Nghi Lễ

KÍNH TỰA

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH - TÒA THÁNH LONG CHÂU

I PHẦN NGHI LỄ CƠ BẢN

1.1 NGHI LỄ

- Ý NGHĨA NGHI LỄ

1.2 Ý NGHĨA LỄ NHẠC ĐẠO CAO ĐÀI

- NHẠC LỄ CAO ĐÀI
- Ý NGHĨA LỄ NHẠC
- BÁT HỒN VẬN CHUYỂN

1.3. NGHI LỄ HỘI THÁNH CĐCM - TTLC

1.4. CÁCH CHẤP TAY VÀ XÁ, LẠY

- Ý NGHĨA VÀ CÁCH CHẤP TAY
- Ý NGHĨA KHI QUỲ VÀ LÚC ĐỨNG LÊN
- Ý NGHĨA VÀ CÁCH XÁ
- Ý NGHĨA VÀ CÁCH LẠY

1.5. THỈNH THÁNH

- Ý NGHĨA THỈNH THÁNH
- CÁCH THỈNH THÁNH

1.6. LÔI ÂM CỔ

- KỆ LÔI ÂM CỔ ĐẠI ĐÀN

1.7. BẠCH NGỌC CHUNG

- KỆ BẠCH NGỌC CHUNG ĐẠI ĐÀN
- KỆ BẠCH NGỌC CHUNG TIỂU ĐÀN
- KỆ BẠCH NGỌC CHUNG BÃI ĐÀN CỦA ĐẠI ĐÀN VÀ TIỂU ĐÀN

1.8. THANH CHUNG

- PHÂN BIỆT 3 LOẠI CHUNG
- CÁCH HẦU CHUNG HÀNH LỄ
- CÁCH ĐÁNH CHUNG HÀNH LỄ

1.9. LỄ PHẨM THIÊN BÀN VÀ CÁC BÀN THỜ

- BIỂU ĐỒ KHUÔN THỜ VÀ LỄ PHẨM
- BIỂU ĐỒ Ý NGHĨA TƯỢNG TRƯNG 9 MÓN LỄ PHẨM TRÊN THIÊN BÀN
- PHÂN ĐỊNH VỊ TRÍ ÂM DƯƠNG

1.10. CAO ĐÀI BÁT QUÁI

- THỨ TỰ CÁC QUẺ TRONG BÁT QUÁI CĐ
- CAO ĐÀI BÁT QUÁI & HẬU THIÊN BÁT QUÁ

1.11. KHUÔN THỜ TẠI HỘI THÁNH VÀ HỌ ĐẠO

- THỜ NƠI BÁT QUÁI ĐÀI
- THỜ NƠI CỬU TRÙNG ĐÀI
- THỜ NƠI HIỆP THIÊN ĐÀI
- THỜ NƠI THIÊN PHONG ĐƯỜNG

1.12. NGHI THỨC THỜ PHƯỢNG TẠI TƯ GIA

- KHUÔN ẢNH TRÊN THIÊN BÀN

II PHẦN KINH TÙY THEO LỄ

2.1. LỄ THƯỢNG PHƯỚN

- CÁCH SẾP ĐẶT
- KINH NIỆM HƯƠNG
- KỆ DÂNG HOA
- KỆ DÂNG TỬU
- KỆ DÂNG TRÀ
- KINH THƯỢNG PHƯỚN

2.2. LỄ HẠ PHƯỚN

- CÁCH SẾP ĐẶT
- KINH NIỆM HƯƠNG
- KỆ DÂNG HOA
- KỆ DÂNG TỬU
- KỆ DÂNG TRÀ
- KINH HẠ PHƯỚN

2.3. LỄ CÚNG CỬU HUYỀN THƯỜNG LỆ

- KỆ NGUYỆN HƯƠNG
- KINH DÂNG RƯỢU I
- KINH CÚNG CỬU HUYỀN( Bài 1)
- KINH DÂNG RƯỢU II
- KINH CÚNG CỬU HUYỀN (Bài 2
- KINH DÂNG RƯỢU III
- KINH CÚNG CƠM TIÊN LINH
- KINH DÂNG TRÀ

2.4. LỄ TIỂU ĐÀN

- KINH NIỆM HƯƠNG
- KINH CÚNG GIỜ TÝ
- KINH CÚNG GIỜ NGỌ
- KINH CÚNG GIỜ MẸO
- KINH CÚNG GIỜ DẬU
- NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TÂM KINH
- DIÊU TRÌ KIM MẪU TÂM KINH
- NGÔI HAI GIÁO CHỦ TÂM KINH
- NHỊ THIÊN GIÁO CHỦ TÂM KINH
- KỆ DÂNG HOA NGHI
- KỆ DÂNG TỬU BÔI
- KỆ DÂNG TRÀ NGHI
- LỜI NGUYỆN CHUNG
- KINH CẦU AN CHO BÁ TÁNH
- KINH NGUYỆN CHUNG
- KINH NGŨ NGUYỆN

2.5. LỄ TẮM THÁNH

- KINH NIỆM HƯƠNG
- KINH TẮM THÁNH

2.6. LỄ NHẬP MÔN

- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ NHẬP MÔN CẦU ĐẠO
- LỜI MINH THỆ
- KINH NHẬP MÔN
- KINH GIẢI OAN

2.7. LỄ NHẬP MÔN CHO VONG LINH

- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ NHẬP MÔN CHO VONG LINH
- KINH GIẢI OAN

2.8. LỄ BÁI MẠNG CHỨC SẮC TÂN PHONG

- KINH NIỆM HƯƠNG
- LỜI TUYÊN THỆ
- KINH BÁI MẠNG THỌ PHONG

2.9. LỄ CẦU GIẢI BỆNH

- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ CẦU LÀNH BỆNH
- KINH CẦU LÀNH BỆNH
- KINH CỨU KHỔ

2.10. LỄ CẦU AN DỊCH BỆNH

- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ CẦU AN DỊCH BỆNH
- KINH CẦU ÂN XÁ
- KINH CỨU KHỔ

2.11. LỄ CẦU AN - SAO HỘI

- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ CÚNG SAO
- KINH CÚNG SAO

2.12. LỄ ĐẠI ĐÀN

- NGHI TIẾT ĐẠI ĐÀN
- VÀO LỄ
- KINH NIỆM HƯƠNG
- KINH CÚNG GIỜ TÝ
- KINH CÚNG GIỜ NGỌ
- NGỌC HOÀNG TÂM KINH
- DIÊU TRÌ KIM MẪU TÂM KINH
- PHẬT GIÁO TÂM KINH
- TIÊN GIÁO TÂM KINH
- NHO GIÁO TÂM KINH
- NGÔI HAI GIÁO CHỦ TÂM KINH
- NHỊ THIÊN GIÁO CHỦ TÂM KINH
- KỆ HOA NGHI
- KỆ TỬU BÔI
- KỆ TRÀ NGHI
- LỜI NGUYỆN CHUNG
- SỚ ĐẠI ĐÀN
- KINH NGŨ NGUYỆN

2.13. LỄ CÚNG ANH LINH TIỀN BỐI

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- KINH DÂNG RƯỢU TUẦN I
- KINH DÂNG RƯỢU TUẦN II
- KINH DÂNG RƯỢU TUẦN III
- KINH CÚNG ANH LINH TIỀN BỐI
- KINH DÂNG TRÀ

2.14. LỄ TỄ CHIẾN SĨ

- NGHI TIẾT TẾ CHIẾN SĨ
- VÀO LỄ
- BÀI NIỆM HƯƠNG
- KINH THỈNH VONG
- NHỨT KỲ SIÊU KINH
- HIẾN NHỨT TUẦN TỬU
- NHỊ KỲ SIÊU KINH
- HIẾN NHỊ TUẦN TỬU
- HIẾN CHUNG TUẦN TỬU
- VĂN TẾ CHIẾN SĨ
- PHỤNG HIẾN TRÀ NGHI

2.15. HỘI YẾN BÀN ĐÀO DIÊU TRÌ CUNG

- CHUẨN BỊ
- NGHI TIẾT HÀNH LỄ
- VÀO LỄ
- LỜI NGUYỆN PHẬT MẪU
- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ HỘI YẾN BÀN ĐÀO DIÊU TRÌ CUNG
- KỆ NIỆM HƯƠNG
- KINH VÍA ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU
- BÀI CHÚC VĂN ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU
- DÂNG HOA
- DÂNG BỒ ĐÀO
- DÂNG TRÀ
- ĐỨC CỬU THIÊN HUYỀN NỮ
- LỜI NGUYỆN NHỨT NƯƠNG
- KỆ CÚNG NHỨT NƯƠNG
- LỜI NGUYỆN NHỊ NƯƠNG
- KỆ CÚNG NHỊ NƯƠNG
- LỜI NGUYỆN TAM NƯƠNG
- KỆ CÚNG TAM NƯƠNG
- LỜI NGUYỆN TỨ NƯƠNG
- KỆ CÚNG TỨ NƯƠNG
- LỜI NGUYỆN NGŨ NƯƠNG
- KỆ CÚNG NGŨ NƯƠNG
- LỜI NGUYỆN LỤC NƯƠNG
- KỆ CÚNG LỤC NƯƠNG
- LỜI NGUYỆN THẤT NƯƠNG
- KỆ CÚNG THẤT NƯƠNG
- LỜI NGUYỆN BÁT NƯƠNG
- KỆ CÚNG BÁT NƯƠNG
- LỜI NGUYỆN CỬU NƯƠNG
- KỆ CÚNG CỬU NƯƠNG
- KINH THỈNH CHƯ THIÊN HỘI YẾN
- KINH ĐƯA TIỄN ĐỨC MẸ

2.16. LỂ THƯỢNG TƯỢNG

- CHUẨN BỊ
- CHÚ GIẢI TẠI THIÊN BÀN
- BÀI CẦU NGUYỆN
- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ THƯỢNG TƯỢNG
- KINH THƯỢNG TƯỢNG

2.17. LỄ CÚNG TỨ THỜI ĐIỆN THỜ PHẬT MẪU

- KINH NIỆM HƯƠNG
- KINH CÚNG GIỜ TÝ
- KINH CÚNG GIỜ NGỌ
- KINH CÚNG GIỜ MẸO
- KINH CÚNG GIỜ DẬU
- KINH XƯNG TỤNG ĐỨC KIM MẪU
- PHẬT MẪU CHƠN KINH
- KINH TÁN TỤNG CÔNG ĐỨC DTKM
- KỆ DÂNG HOA
- KỆ DÂNG BỒ ĐÀO
- KỆ DÂNG TIÊN TRÀ
- NGŨ NGUYỆN

2.18. LỄ THỌ PHÁP

- BÀI CÚNG MINH SƯ THIÊN PHỔ
- BÀI GIẢI OAN (Lãnh Thần Đạo)
- BÀI THỆ LÃNH THẦN ĐẠO
- BÀI ĐẠI THỆ
- BÀI TẠ THẦY MÃN BÁ NHỰT
- BÀI CÔNG PHU TỨ THỜI
- BÀI HỌA ĐỒ THẦN ĐẠO

2.19. LỄ TIỄN CHƯ THÁNH TRIỀU THIÊN

- LỜI CẦU NGUYỆN

2.20. LỄ THỈNH CHƯ THÁNH NGÀY XUÂN

- LỜI CẦU NGUYỆN
- VĂN RƯỚC TIÊN LINH NGÀY XUÂN

III PHẦN HÔN LỄ

3.1. ĐÁM CƯỚI TRONG ĐẠO CAO ĐÀI

- QUAN NIỆM HÔN NHÂN TRONG ĐẠO CAO ĐÀI
- ĐÁM CƯỚI TRONG ĐẠO CAO ĐÀI TẠI TÒA THÁNH HOẶC CÁC CƠ SỞ HỌ ĐẠO

3.2. KINH CHÚC HÔN

IV PHẦN ĐÁM TANG

4.1. CHẨN BỊ TÂN CỐ

4.2. VIỆC TẨN LIỆM

4.3. PHỦ QUAN

4.4. CẦU SIÊU TANG LỄ

4.5. LIÊN ĐÀI

4.6. LỄ AN TÁNG

4.7. LỄ XIN TỘI CHO NGƯỜI LIỄU ĐẠO

- KỆ CẦU NGUYỆN
- KINH LÀM LỄ XIN TỘI

4.8. LỄ CẦU LINH HỒN

- CHÚ CẦU LINH HỒN
- KINH CẦU LINH HỒN

4.9. LỄ ĐƯA LINH HỒN

- KINH ĐƯA LINH HỒN (Số 1)
- KINH ĐƯA LINH HỒN (Số 2)

4.10. LỄ TẨY TRẦN THI

- CHÚ TẨY TRẦN THI
- KINH TẨY TRẦN THI

4.11. LỄ SƠ CHUNG THÔNG SỰ

- LỜI NGUYỆN CẦU
- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ SƠ CHUNG THÔNG SỰ
- KINH SƠ CHUNG THÔNG SỰ

4.12. LỄ PHẠT MỘC

-CHÚ PHẠT MỘC

4.13. LỄ TẨN LIỆM

- CHÚ NHẬP MẠCH
- CHÚ PHỔ AM
- LỜI CẦU NGUYỆN
- KINH TẨN LIỆM (bài 1)
- KINH TẨN LIỆM (bài 2)
- LỜI CẦU NGUYỆN ĐẤP PHỦ QUAN

4.14. LỄ THÀNH PHỤC

- LỜI LẬP NGUYỆN
- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ THÀNH PHỤC

4.15. LỄ CÁO TỪ TỔ THỌ TANG

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- LỜI CẦU NGUYỆN
- KINH CÁO TỪ TỔ THỌ TANG
- KINH CÚNG TỪ TỔ
- LỜI CẦU NGUYỆN ĐẤT ĐAI VIÊN TRẠCH

4.16. LỄ THÀNH PHỤC PHÁT TANG

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- KINH THÀNH PHỤC PHÁT TANG
- KINH DÂNG RƯỢU (bài 1)
- KINH DÂNG RƯỢU (bài 2)
- KINH DÂNG RƯỢU (bài 3)
- KINH TẤN PHẠN
- KINH DÂNG TRÀ
- CHÚ NGUYỆN
- CHÚ PHÁT TANG

4.17. LỄ TRÌNH THẦY ĐIẾU TANG

-KINH NIỆM HƯƠNG
-KINH CẦU SIÊU

4.18. LỄ ĐIẾU TANG

-KỆ ĐIẾU TANG
-KINH ĐIẾU TANG (bài 1)
-KINH ĐIẾU TANG (bài 2)

4.19. LỄ CÚNG ÔNG BÀ

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- KINH CÚNG TIÊN LINH

4.20. LỄ CÚNG VONG

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- KINH CÚNG VONG (Bài 1)
- KINH DÂNG RƯỢU(1)
- KINH CÚNG VONG (bài 2)
- KINH DÂNG RƯỢU(2)
- KINH CÚNG VONG (bài 3)
- KINH DÂNG RƯỢU(3)
- KINH TẤN PHẠN
- KINH DÂNG TRÀ

4.21. LỄ THIẾT ĐÀN TỤNG KINH

- KINH NIỆM HƯƠNG
- KINH THỈNH PHẬT THÁNH TIÊN
- KỆ KHAI CHUNG
- KỆ KHAI MỎ
- SỚ KHAI KINH
- CHÚ DIỆT TỘI
- KINH CẦU SIÊU (Bài 1)
- KINH CẦU SIÊU (Bài 2)
- KINH CẦU SIÊU (Bài 3)
- BÀI KHAI KINH
- SỚ KHAI KINH

4.22. LỄ CÁO ĐẠO LỘ

- KỆ NGUYỆN
- LỜI CẦU NGUYỆN
- KINH CÁO ĐẠO LỘ (bài 1)
- KINH CÁO ĐẠO LỘ (bài 2)

4.23. LỄ CÁO THỦY THẦN

- KỆ CÁO THỦY THẦN
- KINH CÁO THỦY THẦN

4.24. LỄ PHỤNG MINH SANH

- KỆ NIỆM HƯƠNG

4.25. LỄ PHỤNG MS HIẾN TẤU THIÊN BÀN

- KINH NIỆM HƯƠNG
- KINH PHỤNG MINH SANH HIẾN TẤU THIÊN BÀN

4.26. LỄ PHỤNG MINH SANH CÁO TỪ ĐƯỜNG

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- KINH PHỤNG MS CÁO TỪ ĐƯỜNG
- KINH DƯNG BA TUẦN RƯỢU

4.27. LỄ PHÁT HÀNH ĐỘNG QUAN

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- KỆ TỪ GIẢ
- LỜI GỌI
- KỆ ĐỘNG QUAN
- KINH ĐỘNG QUAN
- KINH ĐƯA LINH CỬU (Bài 1)
- KINH ĐƯA LINH CỬU (Bài 2)
- KINH ĐƯA LINH CỬU (Bài 3)

4.28. LỄ CÁO HẬU THỔ

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- LỜI CẦU NGUYỆN HẬU THỔ
- SỚ CÁO HẬU THỔ
- KINH CÁO HẬU THỔ
- KỆ HẠ RỘNG
- KINH HẠ RỘNG

4.29. LỄ DẪN VONG VỀ

- KINH TỪ GIẢ MỘ PHẦN
- KINH DẪN VONG VỀ

4.30. LỄ AN VỊ VONG LINH

- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ AN VỊ VONG LINH
- KINH AN VỊ VONG LINH

4.31. LỄ PHẢN KHÓC CÚNG TIÊN LINH

- KINH NIỆM HƯƠNG
- KINH PHẢN KHÓC (Tiên Linh)

4.32. LỄ CÚNG VONG AN VỊ

- KỆ NIÊM HƯƠNG
- KINH CÚNG VONG AN SÀNG
- KINH CÚNG VONG PHẢN KHÓC
- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 1)
- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 2)
- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 3)
- KINH TẤN PHẠN
- KINH DÂNG TRÀ
- KINH ĐƯA VONG

4.33. LỄ KHAI MỘ

- HƯỚNG DẪN
- SỚ KHAI MỘ
- KINH KHAI MỘ (Bài 1 )
- KINH KHAI MỘ (Bài 2 )
- LỜI DẶN CHÚ GIẢI
- CHÚ

4.34. LỄ HỎA TÁNG

- KỆ NIỆM HƯƠNG HỎA TÁNG
- KINH HỎA TÁNG
- CHÚ VÃNG SANH

V PHẦN LÀM TUẦN

5.1. LỄ VÀO ĐÁM

- THẦN CHÚ ĐỐT NHANG
- CHÚ NIỆM HƯƠNG
- THỈNH BẠCH THỦY TRẤN THẦN
- KINH NIỆM HƯƠNG
- KINH THỈNH PHẬT THÁNH TIÊN
- KỆ KHAI CHUNG
- KỆ KHAI MỎ
- SỚ VÀO ĐÁM CẦU SIÊU
- CHÚ DIỆT TỘI
- KINH KHAI CỬU
- KINH ĐỆ NHỨT CỬU
- KINH ĐỆ NHỊ CỬU
- KINH ĐỆ TAM CỬU
- KINH ĐỆ TỨ CỬU
- KINH ĐỆ NGŨ CỬU
- KINH ĐỆ LỤC CỬU
- KINH ĐỆ THẤT CỬU
- KINH ĐỆ BÁT CỬU
- KINH ĐỆ CỬU CỬU
- KINH TIỂU TƯỜNG
- KINH ĐẠI TƯỜNG
- KINH THỈNH VONG NHẬP ĐÀN
- KINH CẦU SIÊU (Bài 1)
- KINH CẦU SIÊU (Bài 2)
- KINH CẦU SIÊU (Bài 3)

5.2. LỄ CÁO TIÊN LINH

- KÊ NGUYỆN HƯƠNG
- CÁO TIÊN LINH
- KINH CÁO TIÊN LINH

5.3. LỄ CÚNG VONG

- KỆ NGUYỆN HƯƠNG
- KINH THỈNH VONG (Người có đạo)
- KINH THỈNH VONG (Người không đạo)
- KINH CÚNG VONG (Bài 1)
- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 1)
- KINH CÚNG VONG (Bài 2)
- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 2)
- KINH CÚNG VONG (Bài 3)
- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 3)
- KINH TẤN PHẠN
- KINH DÂNG TRÀ

5.4. LỄ CÚNG THỜI NGỌ

5.5. LỄ THỈNH VONG NHẬP ĐÀN

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- BÀI THỈNH VONG

5.6. LỄ KHAI KINH

- BÀI CẦU NGUYỆN
- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ KHAI KINH
- CHÚ DIỆT TỘI
- KINH CẦU SIÊU (Bài 1)
- KINH CẦU SIÊU (Bài 2)
- KINH CẦU SIÊU (Bài 3)
- BÀI KHAI KINH

5.7. LỄ CÚNG ÂM NHƠN

- CHUẨN BỊ
- KỆ
- KINH CÚNG ÂM NHƠN
- CHÚ VÃNG SANH

5.8. LỄ HUỜN KINH

- KINH NIỆM HƯƠNG
- SỚ HUỜN KINH
- CHÚ DIỆT TỘI
- BÀI HUỜN KINH (Số 1)
- BÀI HUỜN KINH (Số 2)
- BÀI TỐNG THÁNH (Số 3)
- SỚ TRỪ PHỤC
- ĐƯA VONG

5.9. LỄ CÚNG CỬU HUYỀN

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- KINH CÚNG TIÊN LINH

5.10. LỄ CÚNG VONG TRỪ PHỤC

- KỆ NIỆM HƯƠNG
- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 1)
- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 2)
- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 3)
- KINH CÚNG VONG
- KINH TẤN PHẠN
- KINH DƯNG TRÀ
- BÀI CÚNG VONG (Trừ phục)
- KINH TRỪ PHỤC
- KINH CÚNG ĐẠI TƯỜNG TRỪ PHỤC
- KỆ
- BÀI GIẢI PHỤC
- KỆ

5.11. LỄ CÚNG VÕ LÂM QUÂN

- CHÚ ĐỐT TANG
- BÀI ĐƯA VONG ĐẠI TƯỜNG

VI PHẦN KINH TÙY THEO VIỆC

- KINH NHẬP HỘI
- KINH XUẤT HỘI
- KINH VÀO HỌC
- KINH KHI ĐI NGỦ
- KINH KHI THỨC DẬY
- KINH ĐI RA ĐƯỜNG
- KINH KHI VỀ
- KINH VÀO ĂN CƠM
- KINH ĂN CƠM RỒI
- KINH KHI VỢ QUI LIỂU
- KINH KHI CHỒNG QUI VỊ
- KINH CHA MẸ QUI LIỄU
- KINH THÂN BẰNG CỐ HỮU ĐÃ QUI LIỂU
- KINH CẦU TỔ PHỤ QUI LIỄU
- KINH KHI VUA BĂNG HÀ
- KINH KHI HUYNH ĐỆ MÃN PHẦN
- KINH KHI THẦY QUI VỊ
- KINH CỨU KHỔ
- KINH DI LẠC
- KINH SÁM HỐI
- KINH VĂN TU CHƠN THIỆP QUYẾT
- NGỌC MINH KINH
- KINH CẢM ỨNG
- KINH DA TÔ GIÁO CHỦ
- KINH CHÚC TỤNG ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN
- KINH DI ĐÀ
- KINH VU LAN
- KINH PHỔ MÔN

VII PHẦN PHỤ THÊM

- NGŨ GIỚI CẤM
- TỨ ĐẠI ĐIỀU QUY
- SỰ THƯƠNG YÊU
- TRAI GIỚI
- CÁC NGÀY LỄ TẠI TÒA THÁNH


 

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

CÔNG BÌNH BÁC ÁI TỪ BI

HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

XÃ TÂN PHÚ THẠNH, HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

NGHI LỄ

HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

GIÁP THÌN

(2024)


NGHI LỄ

HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

KÍNH TỰA

Nghi lễ căn bản của một hệ phái Cao Đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu có cùng thời điểm Ơn Trên dùng huyền cơ diệu bút khai mở Đạo Trời tại Việt Nam Thánh Địa năm 1926. Thuở ấy vào 1928 nơi Cần Thơ  - Hậu Giang được thành hình một Toà Thánh Long Châu tiền thân từ một Nhà Đàn Thứ với tên gọi là Chiếu Minh Đàn Thạnh Mỹ do Ông Lê Minh Giác làm Chủ Nhà Đàn. (Làng Thạnh Mỹ, tổng Định Báo, quận Châu Thành, Cần Thơ (nay là ấp Thạnh Lợi A,  xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang) Luôn được Đức Cao Đài giáng cơ dạy đạo. và cho biết Nghi Lễ Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh – Tòa Thánh Long Châu sẽ được Ơn Trên giảng dạy đầy đủ sau này.

Đến năm 1956 Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu được Đức Chí Tôn giáng cơ thành lập và hướng dẫn tiến hành Đại lễ Ra mắt nhân sanh vào ngày 15/05 âl năm 1956, và cũng từ đó nơi đây vừa được hướng dẫn hình thành một bộ Nghi Lễ với tên gọi: “NGHI LỄ HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH - TÒA THÁNH LONG CHÂU” được kết hợp nhiều bộ kinh thuần túy Cao Đài vừa gắn kết phần dạy trực tiếp trong nghi lễ tạo thành sự hoàn mỹ lễ nghi để phục vụ cho phái Chiếu Minh vừa có cơ Tịnh độ để công phu tịnh luyện theo chơn truyền của Đức Ngôi Hai (tuyển độ), và Pháp đạo Nhị Thiên (tận độ); đó cũng là cách tu Thiên đạo giải thoát; lại vừa phù hợp với cách tu Thế đạo đại đồng, có đầy đủ chức sắc, chức việc hành đạo theo Tân luật - Pháp Chánh Truyền. của một Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh – Tòa Thánh long Châu đang có đầy đủ cả hai cơ là cơ Tịnh độ và cơ Phổ độ.

Vì thế cho nên việc giữ gìn truyền thống quý báu của Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh - Toà Thánh Long Châu. Bộ Nghi Lễ Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh – Tòa Thánh Long Châu kịp thời ra mắt các Hội Thánh - các Tổ chức Cao Đài cùng tòan thể chư đạo đức bốn phương, để kính dâng Mừng Đại lễ 100 Đức Chí Tôn khai sáng Đạo Cao Đài tại Việt Nam. Cùng Mốc lịch sử 98 năm Chiếu Minh Đàn Thạnh Mỹ tiền thân Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu.

Nghi lễ Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh – Tòa Thánh Long Châu phần lớn dựa trên lời chỉ dạy của Đức Chí Tôn đêm 14/05 âl năm 1956, của ngày Đại lễ Lạc Thành Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu để vừa lo cơ Tịnh độ vừa lo cơ Phổ độ. Lời Đức Chí Tôn dạy như sau:

“Đây là nhiệm vụ trọng đại của Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh có cả 02 cơ là cơ Tịnh độ và cơ Phổ độ. Phần nầy các con được nghiên cứu kết hợp Theo Tân Luật Pháp Chánh Truyền, và các bộ kinh được nghiên cứu kết hợp cho phù hợp với Phái Chiếu Minh phần lớn là thể kinh văn vần trong đó có trong Kinh Thiên Đạo & Thế Đạo do Cơ bút Tòa Thánh Tây Ninh thành lập; kinh Tam Bảo diễn nghĩa” do cơ bút Ơn Trên giảng giải năm 1940 tại Nhà Đàn Thứ là Bửu Minh Đàn, Cần Thơ do Ông cả Nguyễn Thành Được làm Chủ Nhà Đàn; Bộ kinh Tam Nguơn Giác Thế do cơ bút Ơn Trên giảng giải năm 1953 tại Nhà Đàn Chánh, Cần Thơ do do Ông Nguyễn Văn Huỳnh là Chủ Nhà Đàn. Trong Tam Nguơn Giác thế cũng có phần kinh Cảm Ứng diễn nghĩa. Đây cũng là thời điểm Phái Cao Đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu từng bước thắm nhuần việc hành đạo dựa theo 02 bộ kinh gần gủi nhất là Tam Nguơn Giác Thế và Tam Bảo Diễn Nghĩa nầy.

Lưu ý: Kinh Tam Nguơn Giác Thế do các Đấng giáng đàn thành lập tại Nhà đàn Chánh, chủ đàn là ông Nguyễn Văn Huỳnh (Cần Thơ) có diễn nghĩa về kinh Cảm ứng, cùng các phần kinh quan, hôn, tang, tế. Nên Tam Nguơn Giác Thế chỉ giảng giải những phần kinh thuộc về cơ Phổ độ, không có bài nào dạy về công phu luyện đạo. Đây là báo hiệu của Phái Chiếu Minh do Đức Ngô Minh Chiêu thành lập đã sắp xếp cho Nhà Đàn Chánh - Nguyễn Văn Huỳnh, Nhà Đàn Thứ Bửu Minh - Nguyễn Thành Được, Nhà Đàn Thứ Chiếu Minh Đàn Thạnh Mỹ - Lê Minh Giác làm trách nhiệm Chiếu Minh cơ Tịnh độ có đầy đủ cả về cơ Phổ Độ.

Từ đó Chúng tôi luôn kết hợp tuyển chọn trong các bộ kinh nầy để thực hiện trong Nghi lễ Hội Thánh Cao đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu. Còn Phần Chức sắc, Chức việc nhiệm hành của Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh thì dựa trên nền tảng lớn của Tân Luật Pháp Chánh truyền để thực hiện..

CHÁNH PHỐI SƯ – NGỌC LỄ THANH

QUÁ TRÌNH

HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

Nghi lễ rất quan trọng trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nói chung, trong các Chi Phái đạo nói riêng. Mỗi Chi Phái đều có giữ gìn truyền thống riêng biệt của mình.

Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn dùng huyền cơ diệu bút thành lập vào năm 1926 (Bính Dần). Thuở ấy, nơi vùng quê, xa xôi hẻo lánh, vào ngày 15/01 Mậu Thìn (1928), ông Lê Minh Giác ở Rạch Sỏi,  làng Thạnh Mỹ, tổng Định Báo, quận Châu Thành, Cần Thơ (nay là ấp Thạnh Lợi A,  xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang) cùng gia đình đến hầu đàn tại Chiếu Minh Đàn là Nhà Đàn Chánh. ở Cần Thơ. Ông được Ơn Trên cho về lập đàn để độ nhơn sanh. Ông rất lo ngại, e không thể gánh vác nổi trọng trách này thì có hai ông là Hồ Vinh Quí (tự Phán Quí) và ông Nguyễn Văn Huỳnh là hai đệ tử luôn gắn liền với Đức Ngôi Hai tại Cần Thơ, khuyên ông Giác hãy vững tin như lời Ơn Trên đã dạy và sẽ được ban ơn. Ông Giác liền chuẩn bị để được lập đàn tại nhà. Đến ngày 20 tháng 4 (Mậu Thìn) ông Lê Minh Giác khai đàn tại nhà với sự tham dự của ông Phán Quí. ông Đốc Học Đặng Khắc Kỷ, ông Tư Thìn (đắc vị: Thủ Trì Tôn Thần), ông Tám Tỵ và nhiều đồng đạo. Từ đó nơi đây được ban danh Nhà đàn Chiếu Minh, thường xuyên được lập đàn Ơn Trên về dạy đạo.

Sau đó nơi đây có nhiều người vào đạo ngày một đông, chủ đàn được nhiều Mạnh thường quân công quả xây dựng Nhà đàn rộng rải khang trang đủ điều kiện cho nhân sanh đến dự đàn, cúng bái. Các mạnh thường quân gồm có  ông Hồ Vinh Quí, ông Nguyễn Văn Huỳnh, ông Lê Minh Giác, ông Đặng Khắc Kỷ, ông Tư Thìn, Ông Tám Tỵ, ông Trần Văn Lược (Đắc vị: Huệ Minh Kim Tiên), ông Nguyễn Văn Sảnh và nhiều đồng đạo.

Trong thời điểm cơ bút nơi đây mỗi tháng có từ hai đến 3 lần lập đàn cơ được Ơn Trên dạy rất kỷ về Nghi Lễ Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh cần được kết hợp giữ gìn truyền thống của một Hội Thánh Chiếu Minh vừa lo cơ Tịnh Độ vừa lo cơ Phổ Độ cho được đủ đầy phương tiện để hoằng pháp độ sanh.

