôm sau ăn đòn ít hơn, và lại thấy mình cũng cho đối phương ăn được vài đòn. Thế là có tự tin.
Nếu cứ để sợ hãi trong lòng mình níu mình lại, không cho mình vào chiến trận, không cho mình ăn đòn, thì mình sẽ sợ hãi và thiếu tự tin cả đời.
· Tiêu cực từ hoàn cảnh là đổ lỗi cho hoàn cảnh. Nhà tôi nghèo, tôi có tật, tôi không được thông minh… Cứ mang cái yếu của mình ra để biện minh cho sự thiếu thành công của mình.
Thành công không lệ thuộc vào cái yếu của mình, mà chỉ lệ thuộc vào cái mạnh của mình. Ví dụ: Giải vô địch toán không biết nhà mình nghèo hay giàu, mà chỉ biết cái đầu mình giỏi toán đến mức nào. Vậy thì, đừng nói nhà tôi nghèo, mà hãy nói tôi có cái đầu nhậy toán. Giải vật tay không biết bạn bị mất một chân, mà chỉ biết bạn có cánh tay vô địch. Vậy thì đừng nói tôi mất một chân, hãy nói tôi có cánh tay lực lưỡng.
Đổ lỗi cho những yếu kém của hoàn cảnh là suy nghĩ thiếu luận lý.“Thành công của bạn không biết đến các điểm yếu của bạn, và chỉ biết chiều theo sức mạnh của bạn.” Vậy thì, đừng nói đến các điểm yếu của hoàn cảnh của mình. Hãy chú tâm đến những điểm mạnh của mình mà phát triển.
· Tiêu cực từ những người khác là những chê bai, chế giễu, chống đối, cười cợt… Nếu bạn có một ý tưởng thật siêu, thì chỉ có một mình bạn, và một thiểu số cực kỳ nhỏ, biết nó là siêu. Đa số người còn lại không thể biết đó là ý siêu, vì nếu đa số biết đó là ý siêu, nó nhất định phải là ý xoàng. Cái thật hay, chỉ một số nhỏ người có thể thấy. Vì vậy, bạn sẽ bị đám đông chế nhạo. Bạn có đủ tự tin để phe lờ họ và đi suốt con đường không?
3. Kiên nhẫn là nhẫn nhục, nhẫn nhịn. Đây là ý nghĩa cao nhất của kiên nhẫn. Đây không còn là thành công trong vài dự án, và là hoàn toàn làm chủ tâm mình, làm chủ đời mình, thành công cho cả đời mình. Đây là nhẫn nhục mà ta đã nói trong bài Một sự nhịn là chín sự lành, là khiêm tốn và không còn cái tôi, là mẹ đẻ của tất cả các kỹ năng sống khác, mà ta đã nói trong bài Những kỹ năng sống, và Làm thế nào để khiêm tốn.
Khi không còn “cái tôi” thì ta khiêm tốn, ta nhẫn nhục, ta kiên nhẫn… ta làm chủ tâm mình. Ta có thể có được những kỹ năng sống khác một cách tự nhiên.
Trong đa số các khóa học về tư duy tích cực trên thị trường ngày nay, chúng ta chỉ học được đến điểm thứ nhất và thứ 2 trên đây. Tuy nhiên, điểm thứ 3 này mới là nền tảng sâu nhất của tư duy tích cực.
Chúc các bạn một ngày vui.
III- NHẪN NHỊN
Những câu mà bạn nói ,thì có thể tách cặn kẽ ra như thế này :
-NHẪN NHỮNG ĐIỀU GÌ / MÀ NGƯỜI ĐỜI ( PHÀM TRẦN ) KHÔNG THỂ NHẪN NHỊN ĐƯỢC !
-LÀM NHỮNG ĐIỀU GÌ ( mang tính thiện & tích-cực) / MÀ NGƯỜI ĐỜI ( phàm trần ) KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC !
- Tất cả để làm chi vậy ? Đó là để cho TÂM thường an lạc .TÂM được bình ( trái nghĩa với từ LOẠN ).
VẬY THÌ : NHẪN LÀ GÌ ? Cơ-bản đó là nhẫn nhục ,nhẫn nhịn ,nhẫn nại .Một sự nhường nhịn ,nhún nhường mà không NHỤC .Bởi vì theo PhẬT -PHÁP thì CÁI TA ( BẢN NGÃ ) sẽ được DIỆT đi .Lúc ấy TA không còn là TA ( cá-nhân bản thể ) ,mà TA là một phạm trù theo ý -nghĩa của ngôi thứ nhất số ít -hiện hữu giữa đời này mà thôi .Nói tóm lại lúc đã DIỆT BẢN NGÃ rồi thì ta không còn kiêu -căng ,hay giận hờn ,oán trách nữa
.Đó là lúc ta học được chữ NHẪN thành công rồi đấy ! LÀM hay còn gọi là hành động ,hành sự ,hoạt động .Người thường có dám đem người nghèo khổ vào nhà cho ăn mặc đầy đủ ,nấu cơm nước cho ăn no đủ không ? Nhưng người Phật-tử giác ngộ ,họ lại làm được .Một đứa bé lở loét có ai nhận chăm sóc không ? Nhưng ni-cô ,chú tiểu ....làm được . Khi làm điều tốt .Khi nhịn nhục được .Con người ta sẽ thấy mọi khó -khăn đều đi qua nhẹ nhàng .Một tên say rượu ,cầm dao chửi bới ta .Ta lặng lẽ như không hề hay biết ,ta lặng lẽ âm thầm bỏ đi .Cuối cùng người khác chạy đến gây hấn với tên say kia ,và họ dùng dằng lấy dao đâm chết hắn .Như thế người kia bị tù đày ,còn kẻ say phải chết ! Vậy 2 người kia -TÂM có an lạc không ? Còn về TA ,người nhẫn nhịn -có an lạc không ?
Ai không biết nhẫn nhịn kẻ đó chỉ có thất bại mà thôi!
Nói đến nhẫn nhịn không ít người nghĩ ngay đến hình ảnh một kẻ yếu đuối cúi đầu cam chịu một kẻ khác đang lăng nhục, xỉ vả mình. Đó là một cách hiểu giản đơn, nông cạn. Nhẫn nhịn là phẩm chất lớn của con người được tôi luyện trong thực tiễn khắc nghiệt, làm cho nó trở thành kẻ mạnh. Đó là phẩm chất mà con người có được trong cuộc chinh phục thiên nhiên, chinh phục xã hội và chinh phục chính bản thân mình.
Trước thiên nhiên, con người là một sinh vật nhỏ bé. Người nông dân một nắng hai sương, dựng nhà, làm vườn, gieo trồng hoa màu. Một trận bão tràn qua, nhà đổ, vườn tan, cánh đồng mất trắng. Người nông dân lặng lẽ nhặt nhạnh vật liệu, dựng lại nhà, sửa sang vườn tược, trồng cây chống đói, chuẩn bị mùa sau. Nhẫn nhịn sẽ thai nghén trí tuệ, nảy sinh sáng tạo. Từ phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, con người vươn tới chinh phục thiên nhiên. Xã hội là do các nhóm người, các cá nhân họp lại mà thành. Các nhóm người và các cá nhân khác nhau đủ thứ. Trong gia đình, muốn yên ấm con cái nhẫn nhịn cha mẹ, anh em nhẫn nhịn nhau....tự nhiên có được gia đình đoàn tụ. Trong xã hội, muốn duy trì quan hệ tốt đẹp con người thường nhẫn nhịn, tự kiềm chế. Nhẫn nhịn là chất keo kết dính mọi người, làm nảy sinh các phẩm chất tốt đẹp như lòng vị tha, đức hy sinh, tình chung thuỷ, ý thức chuộng tín nghĩa. Bất kỳ lúc nào người khác làm tổn thương mình nhẫn nhịn là cách giải quyết tốt đẹp nhất. Người xưa nói: "nhịn nhất thời gió yên sóng lặng. Lùi một bước trời biển mênh mông". Người nông nổi không biết kiềm chế, thường đẩy các quan hệ vào ngõ cụt, tạo thành những kết cục xấu. Quan hệ người và người vốn rất mong manh. Một lời nói sơ suất, một cái nhìn chế nhạu nỗi đau người khác, một lần phản bội, đều vô tình phá vỡ quan hệ và thai nghén các mâu thuẫn, xung đột. Kẻ xúc phạm người khác là kẻ yếu và trước sau sẽ bị cô lập.
Bản thân mỗi người cũng phải biết nhẫn nhịn. Muốn đi chơi nhưng việc chưa xong, phải kìm nén ham muốn lại. Muốn học cao, giàu sang, nhưng thời cơ chưa tới, đều phải đợi chờ. Con người sinh ra có số phận khác nhau. Người đẹp kẻ xấu, người yếu kẻ mạnh, có người không may lại bị tật nguyền. Mỗi người phải tự chấp nhận thực tế của chính mình mà đi lên. Trong cùng một hoàn cảnh, người nhẫn nhịn chịu thương chịu khó, phấn đấu liên tục, có lý tưởng cao đẹp, nghịch cảnh biến thành thiên đường. Người không biết nhẫn nhịn thì nôn nóng đòi hỏi, bất chấp quy luật, đi đâu cũng vấp, nghịch cảnh là địa ngục.