Lúc bấy giờ khắp nơi vùng sông Tiền, sông Hậu đều do Ơn Trên thành lập các Nhà đàn.  có 01 Nhà đàn Chánh và nhiều Nhà đàn Thứ như sau: ⁾

Người khai Đạo

 Ngô Văn Chiêu

  Qui vị 13/03/1932).

 Cần Thơ

Người truyền bá

 Hồ Vinh Quí

 

 Cần Thơ

Chủ Đàn Chánh

 Nguyễn Văn Huỳnh

 

 Cần Thơ

Chủ Đàn Thứ

Lê Nghĩa Phương 

 

 Cần Thơ

Chủ Đàn Thứ

Nguyễn Quang Diệu

Tân Quới

 Vĩnh Long

Chủ Đàn Thứ

Nguyễn Hữu Vẹn 

Tân Quới

 Vĩnh Long

Chủ Đàn Thứ

Nguyễn Đăng Vinh 

Thành Lợi

 Cần Thơ

Chủ Đàn Thứ

Lê Phú Hữu 

Tân Lược

 Vĩnh Long

Chủ Đàn Thứ

Lê Minh Giác 

Thạnh Mỹ

 Cần Thơ

Chủ Đàn Thứ

Võ Hồng Sa 

Tân Thới

 Cần Thơ

Chủ Đàn Thứ

Trần Văn Chất 

Mỹ Khánh

 Cần Thơ

Chủ Đàn Thứ

Nguyễn Văn Khá 

Long Tuyền

 Cần Thơ

Chủ Đàn Thứ

Nguyễn Văn Trượng

Nhơn Nghĩa

 Cần Thơ

Chủ Đàn Thứ

Trần Hữu Phú 

Phong Hòa

 Cần Thơ

Chủ Đàn Thứ

Huỳnh Văn Bửu 

Vĩnh Hòa Hưng

 Rạch Giá

Đến năm 1940 Bửu Minh Đàn được thành lập cũng là một Nhà đàn Thứ tại Ô Môn do chủ Nhà đàn là Ông Nguyễn Thành Được. Nơi đây được Thầy ban lập đàn cơ liên tục trong Tam ngoạt để các Đấng Thiêng Liêng về dịch bộ kinh Phật từ văn xuôi Nho tự chuyển thành Bộ kinh văn vần bằng từ ngữ Việt gồm kinh Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Kim Cang), và cơ bút từ Tòa Thánh Long Châu của thời điểm ngày đầu thành lập Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu luôn nhắc nhở chỉ dạy phải nghiên cứu, tuyển chọn, kết họp những bộ kinh Thuần túy Cao Đài nêu trên sắp xếp cho phù họp với một Phái đạo vừa lo cơ Phổ độ vừa lo cơ Tịnh độ và giữ gìn truyền thống lâu đời

Trên đây là một số Nhà Đàn Thứ đã được thành lập trong giai đoạn đầu sơ nguyên khai Đạo Chiếu Minh tại Cần Thơ - Hậu Giang. Hiện nay có một số nơi được nâng cấp từ Nhà đàn thành Thánh Tịnh, một số giữ nguyên, một số bị hư hoại không có người nối truyền.

Nhà Đàn Thứ nơi đây do Ông Lê Minh Giác (Đắc vị Bá Giám Tôn Thần ngày 13/03/1957) là chủ đàn và được đặt tên là Nhà đàn Chiếu Minh Đàn Thạnh Mỹ, tại Ấp Thạnh Mỹ, (hiện nay là Ấp Thạnh Lợi A). xã Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Hậu Giang). sau đổi tên là Nhà đàn Chiếu Minh Tự. Đến ngày 09 tháng Giêng, năm Bính Thân (1956) đàn cơ Đức Chí Tôn giáng dạy nơi đây được ban danh hiệu là Toà Thánh Long Châu. Toàn thể bổn đạo phải tranh thủ tiếp tục lo sửa sang xây dựng lại hoàn thiện ngôi Tam Đài cho kịp ngày rằm tháng 05 Bính Thân sắp đến làm lễ lạc thành.

Trích Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy như sau:

THI

Cao thượng hoằng khai mối đạo hùynh,

Đài tiền sùng bái độ nhân sinh.

Chiếu ban cứu thế vui an lạc,

Minh gọi toàn linh hưởng thái bình.

Tòa đạo ra đời cơ phổ độ,

Thánh nhân xuất thế hướng quang minh.

Long hoa hội tựu nhân hiền đức,.

Châu báu luyện giồi mới sáng xinh”

Và trích đoạn thi bài Thầy dạy:

………………………………………………………………….

" vậy các con nghe truyền cụ thể,

"Tổ chức lo đại lễ Lạc Thành;

"Tam Đài Thánh Thể lưu danh,

"Là ngày  Toà Thánh định rành Long Châu.

"Ngày Hội Thánh lần đầu phân bổ,

"Tịnh độ lo, Phổ độ cũng lo;

"Lạc Thành tam nhựt cơ phò.

"Chánh lễ Thập ngũ, ngũ do ngoạt đề.

"Niên Ất Mùi Thầy phê sắc Chỉ,

"kể từ đây còn Quí, con Hùynh,

"Hoàn thành trong cuộc hành trình,

"Trao cho Minh Giác giữ gìn triển khai.

"Thiên Huyền Tâm Trùng Đài thực hiện,

"Ngọc Minh Khai đảm nhiệm Hiệp Thiên;

"Hội trưởng nữ phái đang tìm,

“Thầy trao Từ Lý cố chuyên phận hành.

“Nay Chơn truyền Chiều Minh phải giữ,

“Các Trưởng nơi Đàn Thứ phải lo,

“Là cơ Tuyển độ nghe trò,

“Về sau Tận độ có đò Nhị Thiên.

Pháp Ngôi Hai Thầy truyền tuyển độ,

“Vì quá cao nên khó tùy duyên;

Nhị Thiên tá thế cao nhiên,

Lập cơ tận độ Thầy truyền hôm nay”…

Vâng lịnh Đức Chí Tôn nơi đây được diễn ra lễ lạc thành Tam Đài trong 3 ngày thật là trọng thể. Ban tổ chức đảm trách cuộc lễ theo chương trình chỉ dẫn của Ơn trên rất đủ đầy mọi thứ...

Đêm 14 của ngày đại  lễ nầy Đức Chí Tôn giáng đàn dạy nơi đây là Tòa Thánh Long Châu cũng là Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh nên hôm nay Thầy giáng điển sắc phong Chức Sắc Chức việc cho các con có căn cơ sứ mạng để  kịp thời bái mạng thọ phong vào Ngọ thời trong ngày chánh lễ lạc thành.

Trích đàn Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy như sau:

THI

Ngọc quý gìn tâm  luyện báu châu,

Hoàng ân soi sáng lý cao sâu.

Thượng tôn luật pháp con gìn đạo

Đế khuyết khai môn điểm diệu mầu.

Thành tâm giữ đạo gốc Cao Đài,

Lập chí nhân hoà ứng bổn lai.

Hội ngộ phước duyên cơ phổ độ,

Thánh ân  huệ đức hội duyên mai.

Cao  linh ứng hoá tùy duyên chuyển,

Đài nhiệm siêu thừa được triển khai.

Chiếu sắc Ngọc kinh Thầy điểm đạo,

Minh cơ diệu bút tuyển nhân tài.

“Thầy linh hồn các con, Thầy mừng các con nam nữ, các con an toạ nghe Thầy truyền chỉ.

“Hôm nay trong ngày Đại lễ Lạc Thành Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu để vừa lo cơ Tịnh độ vừa lo cơ Phổ độ.

“Về phần Chức sắc, Chức việc lãnh đạo Hội Thánh các con nghe Thầy Phong Sắc để kịp thời làm lễ bái mạng thọ phong trong ngày chánh lễ Lạc thành, Ngọ thời Thập ngũ nhựt, Ngũ ngoạt, Bính Thân niên, nối tiếp là lễ cắt băng Lạc Thành”...

“Về phần Chức sắc, Chức việc lãnh đạo Hội  Thánh.  Phần Phong sắc như sau:

“1.Ngọc Minh Khai thế danh Lê Hữu Lộc thọ lãnh nhiệm vụ Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.

“2.Thiên Huyền Tâm đã thọ phong danh Thánh tại Tổ Đình Chiếu Minh trong Thập Nhị Thiên Huyền, thế danh Nguyễn Văn Tự, nay thọ lãnh nhiệm vụ Chưởng Quản Cửu Trùng Đài.

“3 .Từ Lý thọ lãnh nhiệm vụ Hội Trưởng Nữ phái.

“Phần Lục Viện Hội Thánh được thành lập hôm nay để gắn liền với Nhơn sanh - Xã hội lập nhiều thành quả lớn lao cho Di tích lịch sử Tòa Thánh Long Châu sau nầy. Lục viện Hội Thánh, hôm nay Thầy sắc phong gồm có:

1. Nội viện: Lê Quang Đẩu (Ngọc Minh Quang)

2. Lễ viện: Huỳnh Văn Nở (Ngọc Minh Chương)

3. Nông viện: Nguyễn Văn Nông

4. Học viện trưởng: Đặng Văn Tảo, Học viện phó: Nguyễn Văn Giác

5. Phước, Y viện: Huỳnh Thiện Công

6. Ngoại, Hòa viện: Nguyễn Văn Hòa

“Đây là nhiệm vụ trọng đại của Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh có cả 02 cơ là cơ Tịnh độ và cơ Phổ độ. Phần nầy các con được nghiên cứu kết hợp Theo Tân Luật Pháp Chánh Truyền, và các bộ kinh: Kinh Tam Nguơn Giác Thế, Kinh Thiên Đạo Thế Đạo, kinh nghĩa Tam Bảo. (Năm 1940 Bửu Minh Đàn cũng là một Nhà đàn Thứ tại Ô Môn do chủ Nhà đàn là Nguyễn Thành Được. Nơi đây được Thầy ban lập đàn cơ liên tục trong Tam ngoạt để các Đấng Thiêng Liêng về dịch bộ kinh Phật từ văn xuôi Nho tự chuyển thành Bộ kinh văn vần bằng từ ngữ Việt gồm kinh Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Kim Cang), và một số kinh luật thuộc cơ bút từ Tòa Thánh Long Châu của thời điểm ngày đầu thành lập Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu để giữ gìn truyền thống lâu dài.

“Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh – Tòa Thánh Long Châu nay chính thức lập thành 02 cơ là cơ Tịnh Độ và cơ Phổ Độ. Về cơ Tịnh Độ được chia ra 02 phần là Hình nhi Thượng học, và Hình nhi Hạ học. Về cơ Phổ Độ chia ra 02 phần. Phần Chức sắc, Chức việc được nghiên cứu kết hợp thực hiện theo Tân Luật Pháp Chánh truyền của Đại Đạo, còn phần Nghi lễ được nghiên cứu kết hợp thực hiện dựa theo các Bộ kinh: Kinh Tam Nguơn Giác Thế, kinh Thiên Đạo - Thế Đạo, kinh Tam Bảo Diễn Nghĩa và Nghi thức  truyền thống từ cơ bút Tòa Thánh Long Châu giai đoạn sơ nguyên.

“Phái đạo  Cao Đài Chiếu Minh - Toà Thánh Long Châu nghi thức Thiên bàn có phần đặc biệt riêng để đảm đương hai cơ Tịnh độ và Phổ độ là Tam bửu (rượu, trà, bạch thủy) để bên ngoài ngũ hành (lư hương). Còn cách chấp tay khuyết ấn Tý thì khi lạy xuống cũng giữ luôn ấn Tý nên cách chấp tay thẳng ngón, khi lạy thì hai bàn tay ngữa ra, ngón tay dương (trái) gát 1/3 trên ngón tay âm (phải). khi chấp tay thì ngón cái tay âm khuyêt ấn Dần của bàn tay dương.

(Tiếp theo là Thi Bài phần điểm danh................................

NGÂM

"Giả con nam nữ đàn tiền,

Ngọc kinh Thầy trở, diệu huyền ban chung.

Thăng".

 


[1] Danh sách Các ngôi nhà đàn trích Tam Nguơn Giác Thế.

1

Như lời dạy trên, Lễ Lạc Thành được tổ chức 03 ngày là 14 – 15 – 16 tháng 5 năm Bính Thân (1956) Dù đường bộ đường sông chật hẹp nhưng có trên 30 cơ sở đạo nhiều nơi về tham dự, và hằng ngàn nhân sanh, tín đồ dự lễ thật đông vui).

Như vậy Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh – Tòa Thánh Long Châu chính thức ra mắt nhân sanh năm 1956, nhưng mốc lịch sử tiền thân phải tính từ năm 1928 từ Nhà Đàn Thứ do chủ đàn là Ông Lê Minh Giác, còn gọi là Nhà Đàn Thạnh Mỹ hay Nhà đàn Chiếu Minh Rạch Sỏi…

Trên đây là những chứng minh và giới thiệu Bộ sách Nghi Lễ Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh – Tòa Thánh Long Châu được  Ơn Trên hướng dẫn qua Cơ bút tại Toà Thánh Long Châu thuở sơ  khai lập Toà Thánh và được lựa chọn kết hợp một số kinh luật thuần túy trong Đạo Cao Đài, để Nghi lể của một Hội Thánh Phái Chiếu Minh vừa lo cơ Tịnh độ cũng vừa lo cơ  Phổ độ, được sắp xếp lại vừa đầy đủ vừa gọn nhẹ để thực hiện phù hợp  trong nhị cơ nầy.

Các nghi thức thờ phượng, hành lễ, đến kinh luật trong Quan,  Hôn,  Tang, Tế của Đạo Cao Đài vừa nhất thể vừa đa dạng nên mỗi Hội Thánh đều có điểm giống nhau và khác nhau, nhưng cũng không ngoài  những bài kinh thuần túy được Ơn Trên điểm truyền bằng từ ngữ Nho tự. Như bài Cửu thiên.  bài Đại la. kinh Cảm ứng, kinh Tam giáo. Sau đó Ơn Trên cũng chuyển một số kinh văn Nho tự thành kinh văn vần từ ngữ Việt như Kinh Phật Mẫu, kính Cảm Ứng, 3 bài kinh Tam Giáo là phật Giáo tâm kinh, Tiên Giao tâm kinh, Thánh Giáo tâm kinh, 5 bài  kinh Tam Bảo là Di Dà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Kim Cang. Có một số kinh còn giữ nguyên văn Nho tự như Kinh Cửu Thiên, Kính xưng tụng Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Di Lạc chơn kinh v.v...

Phái Chiếu Minh phần lớn chọn đọc những bài kinh văn vần diễn nghĩa để thực hiện trong Nghi lễ.

BẢO PHÁP – TRẦN NGỌC LÀNH

NGHI LỄ HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

I/- PHẦN NGHI LỄ CƠ BẢN

  1. 1. NGHI LỄ

- Ý NGHĨA NGHI LỄ

Nghi: là nghi thức, phép tắc phải theo, là những phương thức biểu lộ sự cung kính một cách trang nghiêm đối với các đấng vô vi bề trên và để tôn thờ, xưng tụng, tôn kính, nhớ ơn…

Lễ: Những ngày có tổ chức hội tựu lớn, có ý nghĩa, truyền thống, nhớ ơn, hoặc kỷ niệm, thành lập, mừng, chúc v.v…Lễ cũng là đạo đức chung về nhân phẩm, nhân cách vốn có của con người, gọi là đạo đức con người. Thành ngữ có câu: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Nên mọi hình thức sinh họat truyền thống có giá trị tâm linh nhằm đánh dấu những thời điểm quan trọng trong tiểu sử cuộc đời hay lịch sử chung nhân loại.

Nghi lễ: Là những quy định và trật tự khi tiến hành một cuộc lễ. Tất có quy định mẫu mực từ những khuôn thước lễ nghi được sắp thành bài bản để theo đó mà thực hiện.

Nghi lễ trong dân gian là đạo đức truyền thống, coi trọng tình cảm và huyết thống gia đình. Có những phong tục tập quán nghi lễ luôn được lưu giữ và trường tồn, nhiều nghi lễ quan hôn tang tế không thể thiếu trong các nền Tôn giáo. Trong Nghi Lễ đặc biệt là phần kinh cúng tứ thời, người đạo Cao Đài xem đây là một pháp môn vô cùng trọng đại.

Nghi lễ là một phương tiện dẫn dắt đời sống tinh thần con người đạt đến nguồn chánh tín cứu cánh, hoằng pháp lợi sanh, là mẫu mực chung cho các cuộc lễ nghi, tụng niệm, cũng như phương thức thờ cúng, cách hành lễ, sinh hoạt trong  phạm vi tín ngưỡng của tùy theo mỗi Tôn giáo khác nhau, vì bất cứ một Tôn giáo nào cũng phải có những hình thức nghi lễ để tiêu biểu tinh thần đạo vị của mình, mặc dù trên hình thức âm điệu của mỗi Đạo giáo có phần khác nhau nhưng mục đích vẫn là sự chí thành cầu nguyện, tán thán vị giáo chủ mà mình đã tín ngưỡng tôn thờ.

Mỗi khi hành lễ, muốn được sự hoà điệu âm thanh nhịp nhàng, tăng phần trang nghiêm cảm ứng, đưa người trở về trong tâm thức của ý nghĩa đạo pháp cao cả, chúng ta cần phải có những pháp khí để làm phương tiện hỗ tương trong những chương trình đại lễ như  Lôi âm cổ, Bạch Ngọc Chung, Thanh chung, nhịp xanh, nhạc công, cùng âm giọng bổng trầm của Ban đồng nhi từ câu kinh tiếng kệ hòa theo các thể điệu truyền thống Việt Nam như Nam Ai, Nam Xuân, Đảo Ngũ Cung …

Phải thành kính trong khi hành lễ, thành và kính là hai yếu tố cần phải có trong một buổi lễ. Phải thận trọng trong cử chỉ và hành động, tâm phải chuyên chú hướng đến Thiên bàn để tạo sự trang nghiêm trong buổi lễ, không làm mọi người chung quanh mất tập trung tâm ý thành kính hiến dâng.

Khi thực hiện một nghi thức hành lễ chúng ta phải theo đúng quy định Nghi lễ của Hội Thánh ban hành, dù là một buổi lễ đơn giản. Điều cần thiết là phải nói lên được tinh thần buổi lễ và có sự tín tâm chí thành của mọi người chung quanh.

Hình thức Nghi lễ đối với Đạo Cao Đài rất nhiều, nhưng riêng Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh – Tòa Thánh Long Châu được tóm lược và quy định trong Lễ Bổn nầy có đủ các phần nhưBottom of Form trong Nghi thức các phần tế lễ được lập thành nhiều nghi tiết như: Nghi tiết Đại lễ Đức Chí Tôn, Nghi tiết Đại lễ Hội Yến Bàn Đào Diêu Trì Cung, Nghi tiết lễ Tế Chiến Sĩ, Nghi tiết lễ Kỷ niệm Tri ân Chư vị Tiền Bối quá vãng v.v…

Là người tín đồ Đạo Cao Đài chúng ta phải luôn luôn tinh tấn tụng niệm. Mục đích chính là hướng dẫn con người trở về cảnh giới an vui giải thoát. Do đó học và hiểu rõ giá trị nghi lễ, để áp dụng đúng với ý nghĩa của nó, ngoài ra còn phải hiểu rõ được các nghi thức cũng như lễ phẩm đặc thù áp dụng một phương tiện tốt đẹp cho công việc tu dưỡng bản thân, và cảm hoá mọi người, đưa mọi người vào đạo một cách tốt đẹp, cũng như làm cho tổ chức ngày một thăng tiến.

1.2. Ý NGHĨA LỄ NHẠC

ĐẠO CAO ĐÀI

- NHẠC LỄ CAO ĐÀI

Nhạc lễ Đạo Cao Đài mang tính hài hòa, trật tự và thành kính vì nếu không có sự đồng thông, đồng âm, đồng điệu, hòa nhịp, hòa duyên cùng nhau thì không thể thành nhạc, nên trong nhạc phải có hòa. Khi trong tâm hồn có sự điều hòa là trừ được tư tâm, phàm ngã, luôn thể hiện lòng thành kính, kính dâng, cũng như sự trọng thể của lễ nghi. Nên trong lễ có nhạc, trong nhạc có hòa, trong hòa có lễ.

Lễ và Nhạc còn bao hàm ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm trong Bát hồn vận chuyển. Nhạc đại biểu cho trạng thái hoà thuận êm ấm nhất của vạn vật trong trời đất; Lễ đại biểu cho tình thái trật tự tốt nhất của vạn vật trong trời đất. Có được hòa thuận êm ấm cho thì vạn vật mới được tự nhiên tư sinh hoá dục. Nguồn gốc nhạc lễ được khởi nguyên từ lý âm quang và sanh quang bát hồn vận chuyển, ngũ hành vận hành nghĩa lý rất sâu xa mầu nhiệm. Nên dùng lễ nhạc để kính dâng lên các đấng Thiêng Liêng sẽ tiếp nhận được nhiều hồng ân cao cả.

Khi vào làm lễ, lúc Nhạc Tấu Huân Thiên; tức là lễ hiến dâng sự sống cho Ðức Chí Tôn là Thầy của cả càn khôn vạn vật, tất cả phải đứng ngay ngắn, nghiêm chỉnh. Nhạc là hưởng ứng của cả khối sanh quang, của càn khôn vạn vật đồng thinh.

Các vật vô năng mà nói đặng, lại có trật tự niêm luật hòa nhau ấy là đạt đạo, hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật đồng thinh hiến lễ. Nơi Thầy ngự là Ngọc Hư Cung có đôi liễn: Bát hồn vận chuyển ca Huỳnh lão, Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn. Đây là tâm pháp cao siêu chỉ rõ từ Khối Đại Linh Quang chiết sanh ra các Tiểu Linh quang, trong đó còn gọi là Bát hồn vận chuyển, mà nguồn khởi nguyên từ âm thinh đầu tiên trong vũ trụ. Âm thinh là khởi điểm biến sanh đầu tiên trong vô tận.

 Nhạc Cao Đài luôn sử dụng theo nhạc cổ điển Việt Nam không pha chế, hòa trong Pháp khí kinh điển Cao Đài tạo thành âm nhạc để thiết cúng, mục đích nhạc lễ là để nương theo âm điệu hoà với tiếng kinh để tất cả đều tập trung một cách chí thành hiến dâng các đấng Thiêng Liêng trong giờ hành lễ.

- Ý NGHĨA LỄ NHẠC

Qua bài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ngày 01/08 Đinh Hợi 1947 tại đền Thánh có nêu trích Thánh giáo Ðức Lý Giáo Tông dạy rằng trên Ngọc Hư Cung có hai câu liễn :


Phía hữu : Bát hồn vận chuyển ca Huỳnh Lão.

Phía tả  : Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn.

Kể từ phôi thai càn khôn vạn vật nầy, Chí Tôn là khối sanh quang, biến thành hai khối sanh khí, hai khối ấy trụ lại thành một khối lớn tương hiệp nhau mới nổ sanh tiếng âm, người ta gọi là nổ ầm, hay nghe tiếng Ni, Ðạo Phật sửa lại thành Úm ( Úm ma ni bát rị hồng ) nhờ tiếng nổ ấy bát hồn mới vận chuyển biến sanh vạn vật và loài người.'

Tiếng ấy bay ra nghe đến đâu thì khí sanh quang đến đó tức là có sự sống đến, bằng chẳng nghe được thì nơi ấy tiêu diệt nghĩa là chết mất mà thôi.

'Bởi cớ nên dùng những vật bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn là tấm da trâu đã chết mà với sự khôn ngoan của loài người nó mới có tiếng kêu được tức là làm cho nó sống lại được, nghĩa là bát hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ Ðức Chí Tôn, vì cớ nên khi nghe Nhạc Tấu Huân Thiên là có âm thinh sắc tướng, song hiểu xác lý: Khi dâng lễ Chí Tôn quy pháp định, thấy và nghe cả Bát Hồn vận chuyển dâng cái sống cho Ngài”.

Nên chi từ đây, khi Nhạc Tấu Huân Thiên chúng ta xem quý hơn dâng Tam Bửu, dầu phải lỡ đi nửa chừng trong Ðền Thờ, nghe đến đó phải dừng lại, cấm không được đi lộn xộn để khỏi giảm điều kính trọng dâng cho Chí Tôn mà không nên.

Lễ Nhạc do nơi âm thinh, bởi thế nên chúng ta thấy dù khắp muôn nơi từ nghìn xưa đến giờ phút nầy, dầu văn minh thế nào mà hiểu đặng nền tăng tiến lễ nhạc thì đều khen ngợi. Từ xưa danh Ðức Khổng Tử chỉnh đốn hoàn bị nền lễ nhạc có phương thế làm môi giới là khí cụ cho toàn vạn quốc đương buổi nầy, lấy tư cách lễ độ làm ngoại giao, nên Nhạc lễ Cao Đài tôn vinh Đức Thánh Khổng Tử làm vị Thánh Tổ.

Nhạc được sản xuất trong tinh thần, mà tinh thần mới thiệt là Ðạo. Tại sao Nhạc là Lễ ? Dù cho nhiều loại đờn, kèn, trống âm thanh khác nhau, nhưng hòa âm cùng nhau đều giống nhau ở nhịp trường canh, ở nơi âm điệu, ở sự bổng trầm khoan nhặt, khi thì sâu lẳn, lúc vút tận trời mây do sự đồng điệu hòa lẫn tạo thành không hề riêng rẻ.

Trong khuôn khổ hòa điệu với nhau ấy là lễ. Cho nên lễ nhạc do nơi kết hợp hòa âm gọi là nhạc hòa, vì nhạc mà không hòa thì không thể thành nhạc.

- BÁT HỒN VẬN CHUYỂN

+ Kim thạch hồn

+Loài Kim thạch có sự sống chưa thể hiện rõ rệt, nó chỉ là sự liên kết của các tế bào tạo thành tinh thể rắn chắc. Loài kim thạch hoàn toàn không có tri giác.

+ Thảo Mộc hồn

Thảo mộc hồn, được Thượng Đế ban cho một điểm nguyên hồn để làm Sanh hồn, tạo nên sự sống. Điểm nguyên hồn nầy được Đấng Thượng Đế rút ra từ khối Đại hồn (Đại Linh Quang) của Ngài.

Loài Thảo mộc chỉ có sự sống mà chưa có tri giác.

Loài Thảo mộc cấp cao thì lá biết khép lại khi đêm xuống hay khi bị đụng chạm, như cây su đũa, cây mắc cỡ; vài loại Thảo mộc có cánh hoa phát ra mùi thơm để dụ côn trùng bay đến rồi khép các cánh hoa ấy lại đặng bắt côn trùng mà hút thịt và máu. Như thế, chúng đã có chút ít tri giác nhưng rất thô sơ, gần như chỉ là những phản xạ tự nhiên.

Từ Vật chất Hồn tiến lên một bậc trong nấc thang tiến hóa đó là Thảo Mộc Hồn.

Như thế, ý nghĩa đầu tiên của sự tồn tại của Thảo Mộc Hồn là học hỏi về sự sinh tồn trong thiên nhiên được Thượng Đế ban thêm cho một điểm nguyên hồn nữa để làm Giác hồn, tạo ra sự hiểu biết, như đau đớn biết la, sợ hãi biết chạy trốn, biết đi tìm thức ăn thích hợp, biết tìm chỗ ẩn trú an toàn, biết nuôi con, có chút ít trí nhớ nhưng rất sơ sài.

+ Thú cầm hồn

Các loài động vật xuất hiện ban đầu chỉ có một hình thức là động vật ăn thực vật. Nhưng trong quá trình sinh sống và phát triển thì có những khu vực mà nơi đó các loài động vật phát triển quá nhanh, làm cho số lượng thực vật giảm đi, để cho cân bằng sinh thái thì các loài động vật ăn thịt xuất hiện.

+ Nhân hồn

Nhân hồn thuộc Nhơn loại, là đẳng cấp cao nhứt của chúng sanh, được Thượng Đế ban thêm cho một điểm nguyên hồn nữa để làm Linh hồn, lúc đó sự hiểu biết mới được hoàn toàn.

Nhờ linh hồn, con người có được sự hiểu biết, sự suy nghĩ, phán đoán, biết được lẽ phải trái và có tính linh. Đến đây, con người có đủ Tam Hồn là: Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn. Nhân hồn có 3 dạng người: Hóa nhân, Nguyên nhân, Chân nhân.

+ Thần hồn

Từ Nhơn Hồn mà biết làm lành lánh dữ, học hỏi cho trí thức tinh thần phát triển và làm những việc hợp lẽ Đạo đối với cuộc sống thì sẽ đạt được phẩm Thần Hồn hay Thánh Hồn tùy theo công nghiệp nhiều hay ít.

+ Thánh hồn

Từ Thánh Hồn cũng từ làm lành lánh dữ, học hỏi cho trí thức tinh thần phát triển và làm những việc hợp lẽ Đạo đối với cuộc sống thì sẽ đạt được phẩm Thần Hồn hay Thánh Hồn tùy theo công nghiệp nhiều hay ít.

Thần Hồn thành Thánh Hồn thì cũng lo điều đình những việc xảy ra trong vũ trụ.

Nhiệm vụ của  Thánh vị là giúp đỡ, hộ trì cho loài người và các phẩm thấp hơn trước thế lực cường quyền của tà quái, của lực lượng đối kháng cùng Thượng Đế.

+ Tiên hồn

Thần hồn và Thánh hồn khi lập công bồi đức, tạo được nhiều thiện nghiệp, học hỏi thêm nhiều điều về trí thức tinh thần, vẹt được thêm phần nào lớp màn vô minh, hoàn thành được sứ mạng của mình, dẫn dắt được con người hướng về cửa Đạo. Khi ấy thì phẩm vị sẽ được thăng lên phẩm Tiên Hồn. Bên cạnh đó, có những bậc tu hành đạt Đạo, vẫn còn mang thể xác phàm, nhưng Chơn hồn đã lên đến phẩm Tiên hồn được gọi là Tiên nhân.

Lên đến phẩm Tiên hồn là đã vào hàng Trọn lành, lo việc đào luyện về trí thức, tinh thần, đạo đức cho các phẩm thấp hơn.

+ Phật hồn.

Sự Tiến hóa đi lên của Nhơn hồn, khi đã đến Phật hồn rồi thì chưa phải là đến mức tận cùng của nấc thang tiến hóa. Phật hồn còn phải tiếp tục tu luyện để tiến hóa lên mức tận cùng tối cao là Thiên hồn, tức là Đại hồn của Thượng Đế.

Tới đây mới giáp một chu trình tiến hóa của Vạn linh, bởi vì Vạn linh xuất phát từ Thiên hồn (Đại Hồn, Đại Linh Quang, Thái Cực), đi chu du một vòng tiến hóa, trải qua Bát hồn, nay trở về hiệp nhập vào Đại hồn của Thượng Đế là đúng một chu trình tiến hóa.

Qua tìm hiểu sâu xa trong ý nghĩa nhạc lễ Cao Đài mang âm hưởng văn hóa của dân gian Nam Bộ với điệu Nam xuân, Nam ai, Đảo ngũ cung; Thể thơ Song thất lục bát, Tứ tuyệt, Bát cú khi hành lễ. Người Đạo Cao Đài luôn có Ban lễ nhạc với các dụng cụ âm nhạc truyền thống như đàn cò, đàn kìm, phách, sáo, nhị v.v… cũng như các thể điệu truyền thống Việt Nam như Ba nam, Sáu bắc, Bảy bài …và luôn luôn sử dụng từ cây đàn cò làm đàn chánh,

Đây cũng là phương cách siêu độ mà Ơn Trên đã dạy cho người tín hữu Cao Đài thực hiện trong thời Tam Kỳ Phổ Độ này .

Đây cũng chính là lễ mà các chơn hồn mới giác ngộ còn đang ở trong cõi âm quang  được tiếp dẫn ra khỏi cảnh nầy để đi tu học, hoặc các chơn hồn đã giác ngộ nay lại lập thêm được nhiều công hạnh mới nên được thăng hoa lên phẩm vị cao hơn...Các chơn hồn giác ngộ này đã được Ơn Trên ví như những cánh hoa Trời xinh đẹp.  Chơn giác đồng đăng Thiên hoa đài vị;  có nghĩa là các chơn hồn giác ngộ đều được thăng lên ngự trên đài hoa Trời do Thượng Đế ban trong Tam Kỳ Phổ Độ .

1.3. NGHI LỄ HỘI THÁNH

CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

Phải giữ gìn chuẩn mực cho mọi hình thức hoạt động đạo sự Quan Hôn Tang Tế, được sắp sếp gọn nhẹ phù hợp với một phái đạo vừa lo cơ Phổ độ vừa lo pháp đạo cơ Tịnh độ, nhưng tương đối đầy đủ về kinh lễ, kinh luật, nhạc, lễ, hòa. Về việc thờ phượng và kệ kinh luôn dựa trên nền tảng truyền thống lâu đời của Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu. 03 Nhạc, Lễ, Đồng nhi trong Ban Nghi Lễ khi đến các nơi tùy theo yêu cầu để làm nhiệm vụ đảm trách trong tang tế sự, tuyệt đối không nhận bất cứ một vật lễ nào của gia đình, người thân đáp tạ.

Nghi lễ là một trong những trọng tâm của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Nghi lễ đã được quy định những nét căn bản trong việc Quan hôn tang tế, biểu tượng thờ phượng, ý nghĩa cách cúng lạy v.v… Nghi Lễ Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh - Tòa Thánh Long Châu cũng là một công trình chung cho toàn phái đạo nầy. Lập thành Lễ Bổn được Hội Thánh kiểm duyệt và toàn đạo nhất trí cao để cùng thực thi trên đường hành đạo phụng sự nhơn sanh.

1.4. CÁCH CHẤP TAY VÀ XÁ, LẠY

-Ý NGHĨA VÀ CÁCH CHẤP TAY

2

Khi hai tay chấp lại, thì ngón tay cái của bàn tay trái khuyết ấn tý trong bàn tay trái, còn ngón tay cái của bàn tay phải thì chỉ vào khuyết Dần của bàn tay trái. Hai bàn tay chấp úp lại với nhau (hoa sen nở), khác cách chấp tay óp tròn (hoa sen búp). 

3

Dù đang đứng, quỳ, xá, lạy hay đang  đánh chuông thì tay trái vẫn luôn luôn khuyết ấn tý trong bàn tay trái. 

4

Khi lạy xuống thì hai bàn tay ngữa ra, tay trái giữ nguyên khuyết ấn tý và nằm 1/3 trên bàn tay phải, tức trên 2 ngón Áp và Út của bàn tay phải.

Ngón tay cái của bàn tay trái là Dương cực ở bàn tay Dương (bàn tay trái là bàn tay Dương) để khuyết ấn Tý là cung chỉ về “Thiên Khai ư Tý”, tức Trời khai vào Hội Tý. Còn dùng ngón tay cái của bàn tay phải là Âm Cực (bàn tay phải là bàn tay Âm) chỉ vào khuyến Dần của bàn tay trái (Nhơn sanh ư Dần: Người sanh vào hội Dần). Như vậy Âm cực chỉ vào khuyết Dần, Dương cực chỉ vào khuyết Tý là sự biểu hiện Người đang dâng lên Trời vậy.

Đặc biệt: Người tu tịnh Phái Chiếu Minh trong việc lễ nghi cách chấp tay, xá, lạy luôn giữ khuyết ấn Tý một cách toàn diện. Nghĩa là dù khi xá hay khi lạy xuống, thì bàn tay trái vẫn luôn giữ khuyết ấn Tý. Hoặc lúc tay phải đang cầm dùi đánh chuông, thì bàn tay trái vẫn giữ xòe thẳng lên, để nơi ngực và khuyết ấn Tý.

- Ý NGHĨA KHI QUỲ VÀ LÚC ĐỨNG LÊN

Khi đứng vào vị trí hành lễ hướng về Thiên bàn xá 3 xá rồi quỳ, Cách quỳ Nam bước chân trái tới, chân phải quỳ, chân trái quỳ theo. Nữ bước chân phải tới, chân trái quỳ, chân phải quỳ theo. Còn khi cúng xong lúc đứng lên thì Nam chân trái dựng lên trước rồi đứng lên. Nữ chân phải dựng lên trước rồi đứng lên, xá 3 xá rồi Nam Nữ đều theo hướng tay trái mà quay về phía sau xá 1 xá. Xong bước ra hai bên, nam theo nam, nữ theo nữ. sắp hàng thẳng hướng về Chánh điện. Chờ chuông xá đàn và mãn lễ.

Cách quay về phía sau xá 1 xá, nghi nầy chỉ có tại Hội Thánh, Thánh Tịnh, Nhà Tịnh, Điện thờ Phật Mẫu vì những nơi nầy phía sau có bàn thờ Hộ Pháp còn Điện Thờ Phật Mẫu tuy phía sau không có bàn Hộ Pháp nhưng để tưởng nhớ khí Sanh quang của Đức Mẹ là nguồn sinh dưỡng luôn che chở và bảo vệ các con. Còn cúng tại Tư gia thì khỏi quay về phía sau để xá.

- Ý NGHĨA VÀ CÁCH XÁ

Việc xá lúc đứng hay quỳ hoặc khi lạy đều phải giữ đúng ý nghĩa Thiên Địa Nhân như sau: chấp tay đưa lên (Thiên), đưa xuống (Địa), rồi rút vào ngực (Nhân). Khi đưa lên hay đưa xuống không cần quá cao hay quá sâu mà chỉ cần có thể hiện tượng trưng là đủ.

- Ý NGHĨA VÀ CÁCH LẠY

+ Khi lạy thì hai bàn tay ngữa ra và luôn giữ khuyết ấn tý trong bàn tay trái, Đồng thời, bàn tay trái (Dương) nằm 1 phần 3 trên bàn tay phải (Âm).

+ Lạy Thầy (Đức Chí Tôn) 12 lạy, (tức 3 lạy, mỗi lạy 4 gật) vì Thầy làm chủ Thập Nhị Khai Thiên.

+ Lạy Mẹ (Đức Phật Mẫu) 9 lạy. (Tức 3 lạy, mỗi lạy 3 gật) Vì Đức Mẹ làm chủ Cửu Thiên Khai Hóa).

+Lạy Phật Tiên 9 lạy. (Tức 3 lạy, mỗi lạy 3 gật) Vì chư Phật Tiên trong hàng Cửu Thiên Khai Hóa).

+ Lạy Thánh Thần 3 lạy (Vì Thánh Thần vào hàng thứ 3 trong 5 bậc tiến hóa.

+ Lạy người sống 2 lạy (Vì 1 lạy Âm, 1 lạy Dương. Âm Dương là nguồn bản sự sống)

+ Lạy Vong linh 4 lạy (Vì 1 lạy Âm, 1 lạy Dương và 2 lạy Vong linh).

1.5. THỈNH THÁNH

-Ý NGHĨA THỈNH THÁNH

Thỉnh Thánh là lời thỉnh nguyện đầu tiên khi hành lễ trước Thiên bàn để trình các Đấng Vô Vi gồm lấy dấu Phật, Pháp, Tăng và 5 câu nguyện theo quy định của Phái đạo.

-CÁCH THỈNH THÁNH

Thỉnh Thánh bao gồm sự kỉnh Phật, Pháp, Tăng và và 5 câu nguyện các Đấng như sau:

+ Hai tay chấp lại đưa lên trán niệm : Nam mô Phật.

+ Đưa qua trái : Nam Mô Pháp

+ Đưa qua phải : Nam mô Tăng.

Rồi đưa lên trán từ từ xá xuống niệm:

+ Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đại Thiên Tôn.

+ Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

+ Nam Mô Tam Giáo Tổ Sư, Tam Trấn Oai Nghiêm.

+ Nam Mô Ngôi Hai Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

+ Nam Mô Nhị Thiên Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

  1. 1.6.LÔI ÂM CỔ

Lôi Âm Cổ (trống chầu) để thực hiện các lễ nghi nơi Hội Thánh, Thánh Tịnh vào các kỳ Vía lớn hoặc ngày rằm nguơn thường lệ mới cúng Đại Đàn hoặc Trung Đàn.

Các lễ Trung Đàn có dâng sớ nhưng khỏi Lễ sĩ đi dâng.

Mỗi kỳ Đại Đàn hay Trung Đàn thì có đánh Lôi Âm Cổ và Bạch Ngọc Chung, còn Tiểu Đàn chỉ có Bạch Ngọc Chung mà thôi.

Lưu ý: Trước khi đánh Lôi Âm Cổ hay Bạch Ngọc Chung cũng phải gỏ nhè nhẹ 2 tiếng để báo tin trước.

- KỆ LÔI ÂM CỔ ĐẠI ĐÀN

(Đọc 4 câu, mỗi câu 1 tiếng như sau):

+ Lôi âm thánh cổ triệt hư không. (1 tiếng)

+ Truyền tấu Càn Khôn thế giái không. (1 tiếng)

+ Đạo pháp đương kim dương chánh giáo. (1 tiếng)

+ Linh quang chiếu diệu Ngọc kinh cung. (1 tiếng)

* HỒI TRỐNG THỨ NHỨT

+Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 7 tiếng, rồi đánh nhồi 2 tiếng thành 9 tiếng.

+Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 10 tiếng, rồi đánh nhồi 2 tiếng thành 12 tiếng.

+Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 22 tiếng, rồi đánh nhồi 2 tiếng thành 24 tiếng.

* HỒI TRỐNG THỨ NHÌ

+Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 10 tiếng, rồi đánh nhồi 2 tiếng thành 12 tiếng.

+Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 22 tiếng, rồi đánh nhồi 2 tiếng thành 24 tiếng. Rồi đánh liên thinh đổ vót.

* HỒI TRỐNG THỨ BA

+Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 10 tiếng, rồi đánh nhồi 2 tiếng thành 12 tiếng.

+Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 22 tiếng, rồi đánh nhồi 2 tiếng thành 24 tiếng. Rồi nhịp nhè nhẹ và đánh mỗi lần 3 dùi, đánh đủ 4 lần là 12 dùi. Ấy là thâu Thập nhị khai thiên.

1.7. BẠCH NGỌC CHUNG

- KỆ BẠCH NGỌC CHUNG ĐẠI ĐÀN

+ Thần chung khởi động thấu Diêm đô, (1 dùi)

+ Địa Tạng khai ân phóng xá cô. (1 dùi)

+ Vận chuyển Tam kỳ châu hiển hiện, (1 dùi)

+ Thành tâm sám hối thoát tù đồ. (1 dùi)

* HỒI CHUNG THỨ NHỨT

+Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 7 dùi, rồi đánh nhồi 2 dùi thành 9 dùi.

+Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 10 dùi, rồi đánh n nhồi 2 dùi thành 12 dùi.

* HỒI CHUNG THỨ NHÌ

+ Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 10 dùi, rồi đánh nhồi 2 dùi thành 12 dùi.

+ Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 22 dùi, rồi đánh nhồi 2 dùi thành 24 dùi. Rồi liên thinh đổ vót.

* HỒI CHUNG THỨ BA

+ Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 10 dùi, rồi đánh nhồi 2 dùi thành 12 dùi.

+ Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 22 dùi, rồi đánh nhồi 2 dùi thành 24 dùi. Rồi nhịp nhè nhẹ và đánh mỗi lần 3 dùi, đánh đủ 4 lần là 12 dùi. Ấy là thâu Thập nhị khai thiên./.

Cúng xong đánh chung bãi đàn.

-KỆ BẠCH NGỌC CHUNG TIỂU ĐÀN

- HỒI CHUNG THỨ NHỨT (Kệ chung báo đàn)

(Đọc 3 câu, mỗi câu 1 dùi như sau):

+ Vân chung khấu hướng huệ trưởng Càn Khôn. (1 dùi)

+ Pháp giới chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn. ( 1dùi)

+ Án dà ra đề dạ ta bà ha. (1dùi, Rồi 1 hồi vót)

- HỒI CHUNG THỨ NHÌ (Kệ chung nhập đàn)

(Đọc 3 câu, mỗi câu 1 dùi như sau):

+ Thiết vi u ám tất giai văn. (1dùi)

+ Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác. (1dùi)

+ Án dà ra đề dạ ta bà ha. (1dùi, Rồi 1 hồi vót)

- KỆ CHUNG BÃI ĐÀN CỦA ĐẠI ĐÀN VÀ TIỂU ĐÀN

(Đọc 3 câu, mỗi câu 1 dùi như sau):

+ Đàn tràng viên mãn chức sắc qui nguyên, vĩnh mục từ ân phong đều võ thuận. (1dùi)

+ Thiên phong hải chúng quốc thới dân an, hồi hướng đàn tràn tận thâu pháp giới. (1dùi)

+ Án dà ra đế dạ ta bà ha./. (1dùi),

Rồi 1 hồi vót, cuối cùng đánh 3 dùi là dứt./.

1.8. THANH CHUNG

Thanh chung còn gọi là chuông

- PHÂN BIỆT 3 LOẠI CHUNG:

+ Tiếng khắc chung, (dùi chung gõ nhẹ trên miệng chung rồi để luôn không giở lên, nghe âm thanh ngắn) là báo hiệu chuẩn bị đọc kinh, hoặc đọc sớ, hoặc khi quỳ xuống, khi đứng lên, khi lạy xong quỳ lên.

+ Tiếng chung vừa (gõ nhẹ, âm thanh ngân nhỏ) là báo hiệu xá, hoặc cúi đầu.

+ Tiếng chung lớn (gõ mạnh, âm thanh ngân to) là báo hiệu lạy.

- CÁCH HẦU CHUNG HÀNH LỄ

+ Chung 3 tiếng báo tin chuẩn bị hành lễ

+ Chung 6 tiếng báo tin hiện diện đầy đủ.

+ Chung 9 tiếng xá đàn, bước vào vị trí.

+ Chung 12 tiếng xá, quỳ, và Thỉnh Thánh.

Trong khoảng cách thời gian từ hồi chung 3, chung 6, chung 9, hoặc chung 12 không được khắc chung, không làm mất tiếng ngân của chung nầy bước sang chung khác.

- CÁCH ĐÁNH CHUNG HÀNH LỄ

+ Cách đánh chung 3: Đánh 2 tiếng nhồi rồi 1 tiếng sau là chung 3.

+ Cách đánh chung 6: Đánh 2 lần chung 3 = là chung 6.

+ Cách đánh chung 9: Đánh 3 lần chung 3 = là chung 9.

+ Cách đánh chung 12: Đánh 1 tiếng rồi chung 3, đủ 3 lần như vậy là chung 12).

Chung hành lễ dành cho mở đầu các lễ Đại đàn, Trung đàn, Tiểu đàn, Hoan, Hôn, Tang, Tế. Mỗi phần trong Quan, Hôn, Tang, Tế, Cúng Tứ thời hằng ngày, và các phần lễ khác như Lễ Thượng Tương, Lễ Thượng Phướn, Lễ Cầu siêu, Lễ Cầu an, v.v…

1.9. LỄ PHẨM THIÊN BÀN

VÀ CÁC BÀN THỜ

- BIỂU ĐỒ KHUÔN THỜ VÀ LỄ PHẨM

Khuôn ảnh thờ

       

0

       
 

3

     

1

     

2

Lễ Phẩm

       

4

       
 

9

   

7

5

6

   

8

+ Lễ phẫm Thiên bàn: Phần lễ phẩm Thiên bàn gồm có: 1 là Đèn thái Cực, 2 là Bình bông, 3 là Dĩa trái, 4 là Lư hương, 5 là Rượu, 6 là Bạch thủy, 7 là Trà, 8 và 9 là cặp đèn lưỡng Nghi.

- BIỂU ĐỒ Ý NGHĨA TƯỢNG TRƯNG 9 MÓN LỄ PHẨM TRÊN THIÊN BÀN

Số BIÊU ĐỒ

VẬT

TƯỢNG TRƯNG

PHỤ GHI

Số 1

Đèn lưu ly

Thái Cực

Tâm đăng

Số 2

Bình bông

Dương

Tiên Thiên ngũ sắc

Số 3

Dĩa trái cây

Âm

Hậu Thiên ngũ quả

Số 4

Lư hương

Ngũ Hành

Giới. Định. Huệ. Giải. Tri

Số 5

3 ly rượu

Khí

Chuyển

Số 6

Bạch thủy

Tinh

Tịnh

Số 7

Trà

Thần

Động

Số 8 và 9

Bộ chưng đèn

Lưỡng Nghi

Nhật Nguyệt

Trên đây là Nghi thức Thiên Bàn. Tất cả Lể phẩm trên Thiên bàn được quy định đúng với nghĩa lý cao siêu của đạo không thể thay đổi được. Thiên bàn là nơi thờ Thầy như một bản đồ lớn được vận hành trong Càn khôn vũ trụ. Tất cả các bàn thờ khác như bàn Quan Âm, bàn Quan Thánh, bàn Hộ Pháp v.v… tuy hình thức lớn nhỏ khác nhau nhưng vị trí lễ phẩm trên bàn mỗi bàn thờ đều giống như nhau không được thêm hay bớt bất cứ một lễ phẫm nào. Đó chính là giữ gìn thể pháp của Hội Thánh mình.

- ĐÈN THÁI CỰC đặt ở giữa gọi là Thái cực đăng, được thắp sáng liên tục trên Thiên bàn, tượng trưng cho nguồn gốc của vũ trụ, là động năng nguyên thủy và vĩnh cửu phát sinh hai năng lực Âm Dương trong trời đất để hóa sinh muôn loài, vạn vật.

Thái cực đăng còn tượng trưng cho tâm đăng như Kinh Đại Thừa Chân Giáo có dạy: “Ngọn đèn các con thờ chính giữa đó là giả mượn làm tâm đăng, Phật Tiên truyền đạo cũng do đó, các con thành đạo cũng tại đó...”

Vậy, đèn Thái cực và hai tách nước âm dương tượng trưng Thái cực phân Lưỡng nghi, theo quan niệm về vũ trụ của người đông phương, cũng là quan niệm của Đạo Cao Đài.

- BÌNH HOA biểu hiện cho sự xanh tươi tốt đẹp, chỉ về tinh là hình thể con người. Năm sắc hoa là tượng trưng cho năm mầu da trên thế giới: vàng, trắng, đỏ, xanh, đen.

- DĨA TRÁI CÂY xếp theo vị trí âm dương, trái cây tượng trưng cho Hậu thiên Ngũ vị đối với Tiên thiên ngũ khí. Trái cây cũng biểu hiện cho người tu hành được thành công đắc quả.

- LƯ HƯƠNG Lư hương chỉ về An Lư Lập Đảnh nên phải để ngay giữa. Ý nghĩa năm cây hương là Ngũ hành, Ngũ khí triều nguơn, hay gọi là Ngũ hương gồm: Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Tri kiến hương.

Đặc biệt: Người tu tịnh phái Chiếu Minh phải thể hiện Tam Bửu thoát ngoài Ngũ Hành nên Rượu, Trà, Bạch Thủy phải để bên ngoài Lư Hương cho hợp với sự chuyển vận của pháp môn nầy.

5

Nhang chưa đốt thì gọi là cây nhang, khi đốt có mùi hương thì gọi là cây hương. Khi cắm 5 cây hương vào lư hương trên Thiên bàn thì cắm cây giữa (số 1) trước, rồi đến cây bên trái (số 2), rồi đến cây bên phải (số 3). Xong hàng trong thì tới hàng ngoài cắm cây bên trái (số 4) trước, rồi tới cây bên phải (số 5).

Lưu ý: 2 cây hương ngoài so le với 3 cây hương trong để phía bên ngoài nhìn vào thấy rõ 5 cây hương. 5 cây hương có ý nghĩa như sau:

+ Giới hương: (cây hương số 1) nghĩa là phải giữ trọn giới cấm cho tâm mình trong sạch; do sợ luật luân hồi quả báo của trời, nên mới dấn thân vào đường tu niệm, khi vào đường tu niệm thì phải trọn giữ giới cấm cho tâm được trong sạch. Thuộc về Phật.

+ Định hương: (cây hương số 2) giới cấm rồi, thì phải học về Thể Pháp và Bí Pháp của đạo; lúc đó mới thiền định cho tâm thần an tịnh. Thuộc về Pháp.

+ Huệ hương: (cây hương số 3) nghĩa là thiền định rồi phát huệ; khi đã thiền định rồi, thì trở thành người có huệ sáng suốt, ấy là đoạt Pháp. Thuộc về Tăng.

+ Tri kiến hương: (cây hương số 4) nghĩa là phát huệ rồi gia công thêm nữa thì sẽ biết cái lẽ màu nhiệm của tạo hóa tức là đắc lục thông. Tri kiến, nghĩa là biết và thấy.

Khi đoạt Pháp rồi, thì sẽ thấy được thế giới vô hình, và biết được sự mầu nhiệm của Đức Chí Tôn.

+ Giải thoát hương: (cây hương số 5) nghĩa là giải thoát luân hồi quả báo; được giải thoát luân hồi quả báo, tức là đoạt đến phẩm vị Phật.

Người tín đồ Cao Đài hàng ngày có 04 khóa lễ vào các giờ Tý, Mẹo, Ngọ, Dậu (thời Tý từ 11 giờ đêm đến 1 giờ khuya, thời Mẹo từ 5 giờ sáng đến 7 giờ sáng, thời Ngọ từ 11 giờ trưa đến 1 giờ trưa, thời Dậu từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối); một ngày có 24 giờ, chia cho 12 tức là Thập Nhị Thời Thần, mỗi một thời có 2 tiếng đồng hồ.

+ Thời Tý: Đúng 12 giờ đêm là chính giữa của thời, là trung hoà chi đạo, là giờ giáp giới, ngày cũ hết, ngày mới bắt đầu, nên 12 giờ đêm 30 tháng 12 gọi là giờ giao thừa. Thời Tý là thời cực Âm sinh Dương, do nhất điểm Dương sinh chi thủy, vận chuyển càn khôn hóa sinh vạn loại. Cúng thời này phải dâng rượu và sẽ được hưởng khí sanh quang làm cho khí phách được mạnh mẽ, trí não sáng suốt.

+ Thời Mẹo: là thời Nguơn Thần, sau những giờ định tịnh mà phát khởi biến hóa, sinh trưởng muôn loài, do Âm Dương vãng lai giao thời, gọi rằng Thủy Hỏa ký tế, vạn loài hữu sinh. Cúng thời này phải dâng trà và sẽ được hưởng Thần lực làm cho Chơn Thần được khoẻ mạnh.

+ Thời Ngọ: là thời Nguơn Khí có đầy đủ ánh sáng Dương quang, soi thấu cả nguồn sinh khí của toàn thể muôn loài, tức là cực Dương sinh Âm, là nguồn tịnh dưỡng Nguơn Khí, nên phải cúng rượu. Khi đó sẽ được hưởng khí sanh quang nuôi dưỡng khí phách được an tịnh.

+ Thời Dậu: là thời Nguơn Thần, Âm Dương giao thời, Thủy Hỏa ký tế, vạn loại toại yên, nên phải cúng trà và sẽ nuôi dưỡng Chơn Thần an tịnh.

- BA LY RƯỢU là tượng trưng cho ba cõi: Hạ giới, Trung giới, Thượng giới, Khi cúng rót rượu ba phân tượng trưng cho ba bậc tu hành: Hạ thừa, Trung thừa, Thượng thừa; và ba bậc trí thức là: Hạ lưu, Trung lưu, và Thượng lưu.

+ Rượu: đặt ngay giữa. Rượu chỉ về Khí, Là một trong Tam bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

+ Rượu Khí, nước trắng: Tinh, trà: Thầnlà Tam bửu để ngoài Lư hương là thoát Ngũ hành của Phái tu tịnh Chiếu Minh. Dĩa đựng tách nước trắng, dĩa đựng 3 ly rượu, và dĩa đựng tách nước trà để ngang nhau và gần nhau.

Ba ly rượu : Khi cúng, dùng rượu trắng tinh khiết rót vào 3 ly, mỗi ly rót 3 phân rượu.

Rượu tượng trưng KHÍ, mà Khí là chơn thần.

Đức Chí Tôn dùng rượu tượng trưng chơn thần của chúng ta là muốn chơn thần cường liệt như rượu mạnh vậy.

Tại sao chỉ rót 3 phân rượu vào mỗi ly ?

Khi cúng đàn tại Thánh Tịnh, ly rượu do lễ sĩ dâng lên phải rót đủ 9 phân, và người tiếp lễ cầm nhạo rượu do lễ sĩ dâng lên, rót thêm vào 3 ly rượu có sẵn trên Thiên bàn cho đủ 9 phân rượu trong mỗi ly.

Ba ly rượu đặt hàng ngang trên Thiên bàn có ý nghĩa giống như 3 cây nhang cắm hàng ngang trong lư hương (Án Tam tài), là để tượng trưng Tam tài: Thiên, Địa, Nhơn (Trời, Đất, Người).

Ly rượu giữa tượng trưng Trời, 3 phân rượu tượng trưng Tam bửu (3 báu) của Trời là : Nhựt, Nguyệt, Tinh.

Ly rượu bên tách trà tượng trưng Đất, 3 phân rượu nầy tượng trưng Tam bửu của Đất là : Thủy, Hỏa, Phong.

Ly rượu bên tách nước trắng tượng trưng Người, 3 phân rượu tượng trưng Tam bửu của Người là : Tinh, Khí, Thần.

Khi lễ sĩ dâng ly rượu và nhạo rượu lên trong lễ cúng Tiểu đàn hay Đại đàn tại Thánh Tịnh, người tiếp lễ cầm nhạo rượu lên rót thêm vào 3 ly rượu nầy cho đủ 9 phân, vì số 9 là số căn bản của Thiên Địa Nhơn:

-Trời có trên hết là Tam thập lục Thiên (36 từng trời), phía dưới có Cửu Trùng Thiên (9 từng trời). Số 36 là bội số của số 9 căn bản. - Đất có Thất thập nhị Địa (72 địa cầu). Số 72 là bội số của 9. - Người thì có Cửu khiếu (9 lỗ), khi tu hành thì tiến hóa lên Cửu phẩm Thần Tiên, cũng lấy số 9 làm căn bản.

Vả lại, theo Số học, ba số: 36, 72, 9 có ước số chung nhỏ nhất là 3, có ước số chung lớn nhứt là 9, cho nên, trước khi cúng thì rót 3 phân rượu, đến khi dâng Tam bửu thì rót rượu thêm cho đủ 9 phân rượu, có ý nghĩa như vừa trình bày. (Bội số là số lớn hơn nhiều lần, Ước số là số nhỏ hơn nhiều lần).

- TÁCH NƯỚC TRẮNG (bạch thuỷ): (Dương) đặt bên trái. chỉ về Tinh, là một trong Tam bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nước trắng là Nước Dương là nguồn nước trên Trời mưa xuống để nuôi sống muôn loài, vạn vật.

-Tách nước trắng, đặt bên tả của Thiên bàn, tượng trưng Dương. Chúng ta dùng nước thiên nhiên như: nước mưa, nước giếng, nước sông, nước phông tên. Các thứ nước nầy chỉ cần lọc cho tinh khiết, trong suốt, không nấu sôi.

Còn 8 phân nước trắng tinh khiết tượng trưng Bát công đức thủy trong Ao Thất bửu nơi Cực Lạc Thế Giới ở cõi Thiêng liêng. (8 công đức của nước trong Ao Thất bửu là: lắng, sạch, trong, mát, ngọt ngon, nhẹ dịu, nhuần trơn, an hòa. Uống vào thì hết đói khát lo âu, bổ khỏe các căn của xác thân).

Khi rót nước trắng hay trà, phải rót cho đủ 8 phân.

Hai tách nước trắng và nước trà, tượng trưng Âm Dương, nên thường gọi chung là hai tách nước Âm Dương.

Nước trắng hay Bông đều chỉ về Tinh, rượu chỉ về Khí, trà chỉ về Thần. Tinh, Khí, Thần, là Tam bửu của 5 bậc tiến hóa Nhân, Thần, Tiên, Thánh, Phật.

- TÁCH NƯỚC TRÀ (Âm) đặt bên phải. chỉ về Thần, là một trong Tam bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nước trà là Nước Âm là nguồn nước trên Trời mưa xuống để nuôi sống muôn loài, vạn vật.Nước trà là Nước Âm là nguồn nước ở trong lòng đất, và biển cả, sông ngòi, rạch suối. Người ở miền đất cao, thì đào đất sâu xuống làm giếng lấy nước uống và nấu ăn. Người ở vùng đất thấp đồng bằng, thì dùng nước biển, sông, suối, rạch, ngòi dù mùa mưa hay nắng hạn. Người vật cũng nhờ đó mà sống, nên chén nước trà (nước đã nấu sôi) Nên dùng loại trà tốt, thơm tho để bên hữu Thiên bàn gọi là Âm.

Nước trà còn có một ý nghĩa khác: nước trà tượng trưng THẦN, một trong Tam bửu của con người. Thần là chơn linh, linh hồn. Đức Chí Tôn dùng trà tượng trưng chơn linh là muốn chơn linh của ta điều hòa như trà vậy.

Tại sao rót 8 phân nước Âm Dương ?

Tách có 8 phân nước trắng tượng trưng 8 lượng của Nghi Dương, tách có 8 phân nước trà tượng trưng 8 lượng của Nghi Âm. Hai tách nước Âm Dương hiệp lại tượng trưng 16 lượng, tức là 1 cân, số 1 tượng trưng Thái cực. (1 cân = 16 lượng)

Mặt khác, nước trà tượng trưng Thần tức là linh hồn của chúng ta. 8 phân nước trà tượng trưng Bát phẩm chơn hồn đầu kiếp xuống cõi trần làm chúng sanh. Như trong Phật Mẫu Chơn Kinh nêu rõ:

"Càn Khôn sản xuất hữu hình

Bát Hồn Vận Chuyển hóa Thành Chúng Sinh".

Hai tách nước trà và nước trắng nầy sau khi cúng xong có thể được Chức sắc đổ chung lại với nhau để hành pháp luyện thành Cam lồ thủy, dùng trong các bí tích: phép xác để tẩy trược chơn thần cho được trong sạch nhẹ nhàng, và phép giải bịnh để tẩy các trược khí trong cơ thể người bịnh.

Tóm lại, tất cả những món đặt trên Thiên bàn đều có tính cách tượng trưng, để nói lên quan niệm về giáo lý và triết lý của Đạo Cao Đài.

* Cái quan trọng của hai tách nước Âm Dương là ở chỗ nước trà và nước trắng, chớ không phải ở cái tách hay cái chung đựng nó; tách có quai hay không quai, bằng sành sứ, nhựa hay thủy tinh đều dùng được cả.

* Tương tự như thế, cái quan trọng của ba ly rượu là ở chất rượu tinh khiết, chớ không phải nơi cái ly hay cái chung đựng rượu. Cái ly ấy có thể thấp hay có chưn cao, làm bằng ngọc quỳnh, sành, sứ, thủy tinh hay bằng nhựa, kể cả bằng kim loại, đều dùng được cả.

* Các ngày thường Thời Tý, Ngọ cúng rượu. Khi đọc bài dâng 01 trong Tam Bửu là bài dâng Tửu là đủ. Thời Mẹo, Dậu cúng nước Âm Dương tức là nước trắng và nước trà. Khi đọc bài dâng 01 trong Tam Bửu là bài dâng Trà là đủ.

* Còn các ngày lễ nơi Cơ sở đạo hay ngày lễ cúng trong gia đình cũng phải có Tam bửu đầy đủ. Trong thời cúng khi đọc kinh tới phần dâng Tam bửu thì đọc bài dâng hoa (Tinh), dâng tửu (Khí), dâng trà (Thần) là đủ ý nghĩa Tam bửu.

- CẬP ĐÈN LƯỠNG NGHI 8 và 9 Hai cây đèn hai bên trái và phải, ngay trước bình hoa và dĩa trái cây, đây là hai cây đèn Lưỡng Nghi. Cặp đèn Lưỡng nghi ứng với đèn Thái Cực ở giữa, bên trong, tượng trưng cho nguyên tắc hóa sinh của vũ trụ “Thái cực sinh lưỡng nghi”.

- PHÂN ĐỊNH VỊ TRÍ ÂM DƯƠNG

Vị trí Âm, Dương – Trái, Phải trên Thiên Bàn hay mặt tiền của Cơ Sở đạo.