Nói tóm lại, nhẫn nhịn khiến con người từ bị động chuyển sang chủ động, từ thế yếu chuyển sang thế mạnh, trong đắng cay nếm được vị ngọt ngào. Nhẫn nhịn là học phí phải trả để có được thiên nhiên, xã hội và cả bản thân mình. Nhẫn nhịn là phẩm chất của kẻ mạnh có tầm mắt nhìn xa!
Có lẽ những gì mình nói ở đây chỉ là một góc nhỏ của câu "Nhẫn nhịn là đức tốt của kẻ mạnh có tầm nhìn xa". Nhưng mình vẫn nói lên suy nghĩ của mình, hi vọng một giúp một phần nhỏ để cho các bạn hiểu được nước ta đang ở vào trong hoàn cảnh nào, và các bạn trẻ cần bi
Nhẫn nhịn là gì ? muốn nhẫn nhịn phải làm gì ?
Câu trả lời hay nhất:
Những câu mà bạn nói ,thì có thể tách cặn kẽ ra như thế này :
-NHẪN NHỮNG ĐIỀU GÌ / MÀ NGƯỜI ĐỜI ( PHÀM TRẦN ) KHÔNG THỂ NHẪN NHỊN ĐƯỢC !
-LÀM NHỮNG ĐIỀU GÌ ( mang tính thiện & tích-cực) / MÀ NGƯỜI ĐỜI ( phàm trần ) KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC !
- Tất cả để làm chi vậy ? Đó là để cho TÂM thường an lạc .TÂM được bình ( trái nghĩa với từ LOẠN ).
VẬY THÌ : NHẪN LÀ GÌ ? Cơ-bản đó là nhẫn nhục ,nhẫn nhịn ,nhẫn nại .Một sự nhường nhịn ,nhún nhường mà không NHỤC .Bởi vì theo PhẬT -PHÁP thì CÁI TA ( BẢN NGÃ ) sẽ được DIỆT đi .Lúc ấy TA không còn là TA ( cá-nhân bản thể ) ,mà TA là một phạm trù theo ý -nghĩa của ngôi thứ nhất số ít -hiện hữu giữa đời này mà thôi .Nói tóm lại lúc đã DIỆT BẢN NGÃ rồi thì ta không còn kiêu -căng ,hay giận hờn ,oán trách nữa
.Đó là lúc ta học được chữ NHẪN thành công rồi đấy ! LÀM hay còn gọi là hành động ,hành sự ,hoạt động .Người thường có dám đem người nghèo khổ vào nhà cho ăn mặc đầy đủ ,nấu cơm nước cho ăn no đủ không ? Nhưng người Phật-tử giác ngộ ,họ lại làm được .Một đứa bé lở loét có ai nhận chăm sóc không ? Nhưng ni-cô ,chú tiểu ....làm được . Khi làm điều tốt .Khi nhịn nhục được .Con người ta sẽ thấy mọi khó -khăn đều đi qua nhẹ nhàng .Một tên say rượu ,cầm dao chửi bới ta .Ta lặng lẽ như không hề hay biết ,ta lặng lẽ âm thầm bỏ đi .Cuối cùng người khác chạy đến gây hấn với tên say kia ,và họ dùng dằng lấy dao đâm chết hắn .Như thế người kia bị tù đày ,còn kẻ say phải chết ! Vậy 2 người kia -TÂM có an lạc không ? Còn về TA ,người nhẫn nhịn -có an lạc không ?
Ai không biết nhẫn nhịn kẻ đó chỉ có thất bại mà thôi!
Nói đến nhẫn nhịn không ít người nghĩ ngay đến hình ảnh một kẻ yếu đuối cúi đầu cam chịu một kẻ khác đang lăng nhục, xỉ vả mình. Đó là một cách hiểu giản đơn, nông cạn. Nhẫn nhịn là phẩm chất lớn của con người được tôi luyện trong thực tiễn khắc nghiệt, làm cho nó trở thành kẻ mạnh. Đó là phẩm chất mà con người có được trong cuộc chinh phục thiên nhiên, chinh phục xã hội và chinh phục chính bản thân mình.