Khi muốn nhận định về Âm Dương - Trái, Phải trên Thiên bàn hay mặt tiền của Cơ sở đạo thì người nhận định khi đứng trước nhìn vào Thiên bàn hay Cơ sở đạo phảinhận định được bên tay trái của Thầy là bên Dương, bên tay phải của Thầy là bên Âm.

  1. 1.10.CAO ĐÀI BÁT QUÁI

Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh – Tòa Thánh Long Châu xây dựng Bát Quái Đài có khắc 8 chữ phía trên theo Cao Đài Bát Quái.

Cao Ðài Bát quái 高臺八卦Thứ tự các quẻ trong Bát Quái Cao Ðài được Ðức Chí Tôn dạy trong Chú Giải Pháp Chánh Truyền như sau:

Ðáng lẽ Thầy phải để bảy cái ngai của phái nam bên tay trái Thầy, tức là cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn đạo cho đủ Ngũ Chi nên Thầy buộc phải để vào Cung Ðạo là cung Ðoài cho đủ số. Ấy vậy, cái ngai của Ðầu Sư nữ phái phải để bên cung Khôn, tức là bên tay mặt Thầy."

Các quẻ trong Bát Quái Cao Ðài có thứ tự giống như thứ tự các quẻ trong Bát Quái Hậu Thiên, nhưng lại chuyển theo chiều ngược lại.

- Thứ tự tám quẻ khởi đầu từ Càn: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly,

Khôn, Ðoài:

+ Bát Quái Hậu Thiên chuyển theo chiều kim đồng hồ.

+ Bát Quái Cao Ðài chuyển theo chiều nghịch kim đồng hồ.

- Cao Ðài Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái

6

Bát Quái Hậu Thiên tượng trưng thời kỳ nhứt bổn tán vạn thù; Bát Quái Cao Ðài tượng trưng thời kỳ vạn thù qui nhứt bổn, nên có chiều quay ngược lại với Bát Quái Hậu Thiên.

Trục Ðông Tây của Bát Quái Cao Ðài là Chấn Ðoài thì giống y trục Ðông Tây của Bát Quái Hậu Thiên.

Trục Bắc Nam của Bát Quái Cao Ðài là Ly Khảm, ngược chiều với trục Bắc Nam của Bát Quái Hậu Thiên là Khảm Ly, để cho Thủy Hỏa trong hai Bát Quái đồ ký tế tương tác tức Âm Dương tương hiệp mà đắc đạo tại thế.

Bát Quái Ðài nơi Tòa Thánh Tây Ninh là nơi để thờ phượng Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Bát Quái Ðài xây theo hình Bát quái tức là một hình tám cạnh đều nhau, mỗi cạnh là một quẻ, xây cao 12 bực, ngoài lớn trong nhỏ, làm như bực thang đi lên, tượng trưng Thập nhị Thiên (12 từng Trời), hình thức của nó cũng giống như Cửu Trùng Thiên đặt nơi Ðại Ðồng Xã trước Tòa Thánh, nhưng Cửu Trùng Thiên chỉ có 9 bực tượng trưng 9 từng Trời.

Trên mặt cao nhứt của đài nầy có cẩn 8 cung Bát Quái.

1.11. KHUÔN THỜ TẠI HỘI THÁNH VÀ CÁC HỌ ĐẠO

- THỜ NƠI BÁT QUÁI ĐÀI

+ Ảnh Thánh Tượng Thiên nhãn có Nhựt Nguyệt Tinh kiểu hàng thẳng đứng đặt giữa Thiên bàn ở vị trí cao nhất phía trong Bát Quái Đài.

+ Ảnh Thập Tự Tam Thanh

Chữ hàng thẳng đứng: HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN TÔN 玄穹高上帝玉皇大天尊  (cách hàng ngang nối tiếp): CAO ĐÀI THÁI BẠCH THỔ THẦN TIÊN ÔNG高臺太白土神仙翁.

- Chữ hàng ngang: NGỌC THANH - THƯỢNG THANH - CHƠN THANH玉清上清眞清.

+ Nối tiếp là một hàng thẳng xuống là khuôn ảnh Thập Tự Tam Thanh十序弎清 có đôi liễn:  PHẬT NHỰT TĂNG HUY 佛日增揮và  PHÁP LUÂN THƯỜNG CHUYỂN  法輪常

+ Ảnh Đức Ngôi Hai Giáo Chủ. Cuối cùng là khuôn ảnh Đức Ngôi Hai Giáo Chủ. Là vị Giáo chủ của Phái Đạo Cao Đài Chiếu Minh.

+ Trên Thiên Bàn cũng có Nhứt Trấn oai nghiêm Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ  Phổ Độ, nhưng chỉ thờ vô vi nên không để khuôn ảnh.

Ảnh Thánh Tượng Thiên nhãn

7

Ảnh Thập Tự Tam Thanh

8

 

Ảnh Đức Ngôi Hai Giáo Chủ

9

- THỜ NƠI CỬU TRÙNG ĐÀI

- Bàn Nội Nghi

-Bàn thờ Nhị Trấn và Tam Trấn Oai Nghiêm:

- Bàn ngoại nghi

+ Cửu Trùng Đài là phần Thể của đạo, nơi hội tựu Chức Sắc, Chức Việc cùng Nhơn Sanh để đảnh lễ Đức Chí Tôn và các vị Giáo Chủ. Bên trái thờ khuôn ảnh Đức Quan Thánh Đế Quân 關聖帝

Bên phải thờ khuôn ảnh Đức Quan Âm Như Lai 觀音如來, phần lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn.  ⁾

- THỜ NƠI HIỆP THIÊN ĐÀI

Hiệp Thiên Đài là phần phách của đạo, là nơi thông công giửa Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài. Từng trên Hiệp Thiên Đài thờ khuôn chữ Đông Phương Chưởng Quản

Từng dưới Hiệp Thiên Đài có bàn thờ Hộ Pháp thờ khuôn chữ Khí, Cả 2 bàn nơi Hiêp Thiên Đài đều đối diện với Bát Quái Đài.

Bàn thờ Hộ Pháp chỉ thờ nơi cơ sở đạo chớ không có thờ tại tư gia. Mỗi khi cúng Tứ Thời thì đốt ba cây hương. Phần lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn.

- THỜ NƠI THIÊN PHONG ĐƯỜNG

Ảnh 12 vị Tiền Khai Đại Đạo

Thiên Phong Đường là một hội trường lớn để diễn đàn các lễ hội. Phía trong thờ Tiền Khai Đại Đạo là 12 vị môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn ngày khai Đạo Cao Đài, và thờ các vị Anh Linh Tiền Bối cơ sở đạo, là các vị Tiền bối, Tiền Hiền quá vãng đã có công gầy dựng và nối truyền cơ sở đạo hiện tại, Bên trái bàn thờ Tiền Vãng Nam, và bàn thờ Bá Tánh Nam. Bên phải có bàn thờ Tiền Vãng Nữ và bàn thờ Bá Tánh Nữ. Việc hình ảnh thờ phượng trên đây tùy theo truyền thống mỗi nơi được giữ gìn bằng chữ hay bằng hình ảnh cũng được.

Phía ngoài thờ đối diện với bàn thờ Tiền Bối là trang thờ Tổ Quốc祖國 hay Tổ Quốc Việt Nam 祖國越南 nằm trên cửa giữa. Phần Lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn

1.12. KHUÔN THỜ TẠI TƯ GIA

Lập vị Thượng Đế thờ tại tư gia thì phải lựa nơi nào cho tinh khiết, tốt hơn hết là giữa nhà, lập trang thờ cho cao và treo màn cho ấm cúng chỗ thờ phượng.

- KHUÔN ẢNH TRÊN THIÊN BÀN

+ Về hình thức thờ phượng có 3 phần quan trọng là:

Ảnh Thánh Tượng Thiên nhãn

Nối tiếp là Thập Tự Tam Thanh

Tiếp theo là ảnh Đức Ngôi Hai Giáo Chủ

Việc thờ Thiên Nhãn tại tư gia có 3 phần trên đây có thể sắp chung trong một Khung thờ nhưng không có đôi liễn Phật Nhựt Tăng Huy - Pháp Luân Thường Chuyển như ở Hội Thánh, Thánh Tịnh, Nhà Tịnh.

Phần Lễ phẩm y như Lễ phẩm Thiên bàn

NGHI LỄ HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

II- PHẦN KINH TÙY THEO LỄ

2.1. LỄ THƯỢNG PHƯỚN

- CÁCH SẾP ĐẶT

- Lập bàn nghi thức gần cột phướn có đầy đủ lễ phẩm:

+ Đèn thái cực

+ Bình bông

+ Dĩa trái

+ Lư hương

+ Rượu, Trà, Bạch thủy

+ Cập đèn lưỡng nghi

Lễ Thương phướn đánh Lôi âm cổ, Bạch ngọc chung theo Đại đàn rồi đánh Lôi âm 4 tiếng – Hồng chung 4 tiếng (4 tiếng là 1 tiếng, rồi 2 tiếng nhồi, rồi 1 tiếng chót) hết Lôi âm tới Hồng chung, tới lôi âm, tới Hồng chung v.v… cho đến khi Thượng phướn xong mới thôi.

Một vị chức sắc Hiệp Thiên Đài đến nơi Chánh điện làm lễ trình Thầy rồi thỉnh mâm phướn bưng ra đến cửa trước trao cho vị Chức sắc Cửu Trùng Đài tiếp phướn đem ra nơi trụ phướn.

 3 vị chức sắc quỳ, Đồng nhi đứng hai bên đọc kinh (giờ Thìn).

Một vị chức sắc từ từ kéo phướn lên, khi đọc đủ 3 lần Kinh Thượng phướn thì lá phướn cũng vừa tới trên.

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử…. (Thìn) thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KỆ DÂNG HOA

(Giọng Nam Ai)

Hoa tươi năm sắc, sắc thiên nhiên,

Đầu cúi xin dâng lễ kỉnh thiền.

Cám đức Cao Đài lòng đoái tưởng,

Từ bi cứu thế giáng đàn tiên.

( 1 lạy, 4 gật )

- KỆ DÂNG TỬU

(Giọng Nam Ai)

Tửu vị hương hề tửu vị hương,

Khấu đầu cung hiến trước hồ tương.

Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ tử cung trần mỹ vị hương.

( 1 lạy, 4 gật )

- KỆ DÂNG TRÀ

(Giọng Nam Ai)

Đông độ thanh trà mỹ vị hương,

Khấu đầu cung hiến trước hồ trường.

Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ tử cung trần mỹ vị hương.

( 1 lạy, 4 gật )

- KINH THƯỢNG PHƯỚN

Ngọn gió thổi phướn linh phưỡn phất,

Gợi tấc lòng gan mật hùng anh;

Thấy chăng hồn nước yên lành,

Dựng phần linh phướn quy lần nhơn sanh.

Đức Phụ Hoàng ân lành bố rãi,

Diêu Trì Cung nhuận tải hồng ân;

Phật Tiên chí những Thánh Thần,

Bảo tồn cơ cuộc được phần bình an.

Ngó linh phướn lòng càng phần khởi,

Dục nhơn sanh tiến tới đạo mầu;

Lý chơn truyền bá năm châu,

Giáo dân hướng thiện hồi đầu tỉnh tu.

Cùng chung sống một bầu vũ trụ,

Cho rõ ràng hội đủ toàn linh;

Cùng nhau kết mối liên tình,

Thề chung sống thác hy sinh giải nàn.

Ngọn phướn thần là đàng cứu rỗi,

Kêu nhau đồng bước trỗi đạo cao;

Dục lòng chiến sĩ anh hào,

Ra tay sửa dựng phong trào buổi nay

Vọng Ngọc Đế Cao Đài bảo vệ,

Đặng an phận phước huệ dẫy tràn;

Cầu cho quốc thới dân an,

Nước nhà thạnh trị nam bang thái bình.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

2.2. LỄ HẠ PHƯỚN

- CÁCH SẾP ĐẶT

+ Lập bàn nghi thức gần cột phướn có đầy đủ lễ phẩm:

+ Đèn thái cực

+ Bình bông

+ Dĩa trái

+ Lư hương

+ Rượu, Trà, Bạch thủy

+ Cập đèn lưỡng nghi

+ Lễ Hạ phướn đánh Đại Hồng chung theo chung Tiểu đàn.

+ 3 vị chức sắc quỳ

+ Đồng nhi đứng hai bên đọc kinh (giờ Thìn).

+ Một vị chức sắc từ từ kéo phướn xuống, khi đọc đủ 1 lần Kinh Hạ phướn thì lá phướn cũng vừa tới dưới.

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KỆ DÂNG HOA

(Giọng Nam Ai)

Hoa tươi năm sắc, sắc thiên nhiên,

Đầu cúi xin dâng lễ kỉnh thiền.

Cám đức Cao Đài lòng đoái tưởng,

Từ bi cứu thế giáng đàn tiên.

( 1 lạy, 4 gật )

- KỆ DÂNG TỬU

(Giọng Nam Ai)

Tửu vị hương hề tửu vị hương,

Khấu đầu cung hiến trước hồ tương.

Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ tử cung trần mỹ vị hương.

( 1 lạy, 4 gật )

- KỆ DÂNG TRÀ

(Giọng Nam Ai)

Đông độ thanh trà mỹ vị hương,

Khấu đầu cung hiến trước hồ trường.

Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ tử cung trần mỹ vị hương.

( 1 lạy, 4 gật )

- KINH HẠ PHƯỚN

Lịnh sắc chỉ tràng phan linh phướn,

Quy phục hồi chí hướng vạn linh;

Truyền ban thể lập chương trình,

Cao Đài linh hiển độ gìn thời gian.

Thần phướn trụ tràng phan phưởng phất,

Hội vạn linh Tiên Phật chỉ truyền;

Ngày nay bế mạc ân Thiên

Phướn thần quy phục huờn nguyên quan đồng.

Chư Phật Tiên hư không hiển hiện,

Cùng Thánh Thần vận chuyển tiến hành,

Giờ này mỹ mãn nguơn thành,

Cao Đài chuyển phục đạo lành chấn hưng.

2.3 LỄ CÚNG CỬU HUYỀN THƯỜNG LỆ

(Tại Hội Thánh, Thánh Tịnh, Nhà Tịnh)

Xướng:

Từ tôn tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NGUYỆN HƯƠNG

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương.

Xướng:

Thượng hương, lễ tứ bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU I

Rượu tuần nhứt châm đầy dâng trước,

Xin Cửu Huyền ẩm phước cho vui;

Nhớ thương Thất Tổ ngậm ngùi,

Chạnh lòng thương nhớ sụt sùi lệ sa.

Đơn sơ lễ chung hòa cúng tế,

Xin nhớ tình đồng thể tử tôn;

Cửu Huyền tạo dựng cháu con,

Mong ơn Thất Tổ chứng lòng hiến dâng.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ

- KINH CÚNG CỬU HUYỀN( Bài 1)

Nay trăm họ cúng dâng hiến tửu,

Lễ chúc mừng Nội tổ, Ngoại tông;

Chứng cho con lạc cháu hồng,

Cúi đầu bá bái tỏ lòng kỉnh yêu.

Mong tu sao cho Cửu Huyền Thất Tổ,

Mong tu cầu phổ độ chúng sanh;

Mong tu cứu vớt em anh,

Mong tu hồn đặng siêu sanh vui mừng.

Mừng Ngoại Tổ gặp tuần ân xá,

Mừng Cửu Huyền khỏi đọa trầm luân;

Mừng nay con cháu trùng phùng,

Mừng nay bá tánh đồng chung một nhà.

Nay nhằm buổi Long hoa ân xá,

Mở ngục môn phóng xả hồn linh;

Lo tu tụng niệm huỳnh đình

Về miền cực lạc Thiên Đình ngao du.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

KINH DÂNG RƯỢU II

Rượu nhị tuần đồng dâng trước án,

Xin Cửu Huyền hưởng cạn chén huỳnh;

Hương hồn Thất Tổ hiển linh,

Đồng qui tọa vị chứng minh lễ mừng.

Lòng hiếu đạo kính dâng rượu lạt,

Xin Cửu Huyền chứng tạt lòng thành;

Cửu Huyền Thất Tổ lưu danh,

Chứng lòng ngay thảo tâm thành kỉnh dâng.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

 

KINH CÚNG CỬU HUYỀN (Bài 2)

Giọt máu mũ lưu truyền tại thế,

Con những mong truyền kế lửa hương;

Nguyện cùng Thất Tổ xin thương,

Cho bền gan tất noi đường thảo ngay.

Xưa chẳng đặng phước mai gặp đạo,

Nay phò trì con cháu tu thân;

Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,

Chết lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.

Dầu tội chướng ở miền hạ giái,

Dầu oan gia ở ngoại Càn Khôn;

Dầu mang xác thịt hay hồn,

Nhờ câu Từ Phụ Chí Tôn cứu nàn.

Dầu đạt vị ở an Tiên Cảnh,

Dầu tái sanh ở cảnh siêu phàm;

Nương thuyền bát nhã cho an,

Dìu đường con cháu vào đàng nghĩa nhân.

Kìa lố bóng hồng ân bao phủ,

Cả thế gian đầy đủ đạo mầu;

Âm dương đôi nẽo như nhau,

Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu hộ trì.

Chốn Tây Phương đường đi thông thả,

Cõi Diêm cung tha quả vong căn;

Trên nhờ Địa Tạng nắm phăng,

Noi theo phướn Phật hầu đàng siêu thăng.

Nhớ nổi hiếu không ngăn nét thảm,

Tưởng nguồn ân đốt nén tâm hương;

Tấc lòng đoài đoạn đau thương,

Chòm mây hiệp với hương hồn hiển linh.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU III

Rượu này lễ chung tuần xin rót,

Thỉnh Tiên Linh Nội Ngoại gần xa;

Ghi ân Thất Tổ Ông Bà,

Đồng chung phúng tế lễ hòa Tổ Tiên.

Xin đạm bạc lòng thiền kỉnh bái,

Ân sanh thành vạn tải ghi sâu;

Tổ Tiên Phụ Mẫu khẩn cầu,

Tọa bàn chứng lễ tất hầu hiến dâng.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

- KINH CÚNG CƠM TIÊN LINH

Làm con khó đặng chọn thờ,

Tam niên nhũ bộ chẳng giờ khắc khuây.

Lửa hương dạ nhớ hằng ngày,

Cù lao cúc dục so tài núi sông.

Có câu sanh tử giữ đồng,

Âm dương tuy cách tấc lòng nào phai

Hôm nay lễ …..…..đến ngày,

Cao lương mỹ vị đặt bày kỉnh dâng.

Trà thô rượu lạt ba tuần,

Tiên linh xin hưởng ngõ mừng cháu con.

Hiếu trun muôn kiếp bền còn,

Vùa hương bát nước giữ tròn chẳng sai.

Cầu cho vượt cảnh ThiênThai,

Thung dung khoái lạc lâu dài khỏe thân.

Lòng thành cạn tỏ nguồn ân,

Tiên linh xin chứng ân cần vãng lai.

Chúc xin lạc cảnh Diêu Đài,

Chứng minh con cháu hôm nay khẩn cầu.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà.

- KINH DÂNG TRÀ

Trà Bạch Liên hơi lên thơm nức,

Cúi xin dâng lễ tất vừa xong;

Cửu Huyền Thất Tổ chứng lòng,

Cháu con đoái hiếu Tổ Tông niệm tình.

Đầu cúi lạy đinh ninh nơi dạ,

Gìn đạo hằng chí cả noi gương;

Cháu con nối nghiệp can thường,

Tổ Tiên Nội Ngoại xin thương chứng lòng.

Xướng:

Lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

2.4. LỄ TIỂU ĐÀN

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH CÚNG GIỜ TÝ

(Giọng Nam Xuân)

Trời trong sao tỏ gió hòa,

Âm dương giao thới Hằng Nga giúp đèn.

Mùi hương thấu đến tòa sen,

Chứng minh đệ tử mấy phen khẩn nguyền.

Cậy nhờ pháp lực Thần Tiên,

Linh đơn rưới khắp độ yên dân Trời.

Nguyện làm tôi Phật đời đời,

Ngõ lo độ thế khỏi nơi A Tỳ .

Thiện nhơn cư hội qui y,

Mong ơn Bồ Tát từ bi cứu trần.

Giờ nay Hợi Tý giao phân,

Bồ đào cam giá ân cần hiến cung.

Cúi xin Thượng Đế chứng cùng,

Lòng người thiện nguyện Thiên tùng chẳng sai.

Giữ tròn tu niệm hôm mai,

Cầu cho dân sự lâu dài ấm no.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH CÚNG GIỜ NGỌ

(Giọng Nam Xuân)

Thiên khai chánh ngọ trùng hưng,

Bồ đào Cam giá ba tuần hiến dưng.

Mùi hương thấu đến cửu từng,

Môn sanh nam nữ lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Phật Tổ tây phang,

Phò trì hộ hựu Nam bang thái bình.

Mong cầu Tiên Thánh chí linh,

Thi ân tế chúng hộ tình nhơn gian.

Phò nguy cứu khổ trợ nàn,

Độ an bá tánh bảo toàn quy nguyên.

Quả huê hinh vị điện tiền,

Thiện nam tín nữ đồng chuyên chí thành.

Kiền thiền lễ bái Tam Thanh,

Tế nhơn lợi vật phước lành khương ninh.

Thơ sanh đặng tánh thông minh

Tuổi già tu niệm Tây Đình hồi quy.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH CÚNG GIỜ MẸO

(Giọng Nam Xuân)

Thái dương vừa lố vừng hồng,

Trợ an muôn vật trái bông tươi nhuần.

Lòng thành nhớ chữ túc hưng,

Đê đầu vọng bái chín từng chứng minh.

Ngày nay đệ tử sửa mình,

Nhờ ơn Thượng Đế rộng tình chứng tri.

Nguyện tròn sáu chữ A Di,

Quan Âm Bồ Tát từ bi cứu trần.

Tứ thời tụng niệm ân cần,

Cầu cho nước trị, lê dân thái bình.

Người người lạc nghiệp khương ninh,

Nhà không đóng cửa, lộ trình bình yên.

Cầu cho Thất Tổ Cửu Huyền,

Phước hồng Phật độ về miền Tây Phương.

Mùi hương thấu đến Thiên Đường,

Cầu cho bá tánh an khương đời đời.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH CÚNG GIỜ DẬU

(Giọng Nam Xuân)

Ác vàng che bóng non Đòai,

Đẩu tinh chói rạng Thiên Thai thấy gần.

Kiền thiền vọng bái Hoàng ân,

Độ sanh độ tử dương trần bình an.

Lòng thành thấu đến Phật đàng,

Thanh trà huê quả lễ toàn thiên thu.

Mùi hương thấu đến thanh u,

Thiện nam tín toàn tu chí thành.

Kiền thiền lễ bái Tam Thanh,

Chứng minh đệ tử lòng thành cầu kinh.

Nguyện cùng Vương Mẫu trì linh,

Phép hay độ thế tử sinh vẹn toàn.

Lời nguyền thấu đến Tây phang,

Như Lai Giáo Chủ hội bàn chứng tri.

Thái Âm phúng tụng Dậu thì,

Cầu cho bá tánh phước ghi lâu dài.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- NGỌC HOÀNG TÂM KINH

(Giọng Nam Xuân)

     

Đại La Thiên Đế,

Thái Cực Thánh Hoàng.

Hóa dục quần sanh,

Thống hội vạn vật.

Diệu diệu “Huỳnh Kim Khuyết”,

Nguy nguy “Bạch Ngọc Kinh”

Nhược thiệt nhược hư,

Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.

Thị không thị sắc,

Vô vi nhi dịch sử quần linh.

Thời thừa lục long,

Du hành bất tức.

Khí phân tứ tượng,

Hoát truyền vô biên.

Càn kiện cao minh,

Vạn loại thiện ác tất kiến.

Huyền phạm quảng đại,

Nhứt toán họa phước nhi lập phân.

Thượng chưởng tam thập lục Thiên,

Tam Thiên Thế Giái,

Hạ ốc thất thập nhị Địa,

Tứ Đại Bộ Châu.

Tiên Thiên Hậu Thiên,

Tịnh dục Đại Từ Phụ,

Kim ngưỡng, Cổ ngưỡng

Phổ Tế Tổng Pháp Tông.

Nãi Nhựt Nguyệt Tinh Thần chi quân,

Vi Thánh Thần Tiên Phật chi chủ.

Trạm tịch chơn Đạo,

Khôi mịch tôn nghiêm

Biến hóa vô cùng,

Lũ truyền Bửu Kinh dĩ giác thế

Linh oai mạc trắc,

Thường thi thần giáo dĩ lợi sanh.

Hồng oai, Hồng từ,

Vô cực, vô thượng,

Đại Thánh Đại Nguyện, Đại Tạo Đại Bi.

Huyền Khung Cao Thượng Đế,

Ngọc Hoàng tích phước hựu tội

Đại Thiên Tôn.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

DIÊU TRÌ KIM MẪU TÂM KINH

(Giọng Nam Xuân)

Lạy Mẹ đại từ đại bi,

Xin thương con dại ngu si phàm trần.

Dắt dìu ra khỏi mê tân,

Đặng cho con dại nguơn thần mở mang.

Con đà sái bước lạc đàng,

Muôn ngàn tội lổi chứa chan dẩy đầy.

Mẹ thương xin Mẹ làm khuây,

Tha cho con dại thơ ngây lổi lầm.

Từ nay con nguyện chí tâm,

Cải tà quy chánh lo chăm theo Thầy.

Gió trong vén ngút rẽ mây,

Lạy xin Đức Mẹ đoái bầy con thơ.

Đừng cho xiêu lạc vất vơ,

Xin cho biết bến biết bờ xanh xanh.

Lòng con trót cạn chữ thành,

Lạy nhờ Đức Mẹ xin nhìn chăm nom,

Cho gười hôm sớm thăm lom,

Cho người dạy dỗ hôm nay kịp kỳ.

Lạy Mẹ đại từ đại bi,

Xin thương con dại ngu si phàm trần.

Tâm niệm:

Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

- NGÔI HAI GIÁO CHỦ TÂM KINH

(Giọng Nam Xuân)

Cúi đầu mừng Đức Đại Tiên,

Ngôi Hai giáng thế nơi miền trần gian.

Thiên ngôi Ngọc Đế sắc ban,

Điển linh cho xuống thế gian cứu đời.

Gieo truyền Đại Đạo khắp nơi,

Cứu nguy sanh chúng biết thời Tam nguơn.

Mãn căn Ngọc Đế ban ơn,

Đại Tiên ngọc sắc Thiên ân rõ ràng.

Tam Thanh chưởng hội thế gian,

Long Hoa sắc lịnh đạo tràng độ an.

Phong Thần lãnh mạng Thánh Hoàng,

Trừ tà khử mị Thiên ban đả thần.

Đại Tiên xin độ nguyên nhân,

Trở về cựu vị lo phần chơn tâm.

Chúng sinh mờ ám tội thâm,

Cúi xin ân đức chế chăm lòng thiền.

Cúi đầu mừng Đức Đại Tiên,

Ngôi Hai giáng thế nơi miền trần gian.

Tâm niệm:

Nam mô Ngôi Hai Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

- NHỊ THIÊN GIÁO CHỦ TÂM KINH

(Giọng Nam Xuân)

Lạy mừng Giáo Chủ Nhị Thiên,

Ban ơn xuống phước dưới miền thế gian.

Dắt dìu con trẻ trong đàn,

Đặng mau tấn phát rõ ràng Đạo Tiên

Trên nhờ ơn Đức Nhị Thiên,

Chỉ truyền mối Đạo thành Tiên rõ ràng.

Ai mà có trí khôn ngoan,

Lo tu dìu dắt thế gian hưởng nhờ.

Đạo Thầy ban trước sờ sờ,

Kim đơn nấu thuốc đặng nhờ thân sau.

Trước ta độ dẫn người đau,

Sau là cứu thế đặng mau công thành.

Phật Tiên chỉ bảo đành rành,

Long Hoa gần đến để dành các con.

Ra tay cứu độ vuông tròn,

Linh đơn rưới khắp núi non trong ngoài.

Cứu người tai nạn lắm thay,

Mới có ngày rày khai Đạo các con.

Đạo Thầy bảng đỏ như son,

Kêu là cứu thế chẳng còn đâu hơn.

Tâm niệm:

Nam mô Nhị Thiên Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

- KỆ DÂNG HOA NGHI

(Giọng Nam Ai)

Hoa tươi năm sắc, sắc thiên nhiên,

Đầu cúi xin dâng lễ kỉnh thiền.

Cám đức Cao Đài lòng đoái tưởng,

Từ bi cứu thế giáng đàn tiền.

( 1 lạy, 4 gật )

- KỆ DÂNG TỬU BÔI

(Giọng Nam Ai)

Tửu vị hương hề tửu vị hương,

Khấu đầu cung hiến trước hồ tương.

Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ tử cung trần mỹ vị hương.

( 1 lạy, 4 gật )

- KỆ DÂNG TRÀ NGHI

(Giọng Nam Ai)

Đông độ thanh trà mỹ vị hương,

Khấu đầu cung hiến trước hồ trường.

Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ tử cung trần mỹ vị hương.

( 1 lạy, 4 gật )

- LỜI NGUYỆN CHUNG

Nam mô chư Phật Tiên Thánh chúng hộ giá Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Kim Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát cảm ứng chứng minh đệ tử thành tâm kỉnh lễ.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH CẦU AN CHO BÁ TÁNH

(Giọng Nam Xuân)

Ngày nay đệ tử khẩn nguyền,

Cúi xin Phật Thánh Thần Tiên chứng lòng,

Đức cao sánh tợ bá tòng,

Tế nhơn lợi vật khoan hồng từ bi.

Lòng thành đệ tử qui y,

Cầu cho trăm họ sửa kỳ thiện tâm.

Người tu kinh sám lo tầm,

Kẻ còn xử thế bền cầm ngũ luân.

Tuy cao thâm thẳm chín từng,

Lòng người một tưởng hai vừng chứng tri.

Cúi xin Trời Phật từ bi,

Mở ơn tái tạo độ kỳ chúng sanh.

Khiến dân bỏ dử theo lành,

Đạo người vẹn vẻ xét rành trược thanh.

Nước nhà khỏi việc chiến tranh

Gia vô bế hộ chưởng canh vui nhàn.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH NGUYỆN CHUNG

(Giọng Nam Xuân)

Đê đầu nam nữ chúng con,

Lạy xin Từ Phụ bút son phê truyền.

Thiên ân xá lỗi tiền khiên,

Giúp con rửa tội trần duyên diệt lòng.

Giúp con sáng suốt tâm không,

Giúp con tai nạn long đong chớ gần.

Giúp con yên trí dưỡng thần,

Giúp con hành đạo kịp lần lộ chơn.

Lòng con dẫu khó chi sờn,

Nhưng mà thiếu đức nhờ ơn cứu trần.

Chúng con nam nữ ân cần,

Lạy xin Từ Phụ xuống ân phê truyền.

Tâm niệm:

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH NGŨ NGUYỆN

(Giọng Nam Ai)

Nam mô Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai.

Nam mô Nhì nguyện phổ độ chúng sanh.

Nam mô Tam nguyện xá tội đệ tử.

Nam mô Tứ nguyện thiên hạ thái bình.

Nam mô Ngũ nguyện

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

2.5. LỄ TẮM THÁNH

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH TẮM THÁNH

Những vạn vật Âm Dương Tạo Hóa,

Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh.

Con người đứng phẩm tối linh,

Nữa người nửa Phật nơi mình anh nhi.

Đại Từ Phụ Từ Bi tạo hóa,

Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn.

Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,

Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.

Xin gìn giữ Thánh hình thanh bạch,

Xin xá ân rửa sạch tiền khiên.

Căn xưa ví dữ cũng hiền,

Dầu ra cửa tội đủ quyền cao siêu.

Công nuôi dưỡng nâng niu khổ nhọc,

Phép thương yêu cũng học nơi Thầy.

Sanh nơi đây, ở nơi đây,

Trăm năm là tuổi đủ đầy mạng căn.

Cõi hồng-trần quen lằn gió bụi,

Cảnh phù-ba may rủi cũng duyên.

Đã gan dốc kiếm diệu-huyền,

Sanh sanh là phận, hiền hiền là công.

Đừng thối chí ngã lòng trở gót,

Để cho đời chua xót tình thương.

Trăm năm thọ khảo vĩnh-trường,

Thuận căn thuận mạng đôi đường cao thăng.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

2.6. LỄ NHẬP MÔN

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật

- SỚ NHẬP MÔN CẦU ĐẠO

HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

TÒA THÁNH LONG CHÂU NĂM ĐẠO THỨ …..

CÔNG BÌNH BÁC ÁI TỪ BI

SỚ CẦU ĐẠO

Họ và tên:…………………………………………………… …..

Ngày tháng năm sanh:.……………………………………………

Chức danh đạo:…………………………………………… ……..

Quốc tịch:……………………………………… ………… ....…..

Trú quán:……..………………………………… ………… …….

Họ tên cha:……………………………………… ………………

Họ tên mẹ:……………………………………… ……… ……….

Họ tên chồng hoặc vơ:………….......... ........................................

Ngày tháng năm nhập môn:………… ………………….……......

Tại:………………………………… ……………………………

Ngày tái thệ:………………………… ………………………….

Tại:………………………………………………… ……………

Hai người tiến dẫn:

1)……………………………………….………….………………

2)……………………………………….………….………………

……….…Ngày ….tháng…….năm…..…

(ÂL:…./………/……….)

Hai người tiến dẫn Người cầu đạo

Ký tên Ký tên

1)……………..

2). …………….

- LỜI MINH THỆ(36 chữ)

Hôm nay là ngày……tháng……năm……

Con tên……tuổi……

Hiện ngụ tại……xã……huyện……tỉnh……quỳ trước Thiên bàn trên có Thầy Mẹ, Tam giáo, Tam trấn, chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần chứng chiếu. Nay con tên gì…..Họ gì, con xin

Con xin : “Thề rằng: Từ đây con biết một đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai, thì Thiên tru Địa lục”.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH NHẬP MÔN

Trời Nam mở đạo Chiếu Minh,

Nữ nam thiện tín môn sinh tu hành.

Nghiêm mình về trước nhơn sanh,

Xin dâng lời thệ cao xanh chứng lòng.

Phật Tiên Thần Thánh hội đồng,

Chứng mười lời nguyện rõ lòng nhơn sanh.

Một là trai giới tu hành,

Sáu ngày mỗi tháng dạ đành chẳng sai.

Hai là phép nước giữ hoài,

Tham làm bài bạc hằng ngày bỏ xa.

Ba là theo chánh, lánh tà,

Chuyên trì kinh kệ lo mà tu thân.

Bốn là giữ việc nhơn luân,

Phật, Tăng, Pháp giới phải tuân hoài hoài.

Năm là hung ác mặc ai,

Mê dâm rượu thịt nạn tai khốn nàn.

Sáu là lường gạt thế gian,

Giả đò vay tạm không toan trả rày.

Bảy là ăn thật, ở ngay,

Bày mưu kiện cáo lòng đầy đổ lưng.

Tám là tối sớm kỉnh dưng.

Mỗi giờ cúng kiến dạ đừng lãng xao.

Chín không khích bác đạo nào.

Lo làm công quả đồng bào đệ huynh.

Mười là cầu nguyện cao minh,

Chứng rằng đệ tử nguyện in như lời.

Nguyện cùng Tiên, Thánh, Phật, Trời,

Ai người lổi nguyện xa nơi tam đồ.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH GIẢI OAN

Vòng xây chuyển linh hồn tấn hóa,

Nương xác thân hiệp cả Càn Khôn;

Bước đường sanh tử đã chồn,

Oan oan nghiệt nghiệt dập dồn trái oan.

Luật nhơn quả dể răng Thánh đức,

Cửa luân hồi nhắc bực cao siêu;

Dẫu chăng phải luật Thiên điều,

Cũng quyền tự chủ dắt dìu thiên lương.

Dòng khổ hải dễ thường nhìn đắm,

Mùi đau thương đã thấm chơn linh;

Giây oan xe chặc buộc mình,

Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

Chịu ô trược tinh thần nặng trịu,

Mãnh hình hài biến biểu lương tâm;

Phong trần qua thói cung âm,

Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm phong đô.

Khối trái chủ nhẫn lo vay trả,

Mới gầy nên nhân quả nợ đời;

Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi,

Thiên cung lở lối chơi vơi cảnh trần.

Nay gặp đặng hồng ân chan rưới,

Giải trái oan sạch tội tiền khiên;

Đóng địa ngục, mở tầng Thiên,

Khai đường cực lạc, dẫn miền tây phương.

Nhập Thánh thể dò đường cựu vị,

Noi chơn truyền khử quỉ, trừ ma;

Huệ quang chiếu thấu chánh tà,

Chèo thuyền bát nhã ngân hà độ sinh.

Cứ nương bóng chí linh lai bước,

Gội mê đồ tắm nước ma ha.

Liên đài nay mở thêm hoa,

Lão Đam cũng biết, Thích già cũng quen.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

2.7. LỄ NHẬP MÔN VONG LINH

(Trong gia đình đạo hữu có người chưa nhập môn vào đạo nay đã từ trần, gia đình muốn làm tang tế theo nghi thức Cao Đài Chiếu Minh thì phải làm lễ Nhập môn cho Vong linh)

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

SỚ NHẬP MÔN CHO VONG LINH

HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

TÒA THÁNH LONG CHÂU NĂM ĐẠO THỨ …..

CÔNG BÌNH BÁC ÁI TỪ BI

SỚ CẦU ĐẠO

Họ và tên vong linh:……………………………….………… …..

Ngày tháng năm sanh:.……………………………………………

Quốc tịch:……………………………………… ………… ....…..

Trú quán:……..………………………………… ………… …….

Họ tên cha:……………………………………… ………………

Họ tên mẹ:……………………………………… ……… ……….

Họ tên chồng hoặc vơ:………….......... ........................................

Ngày tháng năm nhập môn:………… ………………….……......

Tại:………………………………… ……………………………

Hai người tiến dẫn:

Chức sắc làm lễ

……………………………………….………….………………

……….…Ngày ….tháng…….năm…..…

(ÂL:…./………/……….)

TM. Gia đình vong linh kính nguyện

(ghi rõ quan hệ vong linh và ký tên)

- KINH GIẢI OAN

Vòng xây chuyển linh hồn tấn hóa,

Nương xác thân hiệp cả Càn Khôn;

Bước đường sanh tử đã chồn,

Oan oan nghiệt nghiệt dập dồn trái oan.

Luật nhơn quả dể răng Thánh đức,

Cửa luân hồi nhắc bực cao siêu;

Dẫu chăng phải luật Thiên điều,

Cũng quyền tự chủ dắt dìu thiên lương.

Dòng khổ hải dễ thường nhìn đắm,

Mùi đau thương đã thấm chơn linh;

Giây oan xe chặc buộc mình,

Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

Chịu ô trược tinh thần nặng trịu,

Mãnh hình hài biến biểu lương tâm;

Phong trần qua thói cung âm,

Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm phong đô.

Khối trái chủ nhẫn lo vay trả,

Mới gầy nên nhân quả nợ đời;

Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi,

Thiên cung lở lối chơi vơi cảnh trần.

Nay gặp đặng hồng ân chan rưới,

Giải trái oan sạch tội tiền khiên;

Đóng địa ngục, mở tầng Thiên,

Khai đường cực lạc, dẫn miền tây phương.

Nhập Thánh thể dò đường cựu vị,

Noi chơn truyền khử quỉ, trừ ma;

Huệ quang chiếu thấu chánh tà,

Chèo thuyền bát nhã ngân hà độ sinh.

Cứ nương bóng chí linh lai bước,

Gội mê đồ tắm nước ma ha.

Liên đài nay mở thêm hoa,

Lão Đam cũng biết, Thích già cũng quen.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

2.8. LỄ BÁI MẠNG CHỨC SẮCTÂN PHONG

(Nếu Bái mạng Chức việc tân phong thì chỉnh từ ngữ lại cho phù hợp)

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

-LỜI TUYÊN THỆ

Nay đệ tử ( tên, tuổi……………………..) (Danh bộ tịch đạo (số danh bộ đạo tịch đạo Hội Thánh hoặc Họ đạo Thánh Tịnh, Nhà Tịnh…..)

Nay thọ Thiên ân (Thánh danh Thái, Thượng, Ngọc……….…)

Từ nay con nguyện hết lòng hết sức, hết cả tâm trí nhận lãnh phẩm Chức sắc, hướng đạo nhơn sanh tùng quyền Hội Thánh. Về sau nếu có lòng một dạ hai thì thân máu thịt nầy quyền Thầy định đoạt, Hội Thánh dạy răng. Bằng đặng y lời ân Thầy điểm hóa.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH BÁI MẠNG THỌ PHONG

Nay đệ tử điện tiền bái mạng,

Cầu Ân Trên chứng giám lời nguyền;

Từ đây hòa hiệp tương liên,

Chung tay xây đấp mối giềng đỡ nâng.

Nguyện Ân Trên con vâng sắc chỉ,

Nguyện một lòng khắc kỷ trọng gìn;

Quy điều luật lệ nghiêm minh,

Tu thân lập đức đinh ninh sớm chiều.

Vuông tròn phận Thiên điều thọ lãnh,

Lời thệ dâng lên cảnh Thiêng liêng;

Trên tuân sắc chiếu Hoàng Thiên,

Lời nguyền cung ứng án tiền chứng minh.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

2.9. LỄ CẦU GIẢI BỆNH

KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- SỚ CẦU LÀNH BỆNH

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kim hữu đệ tử Thiên phong, Chức sắc ………………… công đồng thánh chúng thiện chơn hiệp giữ trai chủ quỳ tại Thiên bàn thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Lực Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Thái Công tướng phụ tá Châu Quảng Pháp từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên liên đài chi hạ.

Kim vì: Bệnh nhân tánh danh ………………… …….tuổi. Tạo tội tích ác chưởng bất lương tri kiết thành nghiệp chướng.

TƯ NHƠN

Thời đáo thị ách lâm nạn hành thân phạt thể, oan báo chí kỳ ư kim tỉnh ngộ sám hối tự thân thiết lập trai đàn, hương, đăng, trà, tửu, huê, quả chi nghi thành tâm phượng hiến, bá bái.

Thượng sớ dĩ văn.

- KINH CẦU LÀNH BỆNH

Trên Ngọc Đế mắt thần soi khắp

Trí công minh sửa phạt trần gian

Tên …………… phạm tội mắt nàn

Họ …………… căn bệnh rên than muôn phần.

Nguyện Thượng Đế oai thần tế độ,

Lòng xót thương ủng hộ phước tăng

Dung cho thuyên giảm bịnh căn

Chúng sanh rõ biết ăn năn làm lành

Cầu Thần Thánh háo sanh bố đức

Giúp chúng tôi gắng sức trợ đời

Có lòng tin tưởng Phật Trời

Cứu an thân thể thảnh thơi linh hồn

Suôi kẻ bệnh tâm hồn nhẫn nại

Bền chặt gìn chẳng hoại lòng thiền

Bệnh nhơn đặng giảm tai khiên

Chịu điều khổ não chẳng phiền chẳng than

Phải khó nhọc đền bồi vận hạnh

Kết quả rồi mới hản phép công.

KINH CỨU KHỔ

Nam mô Đại Từ, Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát

(đọc 3 lần).

Nam mô cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ. Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn, tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn. Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm linh nhơn thân đắc độ, hồi quang Bồ Tát, hồi thiện Bồ Tát, A Nậu Đại Thiên Vương chánh điện BồTát, ma kheo ma kheo thanh tịnh tỳ kheo, quan sự đắc tán tụng sự đắc hưu, chư Đại Bồ Tát, ngũ bá A La Hán, cứu hộ đệ tử ...…nhứt thân ly khổ nạn, tự ngôn Quan-Thế-Âm anh-lạc bất tu giải, cần đọc thiên vạn biến tai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tín thọ phụng hành tức thuyết chơn ngôn viết: Kim Ba Kim Ba Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đa La Ni Đế, Ni Ha-La Đế, Tì Lê Ni Đế, Ma Ha Dà Đế, Chơn Lăng Càn Đế, Bồ Đề Tát Ta Bà Ha.

(Tiếp theo tụng Kinh Sám Hối, trang…...)

2.10. LỄ CẦU AN DỊCH BỆNH

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- SỚ CẦU AN DỊCH BỆNH

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

THỜI DUY

Thiên vận tuế thứ …………….. niên, …………. ngoạt, ………………. .Nhựt,……….Thời.Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kim đệ tử Thiên phong chức sắc ………………………. hiệp đồng chư chức sắc, chức việc bổn đạo nam nữ đồng đẳng quỳ tại điện tiền thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Lực Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Thái Công tướng phụ tá Châu Quảng Pháp từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên liên đài chi hạ.

Kim vì: ………………………………………..tu thiết đàn tràng hương đăng trà tửu huê quả chi nghi thành tâm phụng hiến.

PHỤC VỌNG

Vô trung từ phụ phát hạ hồng ân, cho …………………… Thoát khỏi tai kiếp dịch bịnh, gia gia an ổn, khương ninh, quốc thới dân an, chư đệ tử thiệt triêm ân huệ phước, thiên oai bất thắng khẩn khấu chi chí,

Thượng tấu dĩ văn.

- KINH CẦU ÂN XÁ

Lịnh Ngọc Đế thừa hành chiếu chỉ,

Ơn Diêu Trì bố thí gia ban;

Sắc phê hành đạo vẹn toàn,

Cầu cho bá tánh bình an muôn đời.

Cầu Tam Trấn oai Trời tế độ

Cầu Việt Nam vào chỗ thái bường;

Nước giàu dân mạnh hùng cường,

Trời Nghiêu đất Thuấn bốn phương thuận hòa.

Cầu Tam Trấn bửu tòa mở rộng,

Cầu nhơn sanh được sống thanh nhàn;

Bớt cơn bịnh dịch day tràn,

Khỏi cơn nắng lửa mưa vàng sanh linh.

Cầu xá tội diêm đình hồn tử,

Cho trở về ngôi cũ thảnh thơi;

Hùynh kỳ cứu thế khắp nơi,

Tường vân ngũ sắc độ đời Nhà Nam.

Cầu Phật Thánh Già Lam độ thế,

Nước Việt Nam lập kế Khổng Minh

Cầu cho Đại Đạo hòa bình,

Tiền Trung Hậu lập sanh linh một màu.

Cầu được lập bá đào hội ngộ,

Chữ trung thành Thất Tổ hy sinh;

Rạng danh con cháu hiển vinh,

Nở mày cha mẹ cầu xin Đại từ.

Con quyết chí khư khư một dạ,

Bước hành trình bồi bả Long hoa;

Cầu cho nước được thái hòa,

Ngậm cơm vỗ bụng âu ca thái bình.

- KINH CỨU KHỔ

Nam mô Đại Từ, Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát

(đọc 3 lần).

Nam mô cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ. Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn, tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn. Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm linh nhơn thân đắc độ, hồi quang Bồ Tát, hồi thiện Bồ Tát, A Nậu Đại Thiên Vương chánh điện BồTát, ma kheo ma kheo thanh tịnh tỳ kheo, quan sự đắc tán tụng sự đắc hưu, chư Đại Bồ Tát, ngũ bá A La Hán, cứu hộ đệ tử ...…nhứt thân ly khổ nạn, tự ngôn Quan-Thế-Âm anh-lạc bất tu giải, cần đọc thiên vạn biến tai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tín thọ phụng hành tức thuyết chơn ngôn viết: Kim Ba Kim Ba Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đa La Ni Đế, Ni Ha-La Đế, Tì Lê Ni Đế, Ma Ha Dà Đế, Chơn Lăng Càn Đế, Bồ Đề Tát Ta Bà Ha.

2.11. LỄ CẦU AN - SAO HỘI

- NIỆM HƯƠNG KINH

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

Xướng:

Thượng hương

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Nguyện sớ văn

Tuyên đọc sớ văn

- SỚ CÚNG SAO

Đại đạo tam kỳ phổ độ

Đệ ……. … Niên

Tam giáo quy nguyên –ngũ chi hiệp nhứt

------------

Thiên vận tuế thứ ….. niên, ….. ngoạt, …… Nhựt, …. Thời. Hiện tại Việt Nam quốc, ….. tỉnh, …….. huyện, …… xã, ……. chi trung.

Kim hữu đệ tử Thiên phong, Chức sắc ………………………… công đồng bá tánh nam nữ đại tiểu đẳng nghiêm thiết đàn tràng hiến cúng NHƯƠNG TINH Thánh viên chi lễ, Thượng trình ai tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

TỊNH THỈNH

Chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần cảm ứng chứng minh.

Cửu Diệu Tinh Quân : Chư La Hầu, Thổ Tú, Thủy Diệu, Thái Bạch, Thái Dương, Vân Hớn, Kế Đô, Thái Âm, Mộc Đức đồng lai giáng hạ.

Kim niên sở trị vận lâm Bát Quái : Cán, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài : Huỳnh Tuyền, Tam Kheo, Ngũ Mộ, Thiên Tinh, Tán Tận, Thiên La, Địa Võng, Diêm Vương, Đại hạn, Tiểu hạn, Thần quang, cập Tam Tai Mộc Ách đồng chứng minh.

Chư tín chủ đại tiểu an khương, sĩ nông công thương phước lộc tinh căn, Quốc thới dân an, hòa bình cộng lạc, tiêu tai tiêu ách khổ nạn, chuyển họa vi phước, thoát khổ tiền khiên nghiệp chướng :Xuân đa kiết khánh, Hè bảo bình an, Thu tống tam tai, Đông nghinh bá phước. Thành tâm ngưỡng đạt sư tinh bảo hưu, ngũ cốc phong đăng phú túc, vĩnh thụy thiên thu.

Đệ tử thành tâm khấu bái.

Thượng tấu vĩ văn.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH CÚNG SAO

Cầu thiện nguyện thấu lòng Trời Phật,

Đốt nén hương phưởng phất Nam thiên;

Các vì Tinh Tú chứng miên,

Ngày nay đệ tử lòng thiền cầu sao.

Xin Bắc Đẩu – Nam Tào chứng chiếu,

Trà, quả, huê đa thiểu kính dâng;

Mùi hương thấu đến chín tầng,

Cầu cho chư Phật vui mừng trần gian.

Người tật bệnh tai nàn trắc trở,

Nguyện từ đây phúc ở, họa lui;

Sinh trong máy tạo ngậm ngùi,

Nguyện cầu chư Phật chứng người thành tâm.

Người ở thế mắt phàm xác thịt,

Biết Thần Linh hiển hích xưa nay;

Đêm thanh đèn tỏa như ngày,

Thái Dương chiếu sáng độ loài chúng sanh.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật ).

(Tiếp theo tụng Kinh Phổ Môn trang 346)

2.12. LỄ ĐẠI ĐÀN

- CHUẨN BỊ

+ Vật phẩm

-Một cái bàn nghi thức để phía dưới gần bàn Hộ Pháp.

-Một cặp chưng đèn.

-Sớ Đại Đàn, 3 chung bông, 3 ly rượu, trà.

+Nhân sự

+Một vị Chức Sắc chuẩn bị đại diện quì tại Thiên Bàn.

+-Bàn Quan Âm (2 vị nữ đứng hầu).

+Bàn Quan Thánh (2 vị nam đứng hầu).

+Đồng Nhi: 2 vị nghi lễ.

+Lễ Sĩ: 4 vị đi dâng phẩm vật.

+Một vị Trưởng hoặc Phó Lễ diện điều động và nhắc nghi.

+Hai bên Chánh Điện 2 vị Điện Sanh đứng hầu và dâng phẩm vật đưa lên, khi Lễ Sĩ dâng lên hành lễ.

+Một vị thủ Lôi âm cổ

+Một vị thủ Bạch ngọc chung

+Một vị hầu chuông.

+Một vị chuẩn bị quì dưới bàn nghi thức gần Hộ Pháp.

+Thiên phong chức sắc. Đạo tâm nam, nữ lưỡng phái tề chỉnh y cân, đạo phục đứng ngoài sân cột phướn, khi ban Lễ Sĩ ra tiếp rước thì sẽ vào Nội Điện nhập đàn.

- NGHI TIẾT ĐẠI ĐÀN

Tịnh túc thị lập

Chấp sự giã các tư kỳ sự

Lễ Sĩ diễn đàn. (Đi ra có cặp đèn rước khách để nhập đàn).

Thiên phong chức sắc nhập đàn

Khai môn quan

Lôi âm cổ khởi

Bạch ngọc chung minh

Nhạc công tựu vị

Nhạc xanh khởi nhạc

Nhạc tấu huân thiên

Thanh chung phát khởi

Nội nghi, ngoại nghi tựu vị

Nghệ hương án tiền

Giai quỳ

Điện hương

Giai quỳ

Nguyện hương

Thành Kỉnh tụng niệm Hương kinh

Thượng hương

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành tâm tụng khai kinh

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Ngọc Hoàng tâm kinh

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Diêu Trì Kim Mẫu tâm kinh

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Phật giáo tâm kinh

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Tiên Giáo tâm kinh

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Nho giáo tâm kinh

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Ngôi Hai Giáo Chủ tâm kinh

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Nhị Thiên Giáo Chủ tâm kinh

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Phụng hiến tiên hoa

Giai quỳ

Điện tiên hoa

Giai quỳ

Thành kỉnh tụng hoa nghi

Thượng tiên hoa

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Phụng hiến tiên tửu

Giai quỳ

Điện tiên tửu

Giai quỳ

Thành kỉnh tụng tửu bôi

Thượng tiên tửu

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Phụng hiến tiên trà

Giai quỳ

Điện tiên trà

Giai quỳ

Thành kỉnh tụng trà nghi

Thượng tiên trà

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành Niệm Sớ Văn

Giai quỳ

Điện sớ văn

Giai quỳ

Nguyện sớ văn

Tuyên đọc sớ văn

Thượng Sớ Văn.

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thiên phong chức sắc thành tâm cầu ngũ nguyện

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thiên phong chức sắc phân lập tam ban

Nhơn sanh lễ bái đồng lai bái

Thanh xuân, Thanh đồng, lễ bái đồng lai bái

Lễ sĩ lễ bái đồng lai bái

Lễ thành

VÀO LỄ

Xướng:

Tịnh túc thị lập

Chấp sự giã các tư kỳ sự

Lễ Sĩ diễn đàn. (Đi ra có cặp đèn rước khách để nhập đàn)

Thiên phong chức sắc nhập đàn

Khai môn quan

Lôi âm cổ khởi

Bạch ngọc chung minh

Nhạc công tựu vị

Nhạc xanh khởi nhạc

Nhạc tấu huân thiên

Thanh chung phát khởi

Nội nghi, ngoại nghi tựu vị

Nghệ hương án tiền

Giai quỳ

Điện hương

Giai quỳ

Nguyện hương

Thành Kỉnh tụng niệm Hương kinh

- NIỆM HƯƠNG KINH

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

Xướng:

Thượng hương

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành tâm tụng khai kinh

- KINH CÚNG GIỜ TÝ

(Giọng Nam Xuân)

Trời trong sao tỏ gió hòa,

Âm dương giao thới Hằng Nga giúp đèn.

Mùi hương thấu đến tòa sen,

Chứng minh đệ tử mấy phen khẩn nguyền.

Cậy nhờ pháp lực Thần Tiên,

Linh đơn rưới khắp độ yên dân Trời.

Nguyện làm tôi Phật đời đời,

Ngõ lo độ thế khỏi nơi A Tỳ .

Thiện nhơn cư hội qui y,

Mong ơn Bồ Tát từ bi cứu trần.

Giờ nay Hợi Tý giao phân,

Bồ đào cam giá ân cần hiến cung.

Cúi xin Thượng Đế chứng cùng,

Lòng người thiện nguyện Thiên tùng chẳng sai.

Giữ tròn tu niệm hôm mai,

Cầu cho dân sự lâu dài ấm no.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH CÚNG GIỜ NGỌ

(Giọng Nam Xuân)

Thiên khai chánh ngọ trùng hưng,

Bồ đào Cam giá ba tuần hiến dưng.

Mùi hương thấu đến cửu từng,

Môn sanh nam nữ lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Phật Tổ tây phang,

Phò trì hộ hựu Nam bang thái bình.

Mong cầu Tiên Thánh chí linh,

Thi ân tế chúng hộ tình nhơn gian.

Phò nguy cứu khổ trợ nàn,

Độ an bá tánh bảo toàn quy nguyên.

Quả huê hinh vị điện tiền,

Thiện nam tín nữ đồng chuyên chí thành.

Kiền thiền lễ bái Tam Thanh,

Tế nhơn lợi vật phước lành khương ninh.

Thơ sanh đặng tánh thông minh

Tuổi già tu niệm Tây Đình hồi quy.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

Xướng:

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Ngọc Hoàng tâm kinh

- NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ TÂM KINH

     

Đại La Thiên Đế,

Thái Cực Thánh Hoàng.

Hóa dục quần sanh,

Thống hội vạn vật.

Diệu diệu “Huỳnh Kim Khuyết”,

Nguy nguy “Bạch Ngọc Kinh”

Nhược thiệt nhược hư,

Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.

Thị không thị sắc,

Vô vi nhi dịch sử quần linh.

Thời thừa lục long,

Du hành bất tức.

Khí phân tứ tượng,

Hoát truyền vô biên.

Càn kiện cao minh,

Vạn loại thiện ác tất kiến.

Huyền phạm quảng đại,

Nhứt toán họa phước nhi lập phân.

Thượng chưởng tam thập lục Thiên,

Tam Thiên Thế Giái,

Hạ ốc thất thập nhị Địa,

Tứ Đại Bộ Châu.

Tiên Thiên Hậu Thiên,

Tịnh dục Đại Từ Phụ,

Kim ngưỡng, Cổ ngưỡng

Phổ Tế Tổng Pháp Tông.

Nãi Nhựt Nguyệt Tinh Thần chi quân,

Vi Thánh Thần Tiên Phật chi chủ.

Trạm tịch chơn Đạo,

Khôi mịch tôn nghiêm

Biến hóa vô cùng,

Lũ truyền Bửu Kinh dĩ giác thế

Linh oai mạc trắc,

Thường thi thần giáo dĩ lợi sanh.

Hồng oai, Hồng từ,

Vô cực, vô thượng,

Đại Thánh Đại Nguyện, Đại Tạo Đại Bi.

Huyền Khung Cao Thượng Đế,

Ngọc Hoàng tích phước hựu tội

Đại Thiên Tôn.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

Xướng:

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Diêu Trì Kim Mẫu tâm kinh.

- DIÊU TRÌ KIM MẪU TÂM KINH

(Giọng Nam Xuân)

Lạy Mẹ đại từ đại bi,

Xin thương con dại ngu si phàm trần.

Dắt dìu ra khỏi mê tân,

Đặng cho con dại nguơn thần mở mang.

Con đà sái bước lạc đàng,

Muôn ngàn tội lổi chứa chan dẩy đầy.

Mẹ thương xin Mẹ làm khuây,

Tha cho con dại thơ ngây lổi lầm.

Từ nay con nguyện chí tâm,

Cải tà quy chánh lo chăm theo Thầy.

Gió trong vén ngút rẽ mây,

Lạy xin Đức Mẹ đoái bầy con thơ.

Đừng cho xiêu lạc vất vơ,

Xin cho biết bến biết bờ xanh xanh.

Lòng con trót cạn chữ thành,

Lạy nhờ Đức Mẹ xin nhìn chăm nom,

Cho gười hôm sớm thăm lom,

Cho người dạy dỗ hôm nay kịp kỳ.

Lạy Mẹ đại từ đại bi,

Xin thương con dại ngu si phàm trần.

Tâm niệm:

Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

Xướng:

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Phật giáo tâm kinh

- PHẬT GIÁO TÂM KINH

(Giọng Nam Xuân)

Phổ Đà Phật Tổ từ bi,

Mở đàng chánh giáo độ kỳ thiện nhơn.

Ơn tài lục thủy thanh sơn,

Rước người tu niệm phản huờn cựu ban.

Sám kinh tiếng ngọc lời vàng,

Khuyến dân tỉnh ngộ biết đàng thị phi.

Dạy tu ngũ giới, tam qui.

Thoát vòng khổ hải hội kỳ liên hoa.

Tam thiên thế giới bà sa,

Đưa về Cực lạc hằng hà chúng sanh.

Dạy tu bỏ dữ theo lành,

Trì trai tụng niệm tập thành phật tâm.

Phò nguy Bồ Tát Quan Âm,

Linh oai mạc trắc cao thâm diệu huyền.

Cầu cho nước trị nhà yên,

Người người tu niệm cửu huyền siêu thăng.

Tâm niệm:

Nam mô Nhiên Đăng Cổ Phật Cứu Thế Thiên Tôn.

Xướng:

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thành kỉnh tụng Tiên Giáo tâm kinh

- TIÊN GIÁO TÂM KINH

(Giọng Nam Xuân)

Đức cao Đạo Tổ huyền vi

Càn khôn phản phục lưỡng nghi hiệp thành

Hóa nên nhứt khí Tam thanh

Thần thông quảng đại lập thành Tiên gia

Phép hay luyện thuốc không già

Tam chi nhị diệp cũng là quản cai

Từ đời Bàn Cổ sơ khai

Giáng sanh mấy kiếp nên tài độ dân

Phò nguy cứu khổ ân cần

Huỳnh đình cảm ứng bội phần hiển linh

Diễn lời chánh lý phân minh

Tu tâm dưỡng tánh chúng sinh sửa mình

Trời cao chín bậc thinh thinh

Hửu cầu tắc ứng oai linh giáng liền

Cầu cho quốc thới dân yên

Người tu gặp đặng chơn truyền tâm kinh.

Tâm niệm:

Nam mô Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Xướng:

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân, Thành kỉnh tụng Nho giáo tâm kinh

- NHO GIÁO TÂM KINH

(Giọng Nam Xuân)

Ơn trên Khổng Thánh châu vi,

Cùng là tứ phối chứng tri lòng thiền.

Bảy mươi hai vị đại hiền,

Phò nguy bá tánh nơi miền trần gian.

Dạy dân biết mối chánh đoan,

Trung dung, Luận ngữ vẹn toàn hiếu trung.

Gái noi tứ đức tam tùng,

Trai thời ngũ lý, trọng dùng tam cang.

Kẻ ra tế thế an bang,

Phò nguy giúp chúng dạy đàng nghĩa nhân.

Người ham học đạo tu than,

Cũng nhờ văn chất bút thần tả kinh.

Thánh xưa lắm lúc lộ trình,

Đem lời châu ngọc phân minh khuyên đời.

Ngày nay dân sự thảnh thơi,

Cầu cho nước trị đời đời phong cương.

Tâm niệm:

Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

Xướng:

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân, Thành kỉnh tụng Ngôi Hai Giáo Chủ tâm kinh

- NGÔI HAI GIÁO CHỦ TÂM KINH

(Giọng Nam Xuân)

Cúi đầu mừng Đức Đại Tiên,

Ngôi Hai giáng thế nơi miền trần gian.

Thiên ngôi Ngọc Đế sắc ban,

Điển linh cho xuống thế gian cứu đời.

Gieo truyền Đại Đạo khắp nơi,

Cứu nguy sanh chúng biết thời Tam nguơn.

Mãn căn Ngọc Đế ban ơn,

Đại Tiên ngọc sắc Thiên ân rõ ràng.

Tam Thanh chưởng hội thế gian,

Long Hoa sắc lịnh đạo tràng độ an.

Phong Thần lãnh mạng Thánh Hoàng,

Trừ tà khử mị Thiên ban đả thần.

Đại Tiên xin độ nguyên nhân,

Trở về cựu vị lo phần chơn tâm.

Chúng sinh mờ ám tối tâm,

Cúi xin ân đức chế chăm lòng thiền.

Cúi đầu mừng Đức Đại Tiên,

Ngôi Hai giáng thế nơi miền trần gian.

Tâm niệm:

Nam mô Ngôi Hai Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

Xướng:

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân, Thành kỉnh tụng Nhị Thiên Giáo Chủ tâm kinh

- NHỊ THIÊN GIÁO CHỦ TÂM KINH

(Giọng Nam Xuân)

Lạy mừng Giáo Chủ Nhị Thiên,

Ban ơn xuống phước dưới miền thế gian.