Trước thiên nhiên, con người là một sinh vật nhỏ bé. Người nông dân một nắng hai sương, dựng nhà, làm vườn, gieo trồng hoa màu. Một trận bão tràn qua, nhà đổ, vườn tan, cánh đồng mất trắng. Người nông dân lặng lẽ nhặt nhạnh vật liệu, dựng lại nhà, sửa sang vườn tược, trồng cây chống đói, chuẩn bị mùa sau. Nhẫn nhịn sẽ thai nghén trí tuệ, nảy sinh sáng tạo. Từ phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, con người vươn tới chinh phục thiên nhiên. Xã hội là do các nhóm người, các cá nhân họp lại mà thành. Các nhóm người và các cá nhân khác nhau đủ thứ. Trong gia đình, muốn yên ấm con cái nhẫn nhịn cha mẹ, anh em nhẫn nhịn nhau....tự nhiên có được gia đình đoàn tụ. Trong xã hội, muốn duy trì quan hệ tốt đẹp con người thường nhẫn nhịn, tự kiềm chế. Nhẫn nhịn là chất keo kết dính mọi người, làm nảy sinh các phẩm chất tốt đẹp như lòng vị tha, đức hy sinh, tình chung thuỷ, ý thức chuộng tín nghĩa. Bất kỳ lúc nào người khác làm tổn thương mình nhẫn nhịn là cách giải quyết tốt đẹp nhất. Người xưa nói: "nhịn nhất thời gió yên sóng lặng. Lùi một bước trời biển mênh mông". Người nông nổi không biết kiềm chế, thường đẩy các quan hệ vào ngõ cụt, tạo thành những kết cục xấu. Quan hệ người và người vốn rất mong manh. Một lời nói sơ suất, một cái nhìn chế nhạu nỗi đau người khác, một lần phản bội, đều vô tình phá vỡ quan hệ và thai nghén các mâu thuẫn, xung đột. Kẻ xúc phạm người khác là kẻ yếu và trước sau sẽ bị cô lập.
Bản thân mỗi người cũng phải biết nhẫn nhịn. Muốn đi chơi nhưng việc chưa xong, phải kìm nén ham muốn lại. Muốn học cao, giàu sang, nhưng thời cơ chưa tới, đều phải đợi chờ. Con người sinh ra có số phận khác nhau. Người đẹp kẻ xấu, người yếu kẻ mạnh, có người không may lại bị tật nguyền. Mỗi người phải tự chấp nhận thực tế của chính mình mà đi lên. Trong cùng một hoàn cảnh, người nhẫn nhịn chịu thương chịu khó, phấn đấu liên tục, có lý tưởng cao đẹp, nghịch cảnh biến thành thiên đường. Người không biết nhẫn nhịn thì nôn nóng đòi hỏi, bất chấp quy luật, đi đâu cũng vấp, nghịch cảnh là địa ngục.
Nói tóm lại, nhẫn nhịn khiến con người từ bị động chuyển sang chủ động, từ thế yếu chuyển sang thế mạnh, trong đắng cay nếm được vị ngọt ngào. Nhẫn nhịn là học phí phải trả để có được thiên nhiên, xã hội và cả bản thân mình. Nhẫn nhịn là phẩm chất của kẻ mạnh có tầm mắt nhìn xa!
Có lẽ những gì mình nói ở đây chỉ là một góc nhỏ của câu "Nhẫn nhịn là đức tốt của kẻ mạnh có tầm nhìn xa". Nhưng mình vẫn nói lên suy nghĩ của mình, hi vọng một giúp một phần nhỏ để cho các bạn hiểu được nước ta đang ở vào trong hoàn cảnh nào, và các bạn trẻ cần bi
VI- NHẪN NHƯỢNG
Thứ chất độc gây mục xương, ung thư tủy, giảm hồng cầu lại được tiêm vào heo trước khi giết mổ. Dân mua thịt về ăn thì khác gì tiêm thuốc này vào người dân luôn. Bảo sao ko bệnh tật, chết sớm. Xong rồi lại phạt hành chính thôi chứ gì? Lợi nhuận nó còn gấp hàng trăm lần mức phạt đó. Tiền vẫn thu về ầm ầm, quả báo ở đâu cho việc làm thất đức này?
Gần hai năm giờ mới phát hiện. Mỗi ngày 300 con heo được cơ sở này tiêm thứ thuốc này. TP HCM ko biết có bao nhiêu cơ sở. Đủ hiểu là nó độc hại cỡ nào. Hàng trăm con heo bị bơm nước và thuốc an thần.
Công an Bình Dương chiều 23/3 cùng Chi cục Thú y kiểm tra cơ sở thu mua heo ở thị xã Bến Cát. Lực lượng chức năng bắt quả tang 6 công nhân đang dùng xô có gắn vòi, bơm nước vào miệng heo và tiêm thuốc an thần vào 10 con heo. Chuồng bên cạnh, hơn 200 con heo đã được bơm nước và thuốc, ngủ li bì.
Bước đầu chủ cơ sở Trần Quốc Thái (33 tuổi) khai, mua heo từ các hộ nuôi tại tỉnh Bến Tre, rồi đưa về để bơm nước nhằm tăngtrọng. Heo bị tiêm thuốc an thần sẽ dễ bơm nước và yên ổn trong quá trình chuyển đến lò giết mổ ở quận Bình Thạnh, TP HCM.
Theo điều tra, cơ sở đã hoạt động từ tháng 9/2014, mỗi ngày ông Thái thuê 3 ôtô vận chuyển gần 300 con heo lên đây để bơm nước và tiêm thuốc an thần.