Dắt dìu con trẻ trong đàn,

Đặng mau tấn phát rõ ràng Đạo Tiên

Trên nhờ ơn Đức Nhị Thiên,

Chỉ truyền mối Đạo thành Tiên rõ ràng.

Ai mà có trí khôn ngoan,

Lo tu dìu dắt thế gian hưởng nhờ.

Đạo Thầy ban trước sờ sờ,

Kim đơn nấu thuốc đặng nhờ thân sau.

Trước ta độ dẫn người đau,

Kêu là cứu thế đặng mau công thành.

Phật Tiên chỉ bảo đành rành,

Long Hoa gần đến để dành các con.

Ra tay cứu độ vuông tròn,

Kim đơn rưới khắp núi non trong ngoài.

Cứu người tai nạn lắm thay,

Mới có ngày rày khai Đạo các con.

Đạo Thầy bảng đỏ như son,

Kêu là cứu thế chẳng còn đâu hơn.

Tâm niệm:

Nam mô Nhị Thiên Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

Xướng:

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Phụng hiến tiên hoa

Giai quỳ

Điện tiên hoa

Giai quỳ

Thành kỉnh tụng hoa nghi

- TIÊN HOA

(Giọng Nam Ai)

Hoa tươi năm sắc, sắc thiên nhiên,

Đầu cúi xin dâng lễ kỉnh thiền.

Cám đức Cao Đài lòng đoái tưởng,

Từ bi cứu thế giáng đàn tiên.

( 1 lạy, 4 gật )

Xướng:

Thượng tiên hoa

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Phụng hiến tiên tửu

Giai quỳ

Điện tiên tửu

Giai quỳ

Thành kỉnh tụng tửu bôi

- TỬU BÔI

(Giọng Nam Ai)

Tửu vị hương hề tửu vị hương,

Khấu đầu cung hiến trước hồ tương.

Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ tử cung trần mỹ vị hương.

( 1 lạy, 4 gật )

Xướng:

Thượng tiên tửu

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Phụng hiến tiên trà

Giai quỳ

Điện tiên trà

Giai quỳ

Thành kỉnh tụng trà nghi

- TRÀ NGHI

(Giọng Nam Ai)

Đông độ thanh trà mỹ vị hương,

Khấu đầu cung hiến trước hồ trường.

Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ tử cung trần mỹ vị hương.

( 1 lạy, 4 gật )

Xướng:

Thượng tiên trà

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành Niệm Sớ Văn

Giai quỳ

Điện sớ văn

Giai quỳ

Nguyện sớ văn

- LỜI NGUYỆN CHUNG

Nam mô chư Phật Tiên Thánh chúng hộ giá Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Kim Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát cảm ứng chứng minh đệ tử thành tâm kỉnh lễ.

Hôm nay là ngày đại lễ……chúng con thành tâm trình dâng Đức Chí Tôn – Đức Phật Mẫu cảm ứng cảm ứng chứng minh.

Xướng:

+Tuyên đọc sớ văn

- SỚ ĐẠI ĐÀN

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kim vì bác ái chí tâm dục đắc, phổ thông thiên đạo bố cực tứ phương độ tận chúng sanh thoát ư nghiệp chướng. Khuyến chúng hồi đầu tùng lương cải ác.

Kim đệ tử chức sắc …………………………………………… công đồng thiện nhơn Thánh chúng hội hiệp chư tín đồ đại tiểu đẳng quỳ tại điện tiển thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Lực Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Tá Châu Quản Pháp Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

Ngôi Hai Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

Nhị Thiên Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn

Thập phương chư Phật vạn chưởng chư Tiên chư Thánh chư Thần liên đài chi hạ.

VIẾT

Kim vì thời tế tam kỳ phổ độ Thiên văn Hoàng đạo tịnh tế Viết Ban Hiệp minh tam giáo thần thánh tâm truyền, chỉ thị đại đạo chi tiên thể.

Thái Thiên Địa chi chánh khí, luyện vạn vật chi tinh hoa, lập công độ chúng vĩnh thoát trần la mạng hiệp phục càn nguơn chi tiên thể.

Tư Nhơn, thiên ân nhựt trị Hoàng Đạo, thời định thiết cúng…………………… chức sắc thiên phong hiệp giữ tín đồ nam nữ đại tiểu đẳng nghi thiết hương, đăng, quả huê, trà, tửu, chi nghi văn thân trình tấu.

PHỤC VĨ

Vô trung từ phụ khoan hồng, phổ chiếu chúng triêm ân, cập cam lộ đạo hóa ngũ châu thế thọ đế hồ chi phước trạch.

Hữu đệ tử chức sắc thiên phong hiệp giữ tín đồ, đồng triêm ngưởn từ quan bạc tuế vô lượng Hỷ. Cẩn bá bái.

Thượng Sớ Dĩ Văn.

Xướng:

+Thượng Sớ Văn.

+Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

+Thiên phong chức sắc thành tâm cầu ngũ nguyện

- KINH NGŨ NGUYỆN

(Giọng Nam Ai)

Nam mô Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai.

Nam mô Nhì nguyện phổ độ chúng sanh.

Nam mô Tam nguyện xá tội đệ tử.

Nam mô Tứ nguyện thiên hạ thái bình.

Nam mô Ngũ nguyện (…

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

Xướng:

Cúc cung bái (3 lạy), hưng bái, hưng bái, hưng bái. Hưng bình thân

Thiên phong chức sắc phân lập tam ban

Nhơn sanh lễ bái đồng lai bái

Thanh xuân, Thanh đồng, lễ bái đồng lai bái

Lễ sĩ lễ bái đồng lai bái

Lễ thành

2.13. LỄ CÚNG ANH LINH TIỀN BỐI

Xướng:

Thiên phong chức sắc đạo tâm nam nữ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương

Quyện làn khói tỏa đến Tây phương.

Kính mời Tiền Bối Tôn Linh giáng,

Chứng chiếu lễ nghi tại điện trường.

Xướng:

Thượng hương, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu

- KINH DÂNG RƯỢU TUẦN I

Rượu tuần nhứt lòng bền khấn nguyện,

Xin linh hồn hiển hiện chứng tri;

Ngàn năm bia sử tạc ghi,

Trước đàn khẩn nguyện chứng tri lòng thành.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu

- BÀI DÂNG RƯỢU TUẦN II

Rượu nhị tuần kính dâng trước án,

Nhớ đạo vàng bao quản khó khăn;

Nước non nay đã an bằng,

Lòng thành muôn thuở dạ hằng chẳng phai.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu

- BÀI DÂNG RƯỢU TUẦN III

Rượu tam tuần châm đầy dâng tiếp,

Chư nho đồng chung hiệp kính mời;

Xin linh hồn linh hiển đến nơi,

Về vui với cháu con, đồng đạo.

Cạn tam tuần tỏ lòng ngay thảo,

Nghĩa kim bằng chung thủy đạo cao.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ

- KINH CÚNG ANH LINH TIỀN BỐI

Ngày kỷ niệm chơn tu liểu đạo,

Nơi (…đảo cáo Hoàng Thiên;

Chứng lòng đệ tử tâm thiền,

Nguyện cầu Tiền Bối cao nhiên giáng trần.

Công tu luyện trăm phần khó nhọc,

Quyết tâm bền chí dóc theo Thầy;

Vượt qua bể khổ làng mây,

Đến ngày rảnh nợ cung Tây phản hồi.

Công khó nhọc trau giồi ở thế,

Để dắt dìu vược bể hải hà;

Mở khai nền đạo kỳ ba,

Dày công Tiền Bối tạo ra Thất Chùa.

Để nhơn sanh cùng lo tín ngưỡng,

Công quả cao vô lượng vô biên;

Lòng thành khẩn đáo án tiền,

Chư nho chức sắc dạ nguyền kính dâng.

Lễ tri ân tinh thần kỉnh cáo,

Hoa quả dâng trà thảo niệm tình;

Chứng lòng bổn đạo, đệ huynh,

Nguyện cầu Tiền Bối chứng minh lòng thành.

Nay thiết lễ Tiên linh đắc ngộ,

Tam bửu dâng báo bổ ân sâu;

Chứng lòng huynh đệ nguyện cầu,

Đạo đồng thành kính ân sâu đáp đền.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, Hiến trà

- KINH DÂNG TRÀ

Trà Bạch Liên hơi lên thơm nức,

Cúi xin dâng lễ tất vừa xong.

Cửu Huyền Thất tổ chứng lòng,

Cháu con đoái hiếu Tổ Tông niệm tình.

Đầu cúi lạy đinh ninh nơi dạ,

Gìn đạo hằng chí cả noi gương;

Cháu con nối nghiệp miên trường,

Tôn Linh Tiền Bối xin thương chứng lòng.

Xướng:

Lễ tất tam bái, Hưng bình thân, Lễ sĩ lễ bái đồng lai bái. Lễ thành.

2.14. LỄ TẾ CHIẾN SĨ

- NGHI TIẾT TẾ CHIẾN SĨ

Thanh niên tựu vị

Chấp sự giả các tư kỳ sự

Nội nghi ngoại nghi tựu vị

Chỉnh sát cúng phẩm

Đại cổ khởi

Hồng chung phát khởi

Nhạc sanh khởi nhạc

Nghệ hương án tiền

Giai quỳ

Phần hương

Niệm hương

Thượng hương

Lễ nhị bái

Thành tâm tụng thỉnh vong

Lễ nhị bái.

Thành tâm tụng nhứt kỳ siêu kinh

Lễ nhị bái

Hiến nhứt tuần tửu

Giai quỳ

Điện tửu bôi

Giai quỳ

Thành niệm tửu bôi

Thượng tửu bôi

Lễ nhị bái

Thành tâm tụng nhứt kỳ siêu kinh

Lễ nhị bái

Hiến nhị tuần tửu

Giai quỳ

Điện tửu bôi

Giai quỳ

Thành niệm tửu bôi

Thượng tửu bôi

Lễ nhị bái

Hiến chung tuần tửu

Giai quỳ

Điện tửu bôi

Giai quỳ

Thành niệm tửu bôi

Thượng tửu bôi

Lễ nhị bái

Phụng hiến trà nghi

Giai quỳ

Điện trà nghi

Giai quỳ

Niệm trà nghi

Thượng trà nghi

Lễ nhị bái

Chuyển chúc văn

Giai quỳ

Thành đọc chúc văn

Thượng chúc văn

Lễ tất tứ bái

Thanh niên vị bái đồng lai bái

Lễ thành

- VÀO LỄ

Xướng:

Thanh niên tựu vị

Chấp sự giả các tư kỳ sự

Nội nghi ngoại nghi tựu vị

Chỉnh sát cúng phẩm

Đại cổ khởi

Hồng chung phát khởi

Nhạc sanh khởi nhạc

Nghệ hương án tiền

Giai quỳ

Phần hương

Niệm hương

- BÀI NIỆM HƯƠNG

Khói hương ngui ngút trước đài quang,

Tưởng niệm vong linh tử chiến tràng

Quyết chí hy sinh đền nợ nước,

Anh hùng chiến đấu dựng giang san.

Xướng:

Thượng hương

Lễ nhị bái

Thành tâm tụng thỉnh vong

- KINH THỈNH VONG

Buồn thay chi xiết nỗi buồn,

Người đời sống thác tợ luồng gió qua.

Vừng mây lững đững ác tà,

Cỏ cây tươi tốt ngân hà rạng trong.

Sum sê hạc gáy Non Bồng,

Hồn linh nương gió xích tòng ở an.

Là người bước tới Tiên Bang,

Lánh nơi thế trược tìm đàng thanh tân.

Cũng là nhứt mạch chí thân,

Dương gian, Âm cảnh ân cần vãng lai.

Chư nho vưng lịnh Cao Đài,

Triệu luôn hồn phách cấp lai linh sàng.

Xướng:

Lễ nhị bái.

Thành tâm tụng nhứt kỳ siêu kinh

- NHỨT KỲ SIÊU KINH

Ly rượu lạt tôi xin kính thỉnh,

(rót rượu trên bàn)

Nén hương nguyền thành kính vái van.

Nguyện trên chín phẩm sen vàng,

Tiêu diêu thắng cảnh khỏi đàng trần ai.

Hồn chiến sĩ linh rày xin chứng,

Chứng lòng thành cảm ứng cùng nhau.

Than ôi!. Những đấng anh hào,

Vì dân, vì nước, vì đồng bào chung.

Sống thì đem gan trung bồi đấp,

Đỡ thành nghiêng, lũy sập chẳng nài.

Râu mày đáng phận làm trai,

Tang bồng cất gánh vai nặng oằn.

Hồn trung liệt ngăn năm bia tạc,

Đấng anh hùng đầu thác như còn.

Thác mà vì nước, vì non,

Thác vì nòi giống, thác còn thơm chung.

Châm ly rượu nguyện cùng tử sĩ,

(rót rượu trên bàn)

Nguyện hương hồn sanh ký từ qui.

Muôn năm rạng vẻ tu-mi,

Trên đài chiến sĩ rõ thì tuổi tên.

Rượu ba tuần dưng lên khẩn cáo,

(rót rượu trên bàn)

Hởi hương hồn!. Thấu đáo cùng không.

Độ an dòng giống Tiên Rồng,

Nước nhà độc lập thoát vòng lệ nô.

Nơi chiến địa là mồ anh-kiệt,

Đấng anh hùng chí liệt vẫn còn.

Chữ vàng chạm bảng đề son,

Muôn năm bóng khuất tiếng còn thiên thu.

Xướng:

Lễ nhị bái

Hiến nhứt tuần tửu

Giai quỳ

Điện tửu bôi

Giai quỳ

Thành niệm tửu bôi

- HIẾN NHỨT TUẦN TỬU

Rượu tuần nhứt châm đày dưng trước,

Xin hương hồn ẩm phước cho vui!

Nhớ thương chiến sĩ ngậm ngùi,

Chạnh lòng huynh đệ sụt sùi lệ sa.

Đơn sơ lễ chung hòa cúng tế,

Xin nhớ tình đồng thể quốc dân;

Ơn trên lập bản Phong thần,

Rước hồn chiến sĩ non bồng chung vui.

Xướng:

Thượng tửu bôi

Lễ nhị bái

Thành tâm tụng nhị kỳ siêu kinh

- NHỊ KỲ SIÊU KINH

Mau đứng lên thanh niên ái quốc,

Hàng ngũ ta siết chặt trang hoàng.

Tiến tới trật tự bền gan,

Tinh thần chiến sĩ không màn tử sanh.

Dầu gặp cảnh đấu tranh tàn sát,

Dầu gặp hồi loạn lạc tưng bừng.

Đạn bay súng nổ không ngừng,

Thanh niên tiến mãi chớ đừng thối lui.

Đốt máu nóng cho sôi triệt để,

Nung tinh thần oai vệ chiến tranh.

Sống anh dũng, thác nêu danh,

Phen nầy ta quyết giựt giành tự do.

Sống tự do sống cho oanh liệt,

Thanh niên ôi!. Cương quyết đấu tranh.

Tinh thần đoàn kết thực hành,

Bảo tồn quốc thể, thanh danh Đạo Trời.

Xướng:

Lễ nhị bái

Hiến nhị tuần tửu

Giai quỳ

Điện tửu bôi

Giai quỳ

Thành niệm tửu bôi

- HIẾN NHỊ TUẦN TỬU

Rượu nhị tuần đồng dâng trước án,

Xin hương hồn hưởng cạn chén huỳnh;

Linh hồn chiến sĩ hiển linh,

Đồng quy tựu họp chứng minh lễ mừng.

Tình đồng bào kính dâng rượu lạt,

Tưởng đệ huynh sống thác như nhau;

Nhớ rằng hai chữ đồng bào,

Tạm dùng lễ mọn cùng nhau phỉ tình.

Xướng:

Thượng tửu bôi

Lễ nhị bái

Hiến chung tuần tửu

Giai quỳ

Điện tửu bôi

Giai quỳ

Thành niệm tửu bôi

- HIẾN CHUNG TUẦN TỬU

Rượu nầy lễ ba tuần xin rót,

Nhớ anh linh đôi giọt dầm sa;

Cũng vì ơn nước, nợ nhà,

Nên nay phải chịu cách xa hồng trần.

Cầu Thượng Đế ban ân, bố đức,

Các anh linh hưởng chút trai đàn;

Cầu hồn lên đến Tây phang,

Dựa nương cửa Phật tầm đàng nghe kinh.

Xướng:

Lễ nhị bái

Chuyển chúc văn

Giai quỳ

Đọc chúc văn

- VĂN TẾ CHIẾN SĨ

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

DUY

Tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại ………….quốc, ………Thành phố, tỉnh,……… quận, huyện, ……… phường, xã,……… Chi Trung, cư trụ.

Phục vì Tiên linh chi mạng,

Ô hô!. Cảm chiếu cáo du !...

Vận nước điêu linh ! Tổ quốc trong cơn biến loạn.

Các chiến sĩ lăng mình trong tên đạn,

Để giành thắng lợi cho xứ sở quê hương.

Rủi chẳng may tử tại chốn sa trường,

Xác đành chịu chôn vùi trong ba tất đất.

Phách hồn linh còn phưởng phất chốn rừng vu

Hồn chiến sĩ âm u theo gió lạnh

Nơi chốn tuyền đài hiu quạnh bãi tha ma

Vì giang san, vì nợ nước, ơn nhà.

Đem xương máu đấp pha nền đất Việt.

Chí cương quyết đâu nài câu tử biệt

Bãi sa tràng mài miệt chốn rừng tên

Khí hùng thiên nợ nước quyết lo đền

Xây hạnh phúc, gây nền cho Tổ quốc

Đường vị lộ huỳnh tuyền an một giấc

Chí tang bồng chưa bước tận đến đài mây

Những chiến công oanh liệt bấy nhiêu ngày

Trên lịch sử tháng ngày qua vẫn nhắc

Nơi chiến địa hùng anh thêm trổ mặt

Chốn đài tiền lễ tưởng niệm chiến sĩ anh linh

Hồn linh thiêng vừa chứng tất lòng thành

Của bằng hữu tâm thành chung tất.

Xướng:

Thượng chúc văn

Lễ nhị bái

Phụng hiến trà nghi

- PHỤNG HIẾN TRÀ NGHI

Trà bạch liên hơi lên thơm nức,

Xin tạm dùng lễ tất vừa xong.

Nguyện hương hồng chiến sĩ non bồng,

Nương cõi thọ tu công lập quả.

Miền Tiên cảnh thật là phong nhã,

Bước từng mây thong thả sớm trưa.

Phật Tiên là chỗ mến ưa,

Lánh miền thế tục gió mưa bụi trần.

Xướng:

Thượng trà nghi

Lễ tất tứ bái

Thanh niên vị bái đồng lai bái

Lễ thành

2.15. HỘI YẾN BÀN ĐÀO DIÊU TRÌ CUNG

- CHUẨN BỊ

* Vật Phẩm

Một cái bàn ngang để bài vị Đức Kim Mẫu ở giữa và hai vị Tiên Mẫu, Thánh Mẫu hai bên.

 

 

Hồng Bàn Tiên Mẫu

Diêu Trì Kim Mẫu

Lê Sơn Thánh Mẫu

Lưu ý: Nếu lễ Hội yến bàn đào Diêu Trì Cung tại Điện Thờ Phật Mẫu thì khỏi đặt bàn ngang nầy, vì phía trên đã có trực tiếp thờ Mẫu.

Một bàn dài có 9 bài vị Cửu Nương:

 

Nhứt Nương Diêu Trì cung

 

Nhị Nương Diêu Trì cung

 

Tam Nương Diêu Trì cung

 

Tứ Nương Diêu Trì cung

 

Ngũ Nương Diêu Trì cung

 

Lục Nương Diêu Trì cung

 

Thất Nương Diêu Trì cung

 

Bát Nương Diêu Trì cung

 

Cửu Nương Diêu Trì cung

Một cái bàn ngang để thỉnh chư Thiên về dự

     

Một bàn nghi thức

     

Mỗi bài vị đều có 3 cái chung để dâng hoa, tửu, trà, lư hương, đèn, bình hoa, dĩa trái, bánh mức được xếp vào dĩa để ngay hàng thẳng lối theo các bài vị.

Nhân sự

Ban đồng nhi, tề tựu nam nữ.

Cặp nghi đứng đôi bên để xướng nghi lễ.

Ba vị đại diện phái nữ chuẩn bị quì dâng hương.

Một vị trưởng ban nghi lễ hoặc phó đọc văn sớ và nhắc nghi.

Hai vị đại diện chức sắc Hiệp Thiên Đài đứng để bồi tửu

Nếu tại Họ đạo không có chức sắc Hiêp Thiên Đài thì chọn hai vị đại diện phái nữ đứng để thắp nhang, đèn, rót rượu, trà nghi lễ xướng dâng.

cúng từ Đức Mẹ, Nhứt Nương tuần tự đến Cửu Nương.

Hai vị văn đàn, võ đàn, hầu chuông và sắp xếp thứ tự khi hành lễ.

* Tại sao chỉ có chức sắc Hiệp Thiên Đài mới được bồi yến:

Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa thuyết vào dịp Trung Thu Tân hợi (1971) như sau:

“……Còn hỏi tại sao có mặt Thập Nhị Thời Quân dự bồi tửu trong bàn yến thì nên nhớ rằng ở cõi vô hình phải có Thập Nhị Khai Thiên tức là Thập Nhị Thời Thần phối hợp nhau để tạo ra cung trời thì ở mặt thế nầy đối tượng của Thập Nhị Khai Thiên là Thập Nhi Thời Quân cũng phải phối hợp cùng nhau để giúp tạo thành hình tướng của Đạo Cao Đài, vì đó mà Thập Nhị Thời Quân mới có mặt bồi tửu trong buổi lễ Hội Yến.

Bên Cửu Trùng Đài là hình ảnh của Cửu Thiên Khai Hóa mà nơi cõi vô hình thì Cửu Thiên Khai Hóa chỉ là sự phân chia đẳng cấp của cơ Trời, còn về phần hữu hình thì Cửu Trùng Đài cũng chỉ là sự phân chia đẳng cấp trong cửa Đạo mà thôi.

Nếu bên vô hình Cửu Thiên Khai Hóa không có dự phần phối hợp để tạo ra cung Trời thì trong đối tượng về phần hữu hình Cửu Trùng Đài cũng không có dự phần phối hợp để giúp tạo thành hình tướng của Đạo Cao Đài.

Vì những nguyên do trên đây mà chức sắc Cửu Trùng Đài không có dự vào việc bồi tửu trong lễ Hội Yến Diêu Trì Cung và lễ nầy mới đặc biệt thuộc phần tổ chức của Hiệp Thiên Đài.

- NGHI TIẾT HÀNH LỄ

Tịnh túc thị lập

Chấp sự giả các tư kỳ sự

Thiên phong chức sắc nhập đàn

Lôi âm cổ khởi

Bạch ngọc chung minh

Thanh chung phát khởi

Nội nghi ngoại nghi tựu vị (Chuông xá đàn vào vị trí)

Giai quỳ

Phần hương

Nguyện hương (Thỉnh Thánh)

Thành tâm tụng niệm hương kinh

(đọc bài: Mẫu Nghi chứng chiếu tâm thành …

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân

Lễ hiến Huỳnh tương yến

Thành niệm sớ văn

Tuyên đọc sớ văn

Thượng sớ văn

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân

Niệm hương

(đọc bài: Thành kỉnh trọn lòng đốt nén nhang…)

Thượng hương

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu

(đọc bài: Vọng Kim Mẫu Diêu Trì chứng chiếu…)

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân

Thành tâm chúc văn Đức Diêu Trì Kim Mẫu

(đọc bài: Nhìn hương áng châu rơi lã chã…)

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân

Phụng hiến tiên hoa

Thành kỉnh tụng hoa nghi

(đọc bài: Hoa tươi năm sắc, sắc thiên nhiên…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Phụng hiên tiên tửu

Thành kỉnh tụng tửu bôi

(đọc bài: Bồ đào cam giá tửu Tây phương…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Phụng hiên tiên trà

Thành kỉnh tụng trà nghi

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Cửu Thiên

(đọc bài: Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Nhứt Nương

(đọc bài: HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Nhị Nương

(đọc bài: CẨM tú văn chương hà khách đạo?...)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Tam Nương

(đọc bài: TUYỂN đức năng thành đạo…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Tứ Nương

(đọc bài: GẤM lót ngõ chưa vừa gót ngọc…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Ngũ Nương

(đọc bài: LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Lục Nương

(đọc bài: HUỆ ngào ngạt đưa hương vò dịu…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Thất Nương

(đọc bài: LỄ bái thường hành tâm Đạo khởi…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Bát Nương

(đọc bài: HỒ hớn hoa sen trắng nở ngày…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Cửu Nương

(đọc bài: KHIẾT sạch duyên trần vẹn giữ…)

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân

Thành tâm phụng thỉnh Chư Thiên hội yến

(đọc bài: Nguyện chư Phật mười phương rộng lớn…)

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân

(đọc bài: Trước hương án dâng trà, hoa, quả…)

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân

Thiên phong chức sắc phân lập tam ban

Nhơn sanh lễ bái đồng lai bái

Thanh xuân, Thanh đồng, lễ bái đồng lai bái

Lễ sĩ lễ bái đồng lai bái

Lễ Thành

- VÀO LỄ

Xướng:

Nội nghi ngoại nghi tựu vị (Chuông xá đàn vào vị trí)

Giai quỳ

Phần hương

Nguyện hương

- LỜI NGUYỆN PHẬT MẪU

Chúng con chào mừng Đức Mẹ Diêu Trì và Cửu Vị Tiên Nương giáng đàn chứng lễ Hội Yến Trung Thu. Chúng con thành tâm đê đầu bái tạ thâm ân Đức Mẹ đầy lòng bác ái từ bi, cuối buổi Hạ Nguơn hoằng khai chánh pháp phổ hóa nhơn sanh thấm nhuần nguồn Đạo lý, đắc minh tâm kiến tánh, giảm vật chất hướng tinh thần tiến bước lên đời Thánh Đức kịp Hội Long Hoa.

Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

Xướng:

Thành tâm tụng niệm hương kinh

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Mẫu Nghi chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Mẫu Nghi

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

Xướng:

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân

Lễ hiến Huỳnh tương yến

Thành niệm sớ văn

- SỚ HỘI YẾN BÀN ĐÀO DIÊU TRÌ CUNG

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

THỜI DUY

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kim hữu đệ tử thọ Thiên phong………………………công đồng chư chức ắc, chức việc hiệp giữ thiện nam tín nữ đẳng quì tại điện tiền thành tâm thượng tấu.

PHỤC VÌ

Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

Nam mô Cửu Vị Tiên Nương Bạch Vân Chư Thánh.

Cấp Cao Thượng Phẩm Cao Tiên, đồng hoan lạc hưởng bàn đào hội yến.

KIM VÌ

Trung Thu tiết chí, chư đệ tử đắc thiết đại lễ Diêu Trì Cung nghiêm thiết hương đăng hoa trà quả lạc, thanh chước thứ phẩm chi nghi thành tâm triều lễ.

PHỤC VỌNG

Kim Bàn Phật Mẫu phát hạ hồng ân cứu độ sanh linh thoát ly tái hóa, miễn nạn chiến tranh, thoát xuất đau binh, thủy hỏa, tạo phục hòa bình trật tự, hải yến hà thanh, quốc thái dân an, cộng hưởng thái bình, nhơn khương vật phụ.

NGƯỠNG VỌNG

Đại từ Đại bi gia ân tứ phước.Kim chư đệ tử hiệp giữ thiện nam tín nữ đẳng, thành tâm khấu bái.

Thượng tấu dĩ văn.

Xướng:

Tuyên đọc sớ văn

Thượng sớ văn

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân.

(Quay về Bàn Nghi thức, Đức Mẹ và Cửu vị Tiên Nương, Lên Đèn, Văn đàn, đốt hương chuẩn bị cho 3 vị nữ, đại diện nguyện hương).

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Thành kỉnh trọn lòng đốt nén nhang,

Vọng cầu Kim Mẫu đáo trần gian.

Phật, Tiên, Thần, Thánh đồng lai ngự,

Cửu Vị Tiên Nương hiệp nhất đàn.

Xướng:

Thượng hương

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu.

- KINH VÍA ĐỨCDIÊU TRÌ KIM MẪU

Vọng Kim Mẫu Diêu Trì chứng chiếu,

Cùng Cửu Nương giáng hiệu đàn trung;

Đêm nay nhăm tiết Trung Thu,

Các con mừng Mẹ, mừng cùng chư Tiên.

Đức Từ Phụ gieo truyền Đại Đạo,

Lời nhủ khuyên dạy bảo đành rành

Nay con lập đức chí thành,

Ơn nhờ Đức Mẹ lời lành nhủ khuyên.

Cùng chư Phật, chư Tiên dạy bảo,

Cho sám kinh Thánh giáo dạy truyền;

Nay con mới rõ Mẹ hiền,

Từ ngôi Diêu Điện xuống miền trần gian.

Vì con dại lầm đàng sái bước,

Nên Mẹ hiền không được lòng vui;

Lòng thương Mẹ rất ngậm ngùi,

Bởi con khờ dại nhiễm mùi trần lao.

Đại Từ Phụ đạo Cao tế độ,

Mẹ lòng thương bảo hộ các con;

Từ đây ghi tạc lòng son,

Tuân hành dại đạo giữ tròn tam qui.

Chữ chí thiện, trí tri tạc dạ,

Xin Mẹ thương ân xá lỗi lầm;

Từ đây con nguyện nhứt tâm,

Học theo Đại Đạo cao thâm dạy truyền.

Xin Hoàng Mẫu giảm Phiền chế lỗi,

Rộng từ bi tha tội con khờ;

Khi xưa con Mẹ bơ vơ,

Ngày nay rõ biết cũng nhờ đạo khai.

Lòng chí kỉnh Cao Đài từ phụ,

Hiệp các con qui tụ một nhà;

Tam kỳ đạo cả truyền ra,

Chị em hội hiệp chung hòa lo tu.

Ngày kỷ niệm Trung Thu ghi rõ,

Mẹ giáng trần điều độ các con.

Từ nay thịt nát xương mòn,

Các điều Mẹ dạy con còn nhớ ghi.

Nhờ Đức Mẹ từ bi quảng đại,

Xá mấy phen con dại lỗi lầm;

Trung Thu Tháng Tám ngày rằm,

Là ngày Đức Mẹ giáng lâm cõi trần.

Lòng thành kỉnh ân cần tiếp rước,

Lập Thiên Bàng trà, nước, quả dung;

Con xin Mẹ giáng chúc mừng,

Mẹ thương xin chứng lễ mừng của con.

Tâm niệm:

Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn.

Xướng:

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân.

Thành tâm chúc văn Đức Diêu Trì Kim Mẫu.

- BÀI CHÚC VĂN ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU

Nhìn hương áng châu rơi lã chã,

Ngó đèn sao tấc dạ ai bi;

Mẹ ơi! Kim Mẫu Diêu Trì,

Xin thương con trẻ khốn nguy chốn này

Xưa con nguyện xuống đây độ thế,

Nào hay đâu lầm kế mị tà;

Dắt dìu cách Mẹ xa Cha,

Thân con trôi nỗi ái hà dòng châu.

Tình con Mẹ bấy lâu phân biệt,

Cũng bởi vì oan nghiệt tạo gây;

Từ khi vâng lịnh xuống đây,

Quyết tu trở lại sum vầy Mẹ Cha.

Hay đâu nỗi kế tà quỉ quyệt,

Rù quến con ly biệt quê hương;

Dắt đi sái bước lạc đường,

Chịu điều tân khổ bi thương muôn ngàn.

Nhớ đến Mẹ chứa chan giọt lệ,

Thảm thân con giữa bể ái hà;

Cậy nhờ đức Mẹ ơn Cha,

Dắt dìu con dại thoát qua lưới trần.

Con gặp đặng hồng ân Mẹ bố,

Ra khỏi vòng bể khổ mê tân;

Chữ tu con nguyện chuyên cần,

Mẹ thương xin Mẹ dắt lần con thơ.

Vì con dại sái bờ lạc nẻo,

Bị kẻ tà trì kéo bấy lâu;

Ngày nay tỉnh ngộ hồi đầu,

Quyết tu trở lại đặng chầu Mẫu Nghi.