Tại hiện trường, cơ quan công an thu giữ bơm tiêm, 32 xô nước có gắn vòi, 48 chai thuốc an thần nhãn hiệu prozil fort, trong đó 44 chai đã sử dụng.
Nhiều lọ thuốc an thần prozil fort tại hiện trường. Ảnh: Nguyệt Triều
Theo khuyến cáo của cơ quan chức năng, thuốc an thần prozil fort không được dùng cho heo chuẩn bị giết thịt. Heo bị tiêm thuốc phải để sau 7 ngày mới được giết mổ. Người tiêu dùng thường xuyên ăn thịt heo này sẽ có nguy cơ gây mục xương, ung thư tủy, giảm hồng cầu.
Nhẫn, nhường” không phải hèn yếu mà là khí chất của người quân tử
Trong “Luận ngữ” của Khổng Tử, Tử Cầm hỏi Tử Cống rằng:“Thầy Khổng đi qua các nước đều được tham dự việc chính sự của các nước ấy. Đó là do người ta chủ động yêu cầu hay là do thầy cầu xin vậy?”
Tử Cống nói: “Thầy Khổng ôn hòa, lương thiện, cung kính, cần kiệm, khiêm tốn nên được tư cách như vậy. Nhưng phương pháp cầu của thầy có lẽ cũng khác với phương pháp cầu của người khác.”
Ôn nhu, lương thiện, cung kính, cần kiệm, khiêm nhượng là năm loại mỹ đức. Người ôn hòa thì tướng mạo hiền lành, người hiền lương thì tâm thiện, người cung kính thì bên trong nghiêm túc, thanh sạch, người cần kiệm thì không xa hoa lãng phí, người khiêm nhượng là biết nhường nhịn. Người có năm loại mỹ đức này thì ở thời khắc nào, nơi chốn nào cũng giúp người, làm việc thiện.
Trong “Lễ Ký” cũng viết: Người học rộng biết nhiều mà có thể khiêm nhường, đối với việc thiện thì không bê trễ, người như vậy được xưng là quân tử. Người quân tử không yêu cầu người khác mà ở bất cứ lúc nào, việc nào đều tự yêu cầu bản thân mình tốt, không làm việc có lỗi, như thế giao tình mới có thể được duy trì.
NHƯỜNG NGÔI VỊ
Minh họa Đế Nghiêu đi thị sát thiên hạ
Đế Nghiêu tên là Phóng Huân, là người cung kính, tiết kiệm, đi khắp bốn phương, hết mình quan tâm đến dân chúng thiên hạ. Ông là vị Hoàng đế có đạo đức thuần khiết, ôn hòa và khoan dung.
Trong bảy mươi năm tại vị, ông luôn để ý tìm người tài đức để truyền lại ngôi vị. Vì vậy, ông công khai để tất cả mọi người đều có thể đề cử, ngay cả người có địa vị thấp kém nhưng có tài đức cao.
Về sau này, có một người nghèo khổ, tên là Ngu Thuấn, là người hết mực hiếu tâm hiếu thuận với cha mẹ. Ngu Thuấn mồ côi mẹ từ sớm. Ông có một người cha hồ đồ, người mẹ kế nói lời không thành thật, người em trai ngạo mạn vô lễ, nhưng Ngu Thuấn vẫn hòa thuận ở cùng.
Đế Nghiêu gả hai người con gái của mình cho Ngu Thuấn để quan sát đức hạnh của ông. Sau ba năm bàn việc chính sự với Đế Nghiêu thì ông được truyền ngôi. Nhưng Ngu Thuấn một mực không chịu, muốn truyền tặng cho người có đức cao. Đến một ngày tháng giêng, Ngu Thuấn mới tiếp nhận ngôi vị.
ĐẠO NHÚN NHƯỜNG
Lễ nhượng có ý nghĩa rất rộng lớn, nhưng có thể hiểu theo nghĩa thông thường là nhún nhường, nhường nhau theo nghi lễ…
Trong “Tả truyền” viết: Nhường là đứng đầu trong lễ. Trong “Lễ ký” cũng viết: Người quân tử cung kính, tiết kiệm, thoái nhường bởi vì thấu hiểu lễ.
Người xưa cũng viết: Có điều ức mà không dám bất chấp thì chính là tổn (tổn là ước thúc, khắc chế bản thân), có hạn định mà không dám vượt qua thì đó là lễ tiết. Ý nói, người quân tử ngoài đối với người khác phải cung kính thì đối với bản thân phải biết khắc chế, dùng thái độ khiêm nhượng để chứng tỏ lễ tiết của mình.
Trong “Dịch. Khiêm” viết rằng: “Khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục dã”, ý nói người quân tử lấy thái độ khiêm tốn để giữ mình, tu dưỡng mình, cho mình là thấp hơn người khác.
Trong “Lễ ký” cũng viết: “Trưởng giả vấn, bất từ nhượng nhi đối, phi lễ dã”, ý nói rằng khi người bề trên mà hỏi, nếu không khiêm nhường một chút mà trả lời thì sẽ không hợp lễ.
Trong đó cũng viết: “Phàm dữ khách nhập giả, mỗi môn nhượng vu khách”, ý nói khi cùng khách vào cửa thì phải nhường người khách vào cửa trước, ấy mới là hợp quy định của lễ.
Trong “Tự hối” ghi rằng: “Tiên nhân hậu kỷ vị chi nhượng”, tức là người trước mình sau thì được gọi là nhượng (nhường).
ĐỨC HẠNH NHẪN NHƯỜNG
Trong “Tả truyền” viết: “Trung, đức chi chính dã; tín, đức chi cố dã; ti nhượng, đức chi cơ dã”, ý nói “trung” (trung thành, trung thực, hết lòng) là đức hạnh thuần chính. “Tín” là đức hạnh kiên trung, tin tưởng vững chắc. “Khiêm nhượng” là nền tảng, là cơ sở của đạo đức.
Hàn Tín lúc trẻ sống bần cùng. Một lần, có một kẻ vô lại chặn Hàn Tín lại và nói: “Ngươi mặc dù cao lớn, thường đeo kiếm nhưng kỳ thực cũng là kẻ nhát gan thôi.”
Hắn còn ở trước mặt mọi người vũ nhục Hàn Tín rằng: “Ngươi khoác bảo kiếm làm gì? Ngươi dám sát nhân không? Có can đảm thì giết ta đi!”
Hàn Tín thầm nghĩ: “Ta giết hắn là việc quá dễ dàng, nhưng sát nhân là phải đền mạng, hơn nữa cũng là việc không đáng.” Người kia liền cười to và nói: “Ngươi không dám giết ta, vậy ngươi phải chui háng ta đi nếu không đừng hòng đi qua!” Trong tiếng cười nhạo của cả đám đông bọn họ, Hàn Tín đã thực sự chui qua háng của kẻ vô lại. Ai cũng cho rằng Hàn Tín thực sự là một kẻ nhát gan.
Sau khi Hàn Tín công thành đã triệu kiến kẻ vô lại từng vũ nhục mình năm xưa đến gặp mặt và phong cho hắn chức trung úy.
Hàn Tín có phải là không có khả năng giết chết được kẻ vô lại kia? Kỳ thực, Hàn Tín biết được rằng giết chết kẻ vô lại ấy là không có ý nghĩa. Hàn Tín có thể nhẫn được sự vũ nhục nhất thời mà làm thành được sự nghiệp sau này.
V- NHẪN NẠI
nhẫn nại nghĩa là gì? Ở đây bạn tìm thấy 5 ý nghĩa của từ nhẫn nại. Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa nhẫn nại mình
-Chịu đựng bền bỉ. | : ''Đức '''nhẫn nại''', cần cù của dân ta
-chịu đựng kiên trì, bền bỉ để làm việc gì nhẫn nại chờ đợi biết nhẫn nại, chịu đựng Đồng nghĩa: kiên nhẫn
-Chịu đựng bền bỉ: Đức nhẫn nại, cần cù của dân ta.
-Biết nhẫn nại và kiên trì
-Nhẫn nại trường kỳ tri mã lực (ngựa chạy đường dài mới biết ngựa hay)
-Nhẫn nại và kiên trì là hai đức tính phải qua rèn luyện mới có được. Khi bạn bắt đầu làm trang web, dường như hai đức tính này là thứ bạn cần nhất để đi đến thành công. Cho dù mục đích làm web của bạn là gì đi chăng nữa, bạn cũng cần phải nhẫn lại và kiên trì.Nói một cách hình tượng, thì làm web cũng giống như người nông dân trồng cây ăn quả vậy. Nó luôn có giai đoạn reo mầm, chăm bón, bắt sâu tỉa cảnh … càng được chăm sóc kỹ lưỡng thì sau này cây sẽ càng cho bạn nhiều trái và ngược lại. Bạn không thể hy vọng vừa reo mầm hôm nay mà đã có trái vào ngày mai.
-Khi bạn quyết định tạo ra một trang web về một chủ đề bạn ưa thích. Cho dù mục đích của bạn chỉ là chia sẻ thông tin với mọi người. Nhưng trước khi để mọi người biết đến trang web của bạn, thì bạn phải cần xây dựng nội dung, thu thập thông tin và “chăm bón” cho trang web của bạn. Lúc này bạn sẽ cần đến chữ “Nhẫn”. Nếu bạn quá nóng vội muốn đưa trang web đến mọi người trong khi trang web chưa thực sự hoàn thiện như phần thiết kế chưa ổn, bài viết quá ít và thông tin chưa phong phú. Nóng vội ở khâu này có thể sẽ làm trang web của bạn mất điểm trong mắt người đọc.