Nhờ đức Mẹ từ bi quảng đại,

Xin dắt con trở lại Diêu cung;

Ngày nay con Mẹ tương phùng,

Là ngày hạnh phước khôn cùng các con.

Nhắc đến Mẹ, héo von trong dạ,

Thương Mẫu Hoàng lã chã dòng châu;

Trần gian con chịu thảm sầu

Mẹ thương xin Mẹ rưới bầu thuốc linh.

Cho con đặng tâm minh trí sáng,

Cho con vào nơi bản nữ hiền;

Ngày nào con mãn trần duyên,

Về chầu Kim Mẫu nơi miền Tây Cung.

Tâm niệm:

Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn.

Xướng:

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân.

Phụng hiến tiên hoa.

Thành kỉnh tụng hoa nghi.

- DÂNG HOA

(Thài từng chữ hơi dài giọng Đảo Ngũ Cung)

Hoa tươi năm sắc, sắc thiên nhiên,

Đầu cúi xin dâng lễ kỉnh thiền.

Cám Đức Mẫu Nghi lòng đoái tưởng,

Từ bi cứu thế giáng đàn tiên.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Phụng hiên tiên tửu

Thành kỉnh tụng tửu bôi

- DÂNG BỒ ĐÀO

(Thài từng chữ hơi dài giọng Đảo Ngũ Cung)

Bồ đào cam giá tửu Tây phương,

Bá trãng cung trần mỹ vị hương.

Hiếu tử thành tâm kiên phụng hiến,

Mẫu Nghi hoan lạc kiết trinh tường.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Phụng hiên tiên trà

Thành kỉnh tụng trà nghi

- DÂNG TRÀ

(Thài từng chữ hơi dài giọng Đảo Ngũ Cung)

Đông độ thanh trà mỹ vị hương,

Khấu đầu cung hiến trước hồ trường.

Mẫu Nghi hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ tử cung trần mỹ vị hương.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Cửu Thiên

- KỆ CÚNG

ĐỨC CỬU THIÊN HUYỀN NỮ

Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,

Tiên Thiên Cửu Phẩm đắc cao huyền.

Huyền hư tác thể Thần Tiên nữ,

Nữhão thiện căn đoạt Cửu Thiên.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Nhứt Nương.

- LỜI NGUYỆN NHỨT NƯƠNG

Chào mừng Tiên Nữ Nhứt Nương giáng đàn chứng lễ Hội Yến Trung Thu.

Chúng con đê đầu bái tạ ân đức Nhứt Nương nấm quyền chưởng quản cầm Tỳ Bà điều khiển sơ sinh hằng rưới giọt Cam lồ cho toàn carLinh căn bảo tồn Thánh chất.

Niệm:

Nam mô Nhứt Nương Diêu trì Cung (3 lần)

- KỆ CÚNG NHỨT NƯƠNG

HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt,

Giữa thu ba e tuyết đông về;

Non sông trãi cánh tiên lòe,

Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Nhị Nương.

- LỜI NGUYỆN NHỊ NƯƠNG

Chào mừng Tiên Nữ Nhị Nương giáng đàn chứng lễ Hội Yến Trung Thu.

Chúng con đê đầu bái tạ ân đức Nhị Nương cầm Lư Hương khai trương cứu rổi nhơn sanh đưa khách nguyện điều khiển sơ sinh hằng rưới giọt Cam lồ cho toàn cả Linh căn bảo tồn Thánh chất.

Niệm:

Nam mô Nhị Nương Diêu trì Cung (3 lần)

KỆ CÚNG NHỊ NƯƠNG

CẨM tú văn chương hà khách đạo?

Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân.

Tuy mang lấy tiếng hồng quần,

Cảnh tiên còn mến cõi trần anh thư.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Tam Nương.

- LỜI NGUYỆN TAM NƯƠNG

Chào mừng Tiên Nữ Tam Nương giáng đàn chứng lễ Hội Yến Trung Thu.

Chúng con đê đầu bái tạ ân đức Tam Nương giàu lòng bác ái lái thuyền Bát Nhã cầm Long Hoa độ cả khắp chơn linh.

- KỆ CÚNG TAM NƯƠNG

TUYỂN đức năng thành đạo,

Quảng trí đắc cao quyền.

Biển mê lắc lẽo con thuyền,

Chở che khách tục cửu tuyền ngăn sông.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Tứ Nương.

- LỜI NGUYỆN TỨ NƯƠNG

Chào mừng Tiên Nữ Tứ Nương giáng đàn chứng lễ Hội Yến Trung Thu.

Chúng con đê đầu bái tạ ân đức Tứ Nương nấm quyền giám khảo cầm Kim Bản tuyển chọn bực Tài Hiền phục đáo cõi Huyền Thiên.

Niệm:

Nam mô Tứ Nương Diêu Trì Cung (3 lần)

- KỆ CÚNG TỨ NƯƠNG

GẤM lót ngõ chưa vừa gót ngọc,

Vàng treo nhà ít học không ưa;

Đợi trang nho sĩ tài vừa,

Đằng giao khởi phụng chẳng ngừa Tiên thi.

Xướng:

Cúc cung bái(1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Ngũ Nương.

- LỜI NGUYỆN NGŨ NƯƠNG

Chào mừng Tiên Nữ Ngũ Nương giáng đàn chứng lễ Hội Yến Trung Thu.

Chúng con đê đầu bái tạ ân đức Ngũ Nương cầm Như Ý còn khai đường mở ngõ tiếp rước khách trần vào cõi Xích Thiên.

Niệm:

Nam mô Ngũ Nương Diêu Trì Cung  (3 lần)

- KỆ CÚNG NGŨ NƯƠNG

LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp,

Tuyết trong ngần khó phép so thân;

Hiu hiu nhẹ gót phong trần,

Đài sen mây nước gió Thần đưa hương.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Lục Nương.

- LỜI NGUYỆN LỤC NƯƠNG

Chào mừng Tiên Nữ Lục Nương giáng đàn chứng lễ Hội Yến Trung Thu.

Chúng con đê đầu bái tạ ân đức Lục Nương cầm Phất Phướng Vàng hướng dẫn khắp linh căn về tận cõi Tiên Thiên.

Niệm:

Nam mô Lục Nương Diêu Trì Cung (3 lần)

- KỆ CÚNG LỤC NƯƠNG

HUỆ ngào ngạt đưa hương vò dịu,

Đấng tài ba chẳng thiếu tư phong;

Nương mây như thả cánh hồng

Tiêu diêu phất phưởng cõi tòng đưa Tiên.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Thất Nương.

- LỜI NGUYỆN THẤT NƯƠNG

Chào mừng Tiên Nữ Thất Nương giáng đàn chứng lễ Hội Yến Trung Thu.

Chúng con đê đầu bái tạ ân đức Thất Nương cầm Hoa Sen khêu đuốc huệ soi đường dẫn lối độ các đấng chơn hồn đọa lạc cải hối đắc siêu phàm.

Niệm:

Nam mô Thất Nương Diêu Trì Cung (3 lần)

- KỆ CÚNG THẤT NƯƠNG

LỄ bái thường hành tâm Đạo khởi,

Nhân từ tài thế tử vô ưu;

Ngày xuân gọi thế hảo cừu,

Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Bát Nương.

- LỜI NGUYỆN BÁT NƯƠNG

Chào mừng Tiên Nữ Bát Nương giáng đàn chứng lễ Hội Yến Trung Thu.

Chúng con đê đầu bái tạ ân đức Bát Nương xách Giỏ Hoa Lam chứa đựng văn chương làm phương giáo hóa Phi Tưởng thiên tiếp độ khách hồng trần về cõi Cung Diêu.

Niệm:

Nam mô Bát Nương Diêu Trì Cung (3 lần)

- KỆ CÚNG BÁT NƯƠNG

HỒ hớn hoa sen trắng nở ngày

Càng gần hơi đẹp lai càng say.

Trêu trăng hằng thói dâú mày

Cợt mây tranh chúc Phật Đài thêm hoa.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Cửu Nương.

- LỜI NGUYỆN CỬU NƯƠNG

Chào mừng Tiên Nữ Cửu Nương giáng đàn chứng lễ Hội Yến Trung Thu.

Chúng con đê đầu bái tạ ân đức Bát Nương xách cầm Ống Tiêu giục rỗi giác ngộ linh hồn cải hối tu thân.

Niệm:

Nam mô Cửu Nương Diêu Trì Cung (3 lần)

- KỆ CÚNG CỬU NƯƠNG

KHIẾT sạch duyên trần vẹn giữ,

Bạc liêu ngôi cũ còn lời;

Chính chuyên buồn chẳng trọn đời

Thương người noi Đạo Phật trời cũng thương.

Xướng:

Cúc cung bái (1 lạy) hưng bình thân.

Thành tâm phụng thỉnh Chư Thiên hội yến.

- KINH THỈNH CHƯ THIÊN HỘI YẾN

Nguyện chư Phật mười phương rộng lớn,

Thỉnh chư Tiên khắp chốn bồng lai;

Trung Thu đại lễ đến ngày,

Bàn Đào Hội Yến lễ bày kỉnh dâng.

Cầu chư Thánh hồng ân giáng ngự,

Mừng chư Thần hội dự điện tiền;

Giờ đày nơi cõi tục miền,

Tấc lòng thành kỉnh kiền thiền ngưỡng trông.

Đời mạc pháp xoay vòng giáp mối,

Cuộc thế trần vò rối cuộn tơ;

Biết đâu mê giác bến bờ,

Nguyên căn đành chịu ảo mờ thân tâm.

Nhờ đức ân cao thâm bố hóa,

Vẹt ngút mù giải phá nghiệp duyên;

Bao nhiêu oan trái tiền khiên,

Camlồ rửa sạch, cảnh tiên phục về.

Chúc lễ mọn đượm bề dọn sẵn,

Mừng chư Thiên dặm thẳng hạ đàn;

Tửu trà huê quả bỉ bàng,

Hiến dâng trọn vẹn mọi đàn hôm nay.

Xướng:

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân.

Ghi chú:

Nếu có chương trình Bình Thánh Giáo thì soạn sẵn đề tài, vào giờ này tiến hành, xướng ngôn viên giới thiệu và bình …

Xướng:

Thành kỉnh bái tạ Đức Diêu Trì Kim Mẫu.

- KINH ĐƯA TIỄN ĐỨC MẸ

Trước hương án dâng trà, hoa, quả,

Lễ kỉnh thành bái tạ Mẫu Nghi;

Mẹ là Đại Đức Từ Bi,

Vì thương con dại mấy khi giáng trần.

Lời châu ngọc ân cần dạy biễu

Tiếng đá vàng cho hiểu Thiên cơ;

Dắt con chỉ bến, chỉ bờ,

Khuyên con trọn Đạo đặng thờ Thiên Liêng.

Nay con đặng tâm yên trí định,

Giữ một lòng nhẫn nhịn lo tu;

Đêm nay nhằm tiết Trung Thu,

Là ngày Mẹ vẹt ám mù cho con.

Nên rõ biết sông non bờ bến,

Đồng chị em bước đến đường ngay;

Trung Thu kỷ niệm là ngày,

Thanh trà, huê, quả đặt bày kỉnh dưng.

Con lớn nhỏ lễ mừng Hoàng Mẫu,

Mong hưởng nhờ mai hậu cựu ngôi;

Canh khuya cuộc lễ an rồi,

Lạy đưa Đức Mẹ phản hồi Diêu Cung.

Tâm niệm:

Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

Xướng:

Cúc cung bái, (3 lạy) hưng bái, hưng bái, hưng bình thân.

Thiên phong chức sắc phân lập tam ban.

Nhơn sanh lễ bái đồng lai bái.

Thanh xuân, Thanh đồng, lễ bái đồng lai bái.

Lễ sĩ lễ bái đồng lai bái.

Lễ Thành

2.16. LỂ THƯỢNG TƯỢNG

(Thượng Thiên Nhãn thờ tại Tư Gia)

- CHUẨN BỊ:

Là người tín đồ đạo Cao Đài chúng ta phải thờ Thầy để khi hữu sự có chư đạo hữu đến giúp lễ cho tiện, cũng như có nơi chúng ta cúng kính hằng ngày. Nếu không thờ Thầy thì chúng ta không được phép làm nghi lễ gì tại tư gia cả.

+Lễ Thượng Tượng chọn ngày tốt, làm lễ vào giờ Ngọ.

+Trước tiên là vị Chức sắc khai đàn làm phép tẩy uế trấn thần, phải trấn tại điểm phần An Vị đủ 4 phương, 3 cõi. Đông, Tây, Nam, Bắc, Thượng, Trung, Hạ.

+Phần cúng Cửu Huyền Thất Tổ tùy theo thời gian sắp xếp.

- CHÚ GIẢI TẠI THIÊN BÀN

+ Vị chức sắc: Thỉnh Thánh nguyện cầu trấn linh phù 4 hướng.

+ Và trú giải tại thiên bàn: Thiên linh linh, địa linh linh, thủy linh linh, hỏa linh linh.

Thiên địa thủy hỏa cựu tối linh chung hòa thỏa bình an số.

+Nhúng bông vào chung bạch thủy tẩy uế.

- BÀI CẦU NGUYỆN

(Vị Chứng đàn dâng hương cầu nguyện)

+Chức sắc thiên phong và tín đồ cầu nguyện cùng gia chủ.

+Vị chứng đàn thấp 5 cây hương thỉnh Thánh trấn linh phù 4 hướng và chú giải tại thiên bàn.

Nay đệ tử (Chức sắc, Thánh danh………..) đến khai đàn cho đạo hữu (tên họ gia chủ………..) xin trên Thầy Mẹ, Tam Giáo, Tam Trấn, chư Phật, Tiên, Thánh, Thần chứng minh hộ trì cho đạo hữu và gia quyến tu hành, thành công đắc quả.

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- SỚ THƯỢNG TƯỢNG

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kim hữu đệ tử Thiên phong chức sắc ……………………thiết đàn Thượng tượng Thánh giá cung nghinh tại du gia xứ tánh danh (chủ nhà) …………………………………………………

CẨN DĨ

Hương đăng trà tửu hoa quả chi nghi quỳ tại Thiên bàn cúng hiến.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Lực Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân. Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Gia Tô Giáo Chủ Khoan Hồng Ngoại Độ Từ Bi Cứu Thế Thiên

Thái Công Tướng Phụ Tá Châu Quảng Pháp Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Đông Nhạc Đế Quân Khoan Hồng Độ Chúng Thiên Tôn.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát Từ Bi Độ Chúng Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

Thiên Cung Tinh Tú, Địa Kỳ Thần Tướng đàn tiền giáng lâm.

VIẾT:

Cung vi ! Tam Kỳ Phổ Độ vạn quốc hàm ninh, đạo thông thiên địa, đức siển u minh, hạ ốc thất thập nhị địa chi bộ châu, vi tinh nhứt thượng chưởng, tam thập lục chi thế giái, vô xú, vô thinh, thiệt thiệt, hư hư, bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa, không không, sắc sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh, phân tứ tượng ư vô biên, thống ngũ vạn vật, thừa lục long nhi phất tức, hóa dục quần linh tư nhơn thiên ân nhựt trị, Huỳnh Đạo thời Định thiết cúng thượng tượng Thánh giá cung nghinh.

Từ hàn siêu khổ hải, huệ nhãn chiếu mê manh ngu muội tinh mong hàm ngưỡng, kỳ huệ trạch thông minh, đệ tử cộng hấp thử lịnh, danh phổ độ chúng sanh, khải cửu thập nhị tào chi mê muội, chiếu tứ hải, chiếu tam thập lục thiên chi quang minh vận thánh hóa ư thanh không, lôi đình ly mỵ, nhương thần oai, trú dạ phủ diệt yêu tinh, hóa tha vô số chi đồ, bá tải ẩm quần lê chi huyết mạch, trừ thất gian luân chi bối, kỷ thập niên, thực bá tánh chi hy sinh, phàm bá nhỉ mạc bất dẫn khinh lực, lục nhiên thiên chi hồng ân, dương dương nhỉ đệ tử Thiên phong tịnh tín đồ bá bái. Thượng sớ.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH THƯỢNG TƯỢNG

Trước bửu tọa cuối đầu quì tấu,

Xin Tiên gia rõ thấu chứng lòng.

Kẽ phàm đã rõ đục trong,

Ngày nay cầu đạo thiện lòng tín trung.

Ơn tạo hóa vô cùng đại đức,

Vớt chúng con khỏi vực trần luân.

Ngày nay trần thế vui mừng,

Biết điều lành dữ biết chứng tội căn.

Nay con nguyện ăn năn chừa lỗi,

Cúi lạy thầy độ rỗi linh hồn.

Chứng lòng đệ tử kính dâng,

Tửu trà huê quả lễ mừng Tiên ông.

Nhang tốc đốt nực nồng bửu điện,

Các con nguyền khẩn nguyện với thầy.

Chứng lòng đệ tử từ đây,

Nội trong gia quyến phước dày miên miên.

(Tiếp theo cúng thời Trung Đàn, trang 73)

2.17. LỄ CÚNG TỨ THỜI ĐIỆN THỜ PHẬT MẪU

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Mẫu Nghi chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Mẫu Nghi

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

- KINH CÚNG GIỜ TÝ

(Giọng Nam Xuân)

Trời trong sao tỏ gió hòa,

Âm dương giao thới Hằng Nga giúp đèn.

Mùi hương thấu đến tòa sen,

Chứng minh đệ tử mấy phen khẩn nguyền.

Cậy nhờ pháp lực Thần Tiên,

Linh đơn rưới khắp độ yên dân Trời.

Nguyện làm tôi Phật đời đời,

Ngõ lo độ thế khỏi nơi A Tỳ .

Thiện nhơn cư hội qui y,

Mong ơn Bồ Tát từ bi cứu trần.

Giờ nay Hợi Tý giao phân,

Bồ đào cam giá ân cần hiến cung.

Cúi xin Kim Mẫu chứng cùng,

Lòng người thiện nguyện Thiên tùng chẳng sai.

Giữ tròn tu niệm hôm mai,

Cầu cho dân sự lâu dài ấm no.

Tâm niệm:

Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

- KINH CÚNG GIỜ NGỌ

(Giọng Nam Xuân)

Thiên khai chánh ngọ trùng hưng,

Bồ đào Cam giá ba tuần hiến dưng.

Mùi hương thấu đến cửu từng,

Môn sanh nam nữ lễ mừng Mẫu Nghi.

Nguyện cầu Phật Tổ tây phang,

Phò trì hộ hựu Nam bang thái bình.

Mong cầu Tiên Thánh chí linh,

Thi ân tế chúng hộ tình nhơn gian.

Phò nguy cứu khổ trợ nàn,

Độ an bá tánh bảo toàn quy nguyên.

Quả huê hinh vị điện tiền,

Thiện nam tín nữ đồng chuyên chí thành.

Kiền thiền lễ bái Mẫu Nghi,

Tế nhơn lợi vật phước lành khương ninh.

Thơ sanh đặng tánh thông minh

Tuổi già tu niệm Tây Đình hồi qui.

Tâm niệm:

Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

- KINH CÚNG GIỜ MẸO

(Giọng Nam Xuân)

Thái dương vừa lố vừng hồng,

Trợ an muôn vật trái bông tươi nhuần.

Lòng thành nhớ chữ túc hưng,

Đê đầu vọng bái chín từng chứng minh.

Ngày nay đệ tử sửa mình,

Nhờ ơn Kim Mẫu rộng tình chứng tri.

Nguyện tròn sáu chữ A Di,

Quan Âm Bồ Tát từ bi cứu trần.

Tứ thời tụng niệm ân cần,

Cầu cho nước trị, lê dân thái bình.

Người người lạc nghiệp khương ninh,

Nhà không đóng cửa, lộ trình bình yên.

Cầu cho Thất Tổ Cửu Huyền,

Phước hồng Phật độ về miền Tây Phương.

Mùi hương thấu đến Thiên Đường,

Cầu cho bá tánh an khương đời đời.

Tâm niệm:

Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

- KINH CÚNG GIỜ DẬU

(Giọng Nam Xuân)

Ác vàng che bóng non Đòai,

Đẩu tinh chói rạng Thiên Thai thấy gần.

Kiền thiền vọng bái Mẫu ân,

Độ sanh độ tử dương trần bình an.

Lòng thành thấu đến Phật đàng,

Thanh trà huê quả lễ toàn thiên thu.

Mùi hương thấu đến thanh u,

Thiện nam tín toàn tu chí thành.

Kiền thiền lễ bái Mẫu Nghi,

Chứng minh đệ tử lòng thành cầu kinh.

Nguyện cùng Vương Mẫu trì linh,

Phép hay độ thế tử sinh vẹn toàn.

Lời nguyền thấu đến Tây phang,

Cửu Vị Nữ Phật hội bàn chứng tri.

Thái Âm phúng tụng Dậu thì,

Cầu cho bá tánh phước ghi lâu dài.

Tâm niệm:

Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

- KINH XƯNG TỤNG

ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU

(Giọng Nam Xuân)

Lạy Mẹ đại từ đại bi,

Xin thương con dại ngu si phàm trần.

Dắt dìu ra khỏi mê tân,

Đặng cho con dại nguơn thần mở mang.

Con đà sái bước lạc đàng,

Muôn ngàn tội lổi chứa chan dẩy đầy.

Mẹ thương xin Mẹ làm khuây,

Tha cho con dại thơ ngây lổi lầm.

Từ nay con nguyện chí tâm,

Cải tà quy chánh lo chăm theo Thầy.

Gió trong vén ngút rẽ mây,

Lạy xin Đức Mẹ đoái bầy con thơ.

Đừng cho xiêu lạc vất vơ,

Xin cho biết bến biết bờ xanh xanh.

Lòng con trót cạn chữ thành,

Lạy nhờ Đức Mẹ xin nhìn chăm nom,

Cho gười hôm sớm thăm lom,

Cho người dạy dỗ hôm nay kịp kỳ.

Lạy Mẹ đại từ đại bi,

Xin thương con dại ngu si phàm trần.

Tâm niệm:

Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

- PHẬT MẪU CHƠN KINH

Tạo Hóa Thiên Huyền Vi Thiên Hậu,

Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì;

Sanh quang dưỡng dục quần nhi,

Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình.

Thiên Cung xuất Vạn linh tùng pháp,

Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh;

Càn Khôn sản xuất hữu hình,

Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sinh.

Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp,

Lập tam tài định kiếp hòa căn;

Chuyển luân định phẩm cao thăng,

Hư vô bát quái trị thần qui nguyên.

Diệt tục kiếp trần duyên oan trái,

Chưởng đào tiên thủ giải trường tồn;

Nghiệp hồng vận tử hồi môn,

Chí công định vị vĩnh tồn Thiên Cung.

Chủ Âm quang thường tùng Thiên mạng,

Độ chon thần nhứt vãng nhứt lai;

Siêu thăng phụng liễn qui khai,

Tiên Cung Phật xứ Cao Đài xướng danh.

Hội nguơn hữu Chí Linh huấn chúng,

Đại Long Hoa nhơn chủng hòa cơ;

Tam kỳ khai hiệp Thiên thi,

Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên.

Trung khổ hải độ thuyền bát nhã,

Phước từ bi giải quả trừ căn;

Huờn hồn chuyển đọa vi thăng,

Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chưởng Âm.

Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng,

Tùng Địa Chi hóa trưởng càn khôn;

Trùng huờn phục vị Thiên môn,

Nguơn linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng.

Vô siêu đọa quả căn hữu pháp,

Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.

Vô địa ngục, vô quỉ quan,

Chí Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên.

Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,

Độ anh nhi nam, bắc, đông, tây.

Kỳ khai tạo nhứt Linh Đài,

Diệt hình tà pháp cường khai Đại Đồng.

Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch,

Qui thiên lương quyết sách vận trù.

Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,

Hiệp qui Tam Giáo hữu cầu Chí Chơn.

Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh,

Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.

Trụ căn quỉ khí cửu tuyền,

Quảng khai thiên thượng tạo quyền chí công.

Lịnh Mẫu Hậu khai Tông định Đạo,

Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn hài.

Càn Khôn Tạo Hóa sánh tài,

Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang.

Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên Cảm Bái

Nam Mô Đại Từ Bi Năng Hỉ Xả Thiên Hậu, Chí Tôn, Đại Bi Đại Ái

- KINH TÁN TỤNG CÔNG ĐỨC

ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU

(Giọng Nam Ai)

Kể từ hỗn độn sơ khai,

Chí Tôn hạ chỉ trước đài Linh Tiêu.

Lưỡng nghi phân khí hư vô,

Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.

Âm Dương biến tạo chon thần,

Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.

Mớm cơm vú sữa cũng tay,

Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.

Xét vì nhơn vật lẽ đồng,

Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.

Chí mong hòa hảo âm dương,

Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.

Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,

Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.

Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,

Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.

Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,

Cũng vì tà mị dẫn đường con thương.

Đỉnh chung là miếng treo gương,

Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.

Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,

Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.

Ngồi trông con đặng phi thường,

Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh.

Xưa con không thấu cội nhành,

Vì đường Đạo bế biệt cành hoa rơi.

Từ con cách Mẹ phương Trời,

Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.

Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,

Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.

Ngọc Hư định phép cũng nhiều,

Phái Vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ.

Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,

Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi.

Đắc truyền khai mối Tam Kỳ,

Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương.

Chín cô đã sẵn lòng thương,

Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.

Lục Nương phất phướn truy hồn,

Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.

Bát Nương thật đấng chí linh,

Cùng chung giáo hóa chung cùng lo âu.

Thất Nương khêu đuốc Đạo đầu,

Nhờ Người gọi ánh nhiệm mầu huyền vi.

Môn sanh thiện niệm hằng ngày,

Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương.

Đê đầu khấu bái Nương Nương,

Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.

"Nam Mô Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu"

"Nam Mô Tạo Hóa Huyền Thiên Cửu Vị Nữ Phật".

Tâm niệm:

Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

- KỆ DÂNG HOA

(Giọng Nam Ai)

Hoa tươi năm sắc, sắc thiên nhiên,

Đầu cúi xin dâng lễ kỉnh thiền.

Cám đức Diêu Trì lòng đoái tưởng,

Từ bi cứu thế giáng đàn tiền.

( 1 lạy)

- KỆ DÂNG BỒ ĐÀO

(Giọng Nam Ai)

Bồ đào cam giá tửu Tây phương,

Bá trảng cung trần mỹ vị hương.

Hiếu tử thành tâm kiền phụng hiến

Mẫu Nghi hoan lạc kiết trinh tường.

( 1 lạy)

- KỆ DÂNG TIÊN TRÀ

(Giọng Nam Ai)

Đông độ thanh trà mỹ vị hương,

Khấu đầu cung hiến trước hồ trường.

Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,

Đệ tử cung trần mỹ vị hương.

( 1 lạy)

- KINH NGŨ NGUYỆN

(Giọng Nam Ai)

Nam mô Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai.

Nam mô Nhì nguyện phổ độ chúng sanh.

Nam mô Tam nguyện xá tội đệ tử.

Nam mô Tứ nguyện thiên hạ thái bình.

Nam mô Ngũ nguyện ……..an ninh.

Tâm niệm:

Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

( 3 lạy, mỗi lạy 3 gật )

2.18. LỄ THỌ PHÁP

- BÀI CÚNG MINH SƯ THIÊN PHỔ

Chư đệ tử lòng thành tín ngưỡng,

Nữ cùng nam cảm tưởng thạnh tình;

Nhờ ơn Huynh trưởng chứng minh,

Tửu trà huê quả đăng trình hiến dưng.

Nhờ Ơn Trên cửu từng dẫn độ,

Cứu nhơn loài thoát chỗ khổ nguy;

Chỉ truyền phép đạo vô vi,

Đường tu siêu thoát kịp kỳ Long Hoa.

Đệ tử nguyện ái tha tu tánh,

Học những điều chơn chánh Trưởng huynh;

Tu tâm khắc kỷ sửa mình,

Trui rèn tư tưởng giữ gìn tâm trung.

Nhờ Ơn Trên cửu trùng dẫn độ,

Cứu nhơn sanh thoát chỗ sầu bi;

Giáo dân vi thiện kịp kỳ,

Con đường chơn lý gắn ghi cõi lòng.

Đệ tử nguyện thi công lập đức,

Không còn lòng phiền phức ghét nghi;

Dứt rồi nghiệp chướng sân si,

Công bình bác ái Từ bi dung hoà.

Chữ Thiên Đạo không xa chánh giáo,

Con nguyền lo nhân Đạo cho tròn;

Mấy lời ước hẹn sắt son,

Trưởng huynh cứu giúp ơn còn hậu lai.

Tâm niệm:

Nam Mô Phổ Đức Chơn Nhơn

(3 lạy 9 gật)

- BÀI GIẢI OAN

(LÃNH THẦN ĐẠO)

Dưới Chí Tôn có quyền Giáo chủ,

Hạo Nguơn Tiên sẵn đủ cơ mầu;

Máy linh định phép cao sâu,

Ma ha nước báu giải sầu trần gian.

Đạo khí phục diệt tan trần lụỵ,

Diệt yêu ma giảm mị trừ tà;

Hiển linh giúp thế gần xa,

Giải vòng nghiệp báo ta bà độ dân.

Biển khổ vốn xác thân linh hiển,

Biết ăn năn niệm tiếng Cao Đài;

Vĩnh sanh phép báu trao tay,

Đắp thân y bát chờ ngày cõi lao.

Hiệp Đạo đặng đưa vào thiên vị,

Miếng đỉnh chung có quý chi đây;

Vì thương mới đến nỗi này,

Hoá thân xuống tục lẫn bầy hồng gian.

Lập Đạo đặng chỉ đàng chơn giả,

Máy Thiên cơ định quả là đây;

Cả kêu con dại trần này,

Mau mau quày gót tìm Thầy giải oan.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- BÀI THỆ LẢNH THẦN ĐẠO

Đầu cúi lạy Chơn sư chứng chiếu,

Cho con hiền nương niếu Đạo Thầy;

Ngày nay con nguyện đến đây,

Điện tiền làm lễ lãnh rày Đạo chơn.

Con xin nguyện thiệt hơn dưới bệ,

Hiến thân này nào nệ mất còn;

Thầy phàm chỉ dạy cho con,

Đặng con lảnh pháp lo tròn hành y.

Con xin thệ chung qui một dạ,

Vâng lời truyền vàng đá không phai;

Nếu con cãi lịnh dạy rày,

Phản Thầy phản bạn bị đày âm ty.

Con nguyện giữ qui y hai chữ,

Mức thượng thừa con dự lần lên;

Nhờ Thầy hộ trẻ chí bền,

Hành tròn Thần Đạo bước lên thượng thừa.

Con nguyện giữ chiều trưa một dạ,

Con hành tròn công quả Thầy ghi;

Ngôi Tiên con bước kịp kỳ,

Độ toàn Thất Tổ chung qui một đường.

Con xin Thầy đoái lòng thương,

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- BÀI ĐẠI THỆ

Cúi đầu vọng bái điện tiền,

Xin dâng đại thệ Cao Tiên chứng lòng.

Con nguyền giữ trọn thủy chung,

Lòng gìn ngũ giới, dạ tùng tam qui.

Nguyện tròn hai chữ từ bi,

Dốc lòng phước thiện, sân si xin chừa.

Lòng hằng đạm bạc tương dưa,

Dứt đường dâm dục, không ưa gian tà.

Hằng ngày quét sạch tâm ma,

Noi theo Đại Đạo tiên gia noi truyền.

Ngày đêm sớm tối cần chuyên,

Nghe theo sư giáo mật truyền công phu.

Gắng bền chí cả rèn tu,

Chẳng hề tiết lậu nẽo tu Đạo huyền.

Muôn năm gắng giữ lời truyền,

Một lòng thờ Chúa Cao Tiên trọn bề.

Dầu ai khích bác cười chê,

Cũng không dời đổi, chẳng hề lãng xao.

Đến chừng có sắc Thiên Tào,

Chỉ sai độ chúng mới trao cho người.

Dầu cho bạc bảy, vàng mười,

Chẳng lòng ham muốn của người về tay.

Lời nguyền xin thấu cao dày,

Hoàng Thiên, Phật, Thánh chứng ngay lời nguyền.

Khắp trong ba cõi Thần Tiên,

Chiếu tri văn thệ lòng thiền lập đoan.

Nếu con chẳng giữ một đàng,

Bán đồ như phế nhãn quang sa liền.

Phạt cho thấy tại nhãn tiền,

Khẩu trung thổ huyết chẳng yên thân phàm.