Nhưng nhẫn nại thôi thì chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ. Khi đã lập mục tiêu phát triển, bạn cần kiên trì làm theo kế hoạch đã vạch sẵn. Có thể trong thời gian đầu bạn viết rất nhiều mà chẳng ai đọc những gì bạn viết, chẳng có lời comment nào cho những gì bạn làm vả chẳng có ai cổ suý những đóng góp của bạn. Nhưng bạn phải biết kiên trì và tin tưởng vào sự thành công của con đường mình đã chọn. Nếu mục tiêu của bạn là sẽ ít nhất post một ngày 2 bài, thì cho dù cả vài tháng không có ai vào trang web của bạn, bạn cũng vẫn nên kiên trì làm theo những gì mình đã hoạch định. Khi bạn làm tốt điều này, một ngày nào đó sự vất vả của bạn sẽ đường đền đáp xứng đáng.
Kết luận
Nhẫn nại có nghĩa là "nhịn nhục" và "nín thinh". Khi người lớn la rầy kẻ dưới, dầu rầy oan, kẻ dưới nhịn nhục không nói lại, hoặc vì lễ nghi, hoặc vì quyền lợi. Đó không phải là nhẫn nại.
Trái lại, người dưới mình, nhỏ hơn mình, nói hoặc là làm những điều cho mình bực tức, mà mình không bực tức. Đó mới là nhẫn nại.
Đức Phật dạy rằng lòng nhẫn nại là nguồn gốc các pháp lành. Nếu ai làm khổ ta, ta hãy nhẫn nại mà suy xét rằng đó là cái nghiệp của ta vì kiếp trước ta đã làm khổ họ, nên kiếp này ta phải trả.
Sự nhẫn nại ví cũng như lửa, để thiêu đốt các sự oán thù sân hận, tật đố và oan trái.Phật nói: ai thương Như Lai phải có lòng nhẫn nại.
Phương ngôn có câu: gặp Phật thì tu, gặp quỷ thì trừ. Gặp Phật mà tu thì đã đành, còn gặp quỷ thì trừ. Chư thiện tín thử nghĩ xem, ta trừ quỷ bằng cách nào đây? Vậy thì câu ấy không đúng với giáo lý của nhà Phật. Phải sửa lại như vầy: gặp Phật thì tu, gặp quỷ thì càng phải tu nhiều hơn nữa. Vì Phật chỉ dạy ta các giáo lý chơn chánh mà thôi, duy có quỷ nó mới là cái mầm làm cho ta sanh ra các chứng tham lam, sân hận, si mê, và oán thù. Gặp quỷ ta phải ráng nhẫn nại tu nhiều hơn nữa là vậy. Ta tu tâm, tu tánh mới mong đắc được quả lành.
Xin thiện nam, tín nữ suy xét cho kỹ, tập tánh nhẫn nại, vì theo lời Phật dạy: nhẫn nại là nguồn gốc các pháp lành, nó sẽ đem lại cho thiện tín các sự an vui vĩnh viễn.
Trong kinh, Phật dạy: người thiện tín nên có pháp tánh nhẫn nại, vì tánh ấy tránh cho ta ba điều khổ là: khổ vì lòng tham lam, khổ vì lòng sân hận và khổ vì lòng si mê.
1. Nhẫn nại với sự khổ vì lòng tham lam
Con người hay có tính ham muốn. Tham tiền của, tham sắc đẹp, tham ăn ngon, tham danh vọng. Khi có một muốn mười, có mười muốn trăm. Túi tham không đáy là vậy. Muốn thỏa lòng ham muốn, con người sanh ra trộm cướp hoặc lường gạt, hoặc bày mưu sâu kế độc. Không lúc nào tâm được an vui, mãi lo tính toán hoài. Phải khổ thân, khổ tâm, khổ trí.
Vậy ta phải dùng phép nhẫn nại diệt lòng tham muốn thì ta mới được dứt khổ.
2. Nhẫn nại với sự khổ vì lòng sân hận
Sân hận nghĩa là nóng giận, nhiều người có tánh hay nóng giận. Vì một cử chỉ hoặc một lời nói mà cơn giận phát sanh. Khi ấy ta quên suy xét phải quấy, ta mắng nhiếc, chửi rủa, đập đồ đạc, có khi quá cơn giận đến phải chém giết người là khác. "no hết ngon, giận hết khôn" là vậy đó. Khi hết cơn nóng giận, ta ăn năn, ta thấy ta rất khổ.
Vậy ta phải dùng phép nhẫn nại diệt lòng sân hận thì ta mới khỏi khổ được.
3. Nhẫn nại với sự khổ vì lòng si mê
Si mê là mờ ám, không phân biệt sự thật, sự giả của vạn vật. Có người học nhiều hiểu rộng, mà không sao tránh khỏi tánh si mê. Khi ta có bịnh, ta uất ức, than thở, khi gần chết ta mến tiếc nhà cửa, tiền của, danh vọng và mến tiếc xác thân của ta. Đức ThếTôncó dạy: muốn khỏi si mê, ta phải nghĩ rằng người sanh ra có thân, thì phải có già, có bịnh và có chết. Khi chết ta không thể đem theo cái gì khác hơn là "cái nghiệp của ta", nó theo ta mãi mãi. Nếu trong đời, ta tạo nghiệp lành thì ta được sanh về cõi an vui; nếu trong đời ta tạo nghiệp dữ, ta sẽ sanh về cõi khốn khổ, đau thương.
Vậy thiện tín phải đàn áp lòng si mê, nhất là lúc gần lâm chung, phải nhẫn nại, đừng si mê, cố quên những điều dữ, rán nhớ những điều lành. Mà muốn nhớ những điều lành, cần trong đời ta, ta phải tạo nhiều nhân lành là bố thí, giúp đỡ kẻ cùng khổ và rải lòng từ bi chung quanh ta.
Vì lòng si mê mà phải khổ. Tôi xin kể một câu chuyện cho thiện tín dễ hiểu. Thuở Đức Phật còn tại thế, có ông bá hộ nọ, chôn một hũ vàng trong nhà không cho vợ con biết. Lúc ông lâm chung bệnh gần chết, ông vẫn còn mến tiếc tiền của, nhứt là hũ vàng của ông chôn. Khi chết rồi, ông đầu thai làm con chó giữ nhà cho con trai ông. Một bữa nọ, Đức Phật đi khất thực ngang qua nhà con trai ông bá hộ, con chó chạy ra sủa Phật.Phật nhận biết kiếp trước của nó, nên dừng lại nói:
- Mi còn tiếc của lắm, nên phải lên mà giữ của.
Từ đó con chó buồn bực biếng ăn. Người con trai ông bá hộ thấy con chó bỏ ăn, mới kêu người nhà hỏi nguyên cớ, chúng trả lời rằng:
- Bữa nọ, ông Gotama đi ngang qua đây, không biết ông nói gì với con chó mà nó bỏ ăn mấy hôm nay.
Người con trai ông bá hộ, chờ Phật đi ngang nhà, liền đón hỏi:
- Này ông Gotama, ông nói gì mà con chó của tôi bỏ ăn mấy bữa rày?.
Đức Phật day qua phía con chó mà hỏi rằng:
- Vàng nhà ngươi chôn đâu, hãy chỉ cho người ta moi lên.
Con chó tức thì chạy vô nhà, đến cào chỗ chôn vàng, người nhà đào lên, quả gặp một hũ vàng.
Đó, chư thiện tín thấy chưa? Bởi si mê mà ông bá hộ phải đầu thai lại giữ của. Vì si mê mà ta khổ với sự già, sự bịnh hoạn và sự chết. Vậy ta phải dùng pháp nhẫn nại đặng diệt khổ bởi lòng si mê.
Cái "nhân" sanh lòng nhẫn nại:
Nếu chư thiện tín muốn cho lòng nhẫn nại được tăng thêm mãi mãi, nên suy xét như vầy: người nào nói xấu ta, mắng nhiếc ta, chửi rủa, nói lời đâm thọc để làm cho ta bực tức, ấy là người đem phước đến cho ta. Người làm cho ta khổ, là người dạy ta rán học nhiều sự nhẫn nại.
Người muốn sanh lòng nhẫn nại phải có 4 điều:
* Suy nghĩ về nghiệp,
* Thấy cái hại của sự thiếu nhẫn nại,
* Thấy quả báo của sự nhẫn nại,
* Thấy nhẫn nại là pháp ba-la-mật của chư Phật khi còn làm vị Bồ-tát.
Cái "quả báo" của sự nhẫn nại:
Nếu chư thiện tín biết các kết quả tốt đẹp, quý báu của pháp nhẫn nại, thiện tín sẽ vui lòng tập rèn tánh nhẫn nại từ đây.
* Sự nhẫn nại là mầm sanh các pháp lành, nhứt là giới, định, tuệ.
* Sự nhẫn nại hằng đào nhổ tận gốc các pháp dữ. Người nhẫn nại gọi là người bứng hết gốc rễ của các tội lỗi và tai hại.
* Sự nhẫn nại là vật trang điểm của các bực trí thức. Người nhẫn nại là người có lợi lộc, quyền tước, hằng được hạnh phúc là người mà chư thiện và nhân loại hằng thương yêu, quý mến.