Dầu cho đến thác cũng cam,

Đoạ đày địa ngục lại giam luân hồi.

Như con giữ đặng y lời,

Đắc thành quả vị phản hồi Thượng Thiên.

Độ toàn Thất Tổ Cửu Huyền,

Đồng đăng Tiên cảnh khỏi miền u minh.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- BÀI TẠ THẦY MÃN BÁ NHỰT

Nay con trẻ cuối đầu vọng bái,

Xin Tôn Sư hà hải chứng tri;

Ngày nay mãn Bá chi kỳ,

Trình Thầy con đặng hồi qui gia đình.

Nhờ Tôn Sư chứng minh cho trẻ,

Cho thân con mạnh khỏe quang minh;

Pháp đạo con nguyện giữ gìn,

Xin Thầy ban bố điển linh hộ rày.

Con nguyện giữ hằng ngày nơi dạ,

Nguyện làm sao Đạo cả oát khai;

Nhơn sanh hưởng ứng Đạo rày,

Con nguyền dẫn dắt không nài khó khăn.

Con nguyện giữ chuẩn thằng qui củ,

Để ban truyền cho đủ ngũ châu;

Chiếu Minh là phái đứng đầu,

Dắt dìu sanh chúng về chầu Ngọc Kinh.

Lời con nguyện Thiên đình chứng chiếu,

Mong Ơn Trên chỉ biểu cho con;

Việc nào con chưa hành tròn,

Nhờ Thầy xuống điển chỉ con đủ điều.

Cúi đầu bái tạ Tôn sư,

Cho con dời gót gia cư an nhàn.

Tâm niệm:

Nam mô Giáo Chủ Nhị Thiên hộ độ chúng con.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

- BÀI CÔNG PHU TỨ THỜI

Cúi đầu vọng bái Tôn Sư,

Chứng minh cho trẻ công phu đắc thành.

Nhờ Thầy ban bố điển thanh,

Cho chư Thần hộ con hành quang minh.

Diệt trừ lục dục thất tình,

Tâm con sáng suốt đinh ninh lo hành.

Chơn Đạo con cố luyện phanh,

Con nguyện chẳng có cải canh vẽ vời.

Pháp luân thường chuyển khắp nơi,

Long thăng hổ giáng con thời hành y.

Diệt trừ bạch hổ vậy thì,

Linh miêu bộ thử y kỳ hành xong.

Tứ thời con giữ nơi lòng,

Xin Thầy ban bố ân hồng cho con.

Đừng cho khảo đảo hao mòn,

Con nguyền một dạ giữ tròn chẳng sai.

Cúi xin Đức Phật Cao Đài,

Ban ơn cho trẻ ngày ngày khỏe an.

Tâm niệm:

Nam mô Giáo Chủ Nhị Thiên hộ độ chúng con.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

- BÀI HỌA ĐỒ THẦN ĐẠO

1/…..Ba giờ suy xét gần xa,

Trăng kia mây chẳng án mà lại lu.

Luận qua đạo lý muôn thu,

Kể từ số một thâm u giáp vòng.

Bắt đầu học đạo chí công,

Nói luôn số kế chẳng không đâu nào.

Khởi đầu vạn sự làm sao,

Luận cho rõ lý là tâm trước mà.

Hai dòng thái cực trời cha,

Mượn làm Thiên nhãn lưu mà các nơi.

Ngũ hồ tứ hải đủ rồi,

Quay về tâm nội sáng ngời như trăng.

Nói luôn số kế cho rằng,

Kêu là bát quái ân cần nhớ ghi.

2/…..Hai lằn quay pháp hành y,

Ấy là võ hỏa vòng thì phía trên.

Siêng làm hỏa hậu chẳng quên,

Khỏi cơn phong hỏa đắp nền dốc thân.

3/…..Số ba kêu số hộ thần,

Luyện cho lưỡng nhãn định thần đừng xao.

Khỏi cơn tai nạn lâm vào,

Cũng nhờ Thần khí chẳng xao tâm mà.

4/…..Số tư đi đến chẳng xa,

Hành thường thân thể thật là khỏe an.

Xưa nay trong cõi thế gian,

Ngõ đâu niệm Phật rõ đàng thiệt ư.

Chớ không tìm hỏi chơn sư,

Làm sao rõ lẽ niệm từ tiếng ra.

Vậy thì hao tán hay là,

Có đâu bổ dưỡng thân ta đó mà.

Ngày nay Đạo báu nước nhà,

Chơn sư sẵn có thì ta đến tìm.

Hành trong thân thể im lìm,

Chẳng hao thần khí là tim khỏe mà.

5…..Số năm liên tiếp luận qua,

Đem tinh cùng khí hiệp hoà thân nên.

Suy cùng cạn lẽ dưới trên,

6/…..Tam gia tương hội là nền trước sau.

Thần đạo sáu lớp mau mau,

Tiếp luôn số 7 làm sao bớ người.

Nếu mà chẳng gặp chơn sư,

Tam tài chẳng hiểu cũng từ bỏ luôn.

Nếu mà hiểu được cội nguồn,

Tam tài thâu trước tụng luôn Huỳnh đình.

Tiếp theo Thánh Đạo chương trình,

Khỏi đầu nhập thất cách hành hỏa công.

Tam thập lục thiên công đồng,

Để an thần trí ngoài trong tập lần.

Tứ thời xoay chuyển cân phân,

Ngọ thời khai khiếu ân cần nhớ ghi.

Tam quan tiền tấn vậy thì,

Vòng sau cửu khiếu tường tri lời Thầy.

Dậu thời bánh phép chuyển xoay,

Xạ tiển phúc tiển tường thay phép mầu.

Tý thời tiếp nối chẳng lâu,

Mộc dục khởi chuyển hỏa hầu riu riu.

Hành rồi phải nhớ qui điều,

Đó là giờ tý chớ xiêu lạc lầm.

Mẹo thời phải nhớ từ tâm,

Kêu là mai cậy Lão Bà thường đêm.

Làm cho hai gả thù hiềm,

Bắt tay hiệp mặt mới êm cửa nhà.

Tới đây gà gáy ngâm nga,

Làm sao trạch nữ điều hòa Ngưu Lang.

Khỏi sanh đại dược lo toan,

Kiếp mau hái thuốc nuôi vào thân ta.

Nhờ trên ân đức lão bà,

Đem về cho tới đơn điền mới nên.

Xây lò bát quái vững nền,

Mượn cung Ly Hỏa ngày đêm nấu liền.

Gió tốn khởi động nào yên,

Chão lò đã sẵn thuốc tiên đỗ vào.

Để phòng tâm họ sái nào,

Lửa riu riu cháy thuốc trào đặng đâu.

Luận qua cho rõ đuôi đầu,

Vòng qua thượng đảnh ngõ hầu mượn xe.

Thượng tầng chảy xuống re re,

Tới nơi cung khảm mà xe thuốc về.

Huỳnh Bà đưa đón chỉnh tề,

Chạy ngang qua cửa gọi rằng Ma Ha.

Tới nơi giáp tích kia là,

Nê huờn thuốc đổ cho liền chí tâm.

Ly cung mượn lửa chưng hầm,

Cho nên đại dược ngàn năm hưởng nhờ.

Chưng thành rượu thánh Kim đơn,

Mộc kiều ta bắt hầu đem đơn về.

Vô bầu ta cất chỉnh tề,

Để dành độ kẻ muội mê thế trần.

Kim đơn ba phẩm ân cần,

Ngày đêm canh giữ cho phần kỷ hơn.

Mãn kỳ tịnh thất chớ sờn,

Tam huê tựu đảnh triều nguơn lãnh phần.

Công phu ba phẩm ân cần,

Kêu là khước bịnh cân phân nhớ hành.

Ngoài bá thể thủ luyện phanh,

Tấn dương giờ Tý phù âm ngọ thời.

Mẹo Dậu dưỡng trí định thần,

Đó là phép thủ rõ phần bề trong.

Ra ngoài nhiều cách rán phòng,

Gió đổi ta phải cẩn phòng nhớ luôn.

Cách hành cho đúng âm dương,

Giữ theo giờ khắc tầm phương sanh trường.

Quay qua lục tự hà phương,

Bát quái cho đúng rõ đường Tiên thiên.

Nhị thập bát tú tầm đường,

Đó là đủ pháp âm dương của thầy.

Hà xa bánh pháp chuyển xoay,

Âm dương điên đảo của Thầy chỉ phân.

2.19. LỄ TIỄN CHƯ THÁNH TRIỀU TRIÊN

- LỜI CẦU NGUYỆN TIỄN CHƯ THÁNH TRIỀU THIÊN

Con đệ tử…………………………………thành tâm khấn nguyện, đêm nay thiết lễ trước Thiên Bàn hương, đăng, hoa, trà, tửu, thành tâm hiến lễ đưa chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần về Ngọc Hư Cung Triều Thiên bái lễ, con cúi xin Đại Từ Phụ, Đại Từ mẫu, các Đấng Thiêng Liêng ban ân lành cho toàn cả nhơn sanh đồng hưởng ân lành thức tỉnh tu hành kịp nguyên Thánh đức. Ban hồng ân cho gia đình con, vợ chồng hòa ái, hiệp trí nhứt tâm, lập đức tu hành, phát huệ tâm lành, gia đình hạnh phúc. (Tiếp theo cúng Trung Đàn, dâng sớ: Trung lễ Tiễn Chư Thánh)

- Tiếp theo cúng Trung đàn, trang…..)

 

2.20. LỄ THỈNH CHƯ THÁNH NGÀY XUÂN

- LỜI CẦU NGUYỆN THỈNH CHƯ THÁNH

Con đệ tử……………………………đêm nay……… thời đầu xuân niên mới, niên……….….con thiết lễ cung nghinh, kính thỉnh chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần giáng linh tọa hạ. Trước Thiên Bàn con thiết lễ đàn tràng hương, đăng, hoa, trà, tửu thành tâm phụng kiến.

Đê đầu cúi xin Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu ban ân lành cho toàn cả nhơn sanh sáng suốt thức tỉnh tu hành cho kịp ngày Thánh Đức, Cúi xin các Đấng ban ân cho gia tộc con hòa ái tương giao nhứt tâm hiệp ý, phát huệ Bồ Tát. Để ân duyên thiện tánh, lập đức tu hành, phước lộc tràn đầy, thi ân bố đức, vẹn toàn phỉ lạc nguyên cả kiếp sanh phục tùng chánh giáo.

Con cúi xin hai Đấng từ bi, các Đấng Thiêng Liêng ban cho con  đắc kỳ sở nguyện. (Tiếp theo cúng Trung Đàn, dâng sớ: Trung lễ Thỉnh Chư Thánh)

- Tiếp theo cúng Trung đàn, trang…..)

- VĂN RƯỚC TIÊN LINH NGÀY XUÂN

Ngày nay bộc trước giai thì,

Đào phù vạn hộ nghinh kỳ tân xuân.

Hà linh chúc tụng chi tuần,

Đồ tô cung hiến lễ mừng Tiên thân.

Trầm xông tóc đốt hương phần,

Huy hoàng đăng chúc hầu gần lý đoan.

Cao lương mỹ vị bỉ bàng,

Cung nghinh Thất Tổ linh sàng giáng lâm.

NGHI LỄ HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

III- PHẦN HÔN LỄ

3.1. ĐÁM CƯỚI TRONG ĐẠO CAO ĐÀI

- QUAN NIỆM HÔN NHÂN CỦA ĐẠO CAO ĐÀI

Đạo Cao Đài quan niệm hôn nhân là việc hợp tự nhiên. Đạo không ủng hộ các tín đồ theo đạo chọn lối sống độc thân, không kết hôn để tu hành. Một trong những quyển sách của đạo Cao Đài đã đề cập vấn đề này như sau:

“Trai lớn lên cưới vợ, gái lớn lên lấy chồng là lẽ đương nhiên. Việc hôn nhân là việc tối quan trọng trong đời người. Tìm đâu có hạnh phúc? Hạnh phúc ở trong việc hôn nhân. Thật vậy, không có gì vui thích cho bằng trong gia đình được vợ chồng hòa thuận, đầm ấm, thành thật yêu thương nhau. Vợ biết  chiều theo ý muốn của người chồng, chồng biết thương vợ và không làm trái ý vợ. Hai vợ chồng ăn ở lâu ngày thì càng sâu nghĩa biển, càng dài tình sông”.

Vì quan niệm hôn nhân còn là một phần trong nhân đạo. Chính vì vậy những người theo đạo Cao Đài sẽ phải làm tốt một số bổn phận tiếp theo như là bổn phận làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ. Nếu làm các bổn phận này được tròn vẹn thì coi như tu xong phần nhân đạo. Sau đó người theo đạo sẽ dễ dàng tiếp tục tu lên phần Thiên đạo.

Để tiến hành xây dựng một gia đình, đôi nam nữ tín đồ đạo Cao Đài trước khi kết hôn phải nghiên cứu, tìm hiểu, tuân y luật đời, luật đạo. Quan trọng nhất trong đạo làm người là phải biết nhường nhịn, giúp đỡ nhau giữa hai vợ chồng. Mỗi người phải biết được bổn phận của mình và phải hành động trong phạm vi đó.

- ĐÁM CƯỚI TRONG ĐẠO CAO ĐÀI TẠI TÒA THÁNH HOẶC CÁC THÁNH TỊNH

Người chồng phải đóng vai trò trụ cột và gánh vác mọi công việc bên ngoài để xây dựng hạnh phúc cho gia đình. Người chồng phải sống tử tế để làm tấm gương cho vợ, cho con noi theo. Người chồng phải có tinh thần hòa ái, không được ra tay đánh vợ, đánh con như những kẻ vũ phu. Người vợ phải biết dung hòa với chồng, phải biết giữ mình và chăm lo việc nhà cửa. Người vợ phải ăn ở tiết kiệm để cùng chồng xây dựng mái ấm gia đình của chính mình.

Theo Tân luật của tín đồ đạo Cao Đài từ điều thứ 6 đến điều thứ 10 có răn dạy sự lựa chọn hôn nhân trong người cùng đạo là trừ khi người ngoài ưng thuận nhập đạo thì mới được kế làm giai ngẫu.

Tám ngày trước ngày lễ Sính hôn, chủ hôn nhà trai phải dán bố cáo nơi Thánh Tịnh sở tại để trong bổn đạo được biết và cũng là để tránh khỏi những điều rắc rối về sau. Khi làm lể Sính hôn, hai gia đình nhà trai và nhà gái phải đến Thánh Tịnh hoặc Tòa Thánh mà cầu lễ Chứng hôn (còn gọi là lễ hôn phối)

Đám cưới trong đạo Cao Đài

Đám cưới trong đạo Cao Đài tại tòa thánh

Tất cả người trong đạo Cao Đài khi tiến hành lễ kết hôn cho con cháu của mình đều phải tuân thủ theo Tân luật của đạo. Trước tiên là phải chọn hôn là người trong đạo. Khi làm lễ cưới thì hai bên nhà trai và nhà gái phải xin phép lập lễ hôn phối tại Thánh Tịnh hoặc Tòa Thánh. Cấm không được cưới hầu thiếp, cấm người trong đạo không được bỏ nhau trừ khi có người ngoại tình hay thất hiếu với công cô.

Hiện nay, những tín đồ của đạo Cao Đài sống trong cộng đồng người Việt vẫn tuân theo tín người của mình. Nhưng về hôn nhân thì họ tuân theo luật hôn nhân gia đình Việt Nam và thực hiện đúng chế độ một vợ, một chồng.

Lễ phối hôn trong đám cưới của người đạo Cao Đài

Lễ phối hôn trong đám cưới đạo Cao Đài mang ý nghĩa kết hợp mối lương duyên của đôi nam nữ tín đồ trong đạo. Đây cũng là một trong những nghi thức chuyển đổi vị thế trong đời sống của tín đồ đạo Cao Đài. Nó được xem như là một nghi thức bắt buộc.

Lễ hôn phối

Lễ hôn phối là một trong những nghi thức bắt buộc trong đám cưới của người đạo Cao Đài

Giới luật đạo Cao Đài có quy định những người theo đạo phải làm lễ hôn phối trước khi làm đám cưới đạo Cao Đài tại gia đình. Người đủ điều kiện làm lễ hôn phối phải là người đã trải qua lễ nhập môn. Để lễ hôn phối được diễn ra theo đúng quy định của đạo thì người muốn làm lễ phải thực hiện những công việc sau:

Tám ngày trước lễ hôn phối, chủ hôn nhà trai phải dán bố cáo nơi Thánh Tịnh sở tại. Việc dán bố cáo này được gọi là bát nhựt trình để thông báo cho những người trong đạo biết được về mối lương duyên của đôi trai gái. Từ đó tránh được những phản đối hay những rắc rối có thể xảy ra trong quá trình làm lễ. Trong thời gian này, đôi trai gái phải học cách hành lễ, cách ứng xử trong cuộc sống vợ và cách nuôi dạy con cái sao cho hợp với lẽ đạo, tình đời. Những điều này đều do người trong Ban Cai Quản Thánh Tịnh hướng dẫn cho họ.

Đến ngày làm lễ hôn phối, đôi trai gái cùng với gia đình hai bên cùng với dòng họ tập trung về Thánh Tịnh để làm lễ. Lễ hôn phối được tổ chức dưới sự chứng kiến của đông đảo tín đồ trong đạo. Lễ được cử hành dưới sự chủ trì của vị chức sắc trong Ban Cai Quản. Đôi trai gái mặc đồ lễ. Cả hai người sẽ quỳ trước bàn thờ phía sau chủ lễ.

3.2 KINH CHÚC HÔN

Mừng nay trổ mặt thư hùng,

Nhờ ơn Nguyệt Lão trùng phùng cựu duyên.

Gái xinh sánh với trai hiền,

Phụng loan mừng đặng phước liền hòa hai.

Cội bền tược tốt lâu dài,

Tấn Tần phỉ bấy đức tài sánh đôi.

Có câu Nhơn Đạo an rồi,

Bước qua Tiên Đạo phản hồi cựu bang.

Tuổi xanh Ngũ lý, Tam cang,

Nhơn Thần vẹn vẻ hai đàng làm y.

Tác già ngũ giới, tam quy,

Tu hành lo bước kịp thì chẳng sai.

Nguyện trên Đức Phật Cao Đài,

Chứng minh đệ tử bệ giai khẩn cầu.

Trăm năm trong cuộc bể dâu,

Hiếu trung vẹn vẻ ngõ hầu tu thân.

Đê đầu vọng bái Hoàng ân,

Ban ơn đệ tử lưỡng thân hão toàn.

Kiền thiền lễ bái Thiên nhan,

Cầu cho bá tánh Nam bang thái bình.

NGHI LỄ HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

IV- PHẦN ĐÁM TANG

4.1. CHUẨN BỊ TÂN CỐ

+ Nghi thức thượng sớ tân cố

Đây là nghi thức dâng sớ lên Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng để báo cáo về việc có tín đồ Cao Đài mới vừa qua đời, cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát và các Đấng thiêng liêng cứu độ vong hồn. Nghi thức thượng sớ tân cố là sớ Sơ Chung Thông Sự có thể thực hiện tại Tòa Thánh hay Thánh Tịnh, Nhà Tịnh hoặc tại Thiên Bàn nơi tư gia người chết.

Nếu người chết là Chánh Trị Sự hay Đạo Hữu hoặc tương đương thì người chứng đàn cầu nguyện là Chánh Trị Sự hương đạo sở tại.

Nếu người Chết là Phẩm Lễ Sanh hoặc tương đương trở lên thì người chứng đàn cầu nguyện là Đầu Tộc, Đầu Phận Đạo, Khâm Châu Đạo hoặc Khâm Thành Thánh Địa.

Còn những việc khác thì Ban Trị Sự hành lễ theo nghi thức quy định.

- Nghi thức đốt đèn trên và dưới hòm

Nghi thức đốt đèn trên và dưới quan tài Trên giá đèn đặt trên nắp quan tài, đốt đủ 9 cây nến, không dư không thiếu và không được để tắt đi. Phía dưới hòm đốt 1 ngọn đèn để khử trược lưu thanh.

Nghi thức lập bàn vong – khay vong – linh vị trong đám tang Cao Đài

Gia đình cần chuẩn bị 1 cái bàn đặt trước hòm làm bàn vong. Bàn vong sẽ bao gồm 1 cặp chân đèn, 1 lư hương, 1 dĩa trái cây, 1 bình hoa, 1 chung rượu, 1 chung trà, 1 tấm linh vị, 1 cây đèn, 1 tấm di ảnh có mặc đạo phục, 1 cây phướn Thượng Sanh đặt bên trái phía trong nhà nhìn ra cửa.

Nếu người chết ở Phẩm Lễ Sanh hoặc tương đương thì có thêm cây lộng. Trước bàn vong dán tấm phủ màu trắng ghi chữ ví dụ như: Sanh Ký Tử Qui, Sanh Tiền Giác Ngộ Tam Kỳ Đạo, v.v… Bên cạnh đó dán 1 miếng giấy nhỏ ghi: xin cầu nguyện cho “Phẩm Tước, họ tên người chết, tuổi” để cho người viếng đám cầu nguyện.

Nơi Thiên Bàn cũng dán tương tự như vậy với nam thì dán dưới bình hoa hoặc các chuông, nữ dán dưới dĩa trái cây hoặc cái mõ, để ban đạo cầu nguyện.

- Nghi thức khay vong

Gia đình chuẩn bị khay hình vuông để đặt linh vị, dĩa trái cây nhỏ, bình hoa nhỏ, đèn vọng, lư hương nhỏ. Khay hình vuông này được gọi là khay vong, tượng trưng cho vị trí của vong linh. Và khi hành lễ, gia quyến phải luôn đốt 3 cây nhang cắm vào.

- Nghi thức linh vị (bài vị)

Để thực hiện nghi thức này, cần một miếng giấy nhỏ ghi họ tên người chết, phẩm vị, tuổi, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, ngày tháng năm chết, nơi chết, ngày nhập môn cầu Đạo.

- Nghi thức cầu hồn khi hấp hối

Để thực hiện nghi thức này, gia đình sẽ thực hiện việc tụng kinh cho người mất. Việc làm này nhằm mục đích cầu nguyện Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng cứu giúp linh hồn của người đang hấp hối được nhẹ nhàng xuất ra khỏi thể xác, được siêu thoát về cõi vĩnh hằng.

- Nghi thức cầu hồn trong tang lễ

Nghi thức cầu hồn khi đã lâm chung. khi người đã mất được thực hiện giống như khi đang hấp hối. Lúc này, Ban trị sự sẽ tiến hành đọc kinh cầu nguyện cho người mất. Sau đó, gia quyến hoặc Ban trị sự sẽ đến Tòa Thánh (nếu người quy vị là Chức Sắc) hay Thánh Tịnh để báo tử.

- Việc đánh chung, trống báo tin

Việc đánh chung, trống báo tin bao nhiêu lần tùy thuộc vào người quy vị là Chức sắc hay các Chức khác.

Nếu là Chức Sắc thì tùy vào Phẩm Cấp để đánh chung báo tin và đánh trống báo tin, cụ thể:

Phẩm Giáo Hữu và tương đương: đánh 2 hồi chung và đánh 2 hồi trống.

Phẩm Lễ Sanh và tương đương: đánh 1 hồi chung và đánh 1 hồi trống.

Nếu là Chức việc Ban Trị Sự và Đạo Hữu hay các phẩm tương đương Nam thì đánh 7 hồi chuông, Nữ thì đánh 9 hồi chuông.

4.2. VIỆC TẨN LIỆM

- CÁCH TẨN LIỆM

Để thực hiện việc tẩn liệm cho người mất theo đạo Cao Đài, gia quyến sẽ thực hiện các việc như sau:

Vệ sinh, tắm rửa sạch sẽ cho người mất. Người thân sẽ dùng nước thơm (nước nấu với các loại lá cây có mùi thơm) vệ sinh nhẹ nhàng, sạch sẽ cho người chết. Sau đó thay đồ cho người chết, mặc đạo phục theo phẩm vị và đắp 1 miếng vải trắng hình tam giác trên mặt người chết, bề đứng 33cm và góc nhọn để trên. Quỳ lạy Đức Chí Tôn và cầu nguyện. Sau đó đến chỗ người chết nằm quỳ lạy người chết 1 lần.

- Nghi thức tẩn liệm

Vị chứng đàn và 2 vị hầu lễ đến trước Thiên Bàn cầu nguyện Thầy.

Đốt 2 cây nến cho 2 vị hầu lễ cầm, vị chứng đàn bắt ấn Tý đến đứng trước đầu người chết, ra lệnh cho đồng nhi bắt đầu tụng kinh tẩn liệm, tụng 3 lần. Khi niệm xong câu chú của Thầy 3 lần, vị chứng đàn và 2 vị hầu lễ trở lại trước Thiên Bàn xá Chí Tôn, rồi xả ấn Tý và tắt 2 cây nến.

Người thân lạy người chết 1 lần nữa, rồi đội tẩn liệm bắt đầu tiến hành liệm xác rồi đưa vào hòm.

- Trị quan tài:

Cách trị quan tài thì dùng thạch cao sống, đâm ra gây cho thiệt nhỏ, hể dùng một tô thạch cao sống thì phải hai tô thôt chu hòa trộn cho đều, rồi chế sơn sống vô mà nhồi cho vừa cầm tay đặng trét các đường hèm cho kỷ càng, chừng ít giờ thì chắc hơn hết.

- Dùng đồ tẩn liệm

Người tu hành chẳng nên dùng đồ tơ lụa, cứ một hạng vải trắng mà thôi.

Đại liệm là dùng hai lớp:

* Lớp trong:

+ Ba cái “hoành” để nguyên khổ vải, dùng trải ngang, bề dài 2 thước tây hai đầu đều xé ba, bề vô vừa đủ cột lại.

+ Một cái “tung” dùng trải dọc, một khổ vải, bề dài 5 thước tây, hai đầu đều xé ba để cột lại.

+ Một cái “khâm” là cái mền để gói, bề rộng phải 3 khổ vải để nguyên mai kế lại.

+ Năm cái “hoành” mỗi cái nửa khổ vải, bề dài 2 thước 2 tấc tây không xé đầu.

+ Một cái “tung” bằng y như lớp trong vậy và cũng xé ra làm ba để cột.

+ Một cái “khâm” y như lớp trong, mỗi món điều làm dấu trung tim.

+ Chiếc chiếu phía trên đầu trải trước, kế trải chiếc chiếu dưới chơn sau.

+ Sắp 5 cái hoành lớp ngoài trải ngang qua (phải giữ trung tim) trải phía dưới chơn trước, kế sắp dần lên tới trên đầu cho đủ 5 cái.

+ Sắp cái tung ngoài, trải bề dọc (cũng giữ tim).

+ Sắp cái khâm ngoài, trải bề dọc, cũng giữ tim cho đúng với trung tim quan tài.

+ Sắp 3 cái hoành nội ngang qua, rồi sắp cái tung nội bề dọc, kế sắp cái khâm nội. Cách sắp cũng như lớp ngoài, còn cái gối để nằm ngang.

+ Dùng một khai trầu rượu làm lễ trình mà thỉnh thi hành nhập quan, trong lúc đó con cháu phải tựu lại quỳ, chư nho vái như vầy:
”Thưa đạo hữu, giờ nay là giờ lành xin dùng ly rượu này làm lễ trình, thỉnh thi hài nhập quan, xin linh hồn đạo hữu chứng chiếu”.

+ Vái rồi con cháu đồng lạy, rồi ra đứng hai bên, các người trợ tẩn vào khiên thi hài đêm ra nhập quan.

+ Cách khiên: Dùng một cái mền để dưới lưng thi hài, phải có hai khúc cây đặt hai bên mí mền xuôi theo thi hài, cuốn mí mền vào hai khúc cây cho sát hai bên hông thi hài thẳng thớm cho dễ khiên.

+ Khi khiên đem để trên quan tài ngay thẳng, rồi thủng thẳng tháo hai khúc cây ra thi hài riếu riếu xuống lần không hề xao động. Chừng yên nơi quan tài rồi lấy hai mí mền đấp lên, lấy hai yểm nhỉ ém bên lỗ tai, cái yểm diện đậy trên mặt. Phải coi chừng cái mặt có ngay thẳng, rờ chừng sống mũi thì hiểu.

+ Áo quần, mùn mền chi muốn đem theo cho người thác ấy thì sắp vào cho đều, nếu chưa đủ thì lấy kèn cuốn mà ém vào cho đủ, đừng cho chỗ no chỗ đói.

+ Kế đó sắp cái khâm nội lại, sắp mí dưới chơn lên trước, mí trên đầu xuống sau xếp mí bên tả rồi xếp mí bên hữu, xong phải ếm mí cho ngay thẳng.

+ Xếp cái tung nội lại mà cột, phép cột gắt mối vải lại, xây trái ổi rồi nhét mối, đừng cột thắt gút.

+ Kế ba cái hoành nội, mỗi cái xé làm ba, phải rán cho thẳng, bắt trên cột trước, dồn xuống chín gút, cũng gắt mối dây trái ổi mà nhét mối lại.

+ Lớp ngoài thì cứ thứ tự gối cột cũng như y trong vậy chớ đùng xé đầu.

+ Phải coi chừng đừng non quá mà đừng già quá, nhắm cho vừa rồi xếp chiếc chiếu đầu dưới chơn trước mà ém, rồi xếp đầu trên sau, ém mí cho chắc đó là rồi các việc trong quan.

+ Kế dùng hồ trị quan, trước đây dấp trên đường vỏ khổ quan cho đều đủ, đậy nấp quan lên, coi cho ngay mộng, dùng hai đoạn dây làm nài, đặt ngang qua nấp, trên đầu một cái, dưới chơn một cái, dưới đáy có hai khúc cây đòn ngang, choàn dây quay và phải cùng một lượt, chậm-chậm cho xuống chừng xác mộng, rồi thì đóng hai con đĩa ở hai bên chắc hơn bản lề. Dùng hồ ém trét hai mí cho kín, lấy giấy bạch thoa sơn sống mà phất theo đường hèm chừng năm lớp thì chắc, khỏi lo chi cả.

*Lớp ngoài:

+Đồ phụ tùng: Một cái gối đầu, may bề dài 3 tất tây, bề ngang 2 tất rưỡi, bề dầy 8 phân tây, dồn gòn, hai cái yểm nhỉ, mỗi cái bề dài 2 tất rưỡi, bề dầy 8 phân tây, bề cao 2 tất, may rồi cũng dồn gòn.

+ Một cái yểm diện may bằng cái gối, nhưng bề dầy 4 phân tây, còn bao đầu bao tay và bao chơn liệu may cột kín thì thôi. Bổ khuyết thì dùng giấy súc thứ dầy; cuốn kèm dồn gòn, hoắc tim-bức cũng đặng. Một đôi chiếu mới cho sạch sẽ. Đó là đủ đồ dùng cho sự đại liệm.

- Sắp đặt quan tài

Tiểu liệm cũng y như vậy, nhưng không dùng lớp ngoài nên gọi là tiểu liệm. Thế là xong phần tẩn liệm thi hài./.

4.3. -PHỦ QUAN

Tấm phủ quan là tấm vải để phủ lên hòm, có 5 màu là vàng, xanh, đỏ, trắng, đen. Thông thường, tấm vải này sẽ có dạng hình vuông với mỗi cạnh là 1m2, 4 mặt đều may ren, chính giữa thêu 1 Thiên Nhãn lớn với 12 ánh hào quang.

Nghi thức tấm phủ quan được thực hiện sau khi hòm được đặt đúng vị trí. Gia quyến sẽ dùng tấm phủ quan đắp lên hòm, tiếp sau là đặt giá đèn lên trên.

Cần lưu ý rằng trước khi đắp tấm phủ quan lên hòm cho người chết, người chứng lễ đem tấm vải này đặt trước Thiên Bàn để cầu nguyện đức Chí Tôn ban ơn cho người chết.

Và để phân biệt người chết là nam hay nữ cũng như để là phân biệt cơ quan, Chức Sắc Cửu Trùng Đài, mọi người sẽ có căn cứ vào màu sắc của tấm phủ quan.

- Phủ Quan màu trắng:

Chức Sắc và Chức Việc phái nữ Cửu Trùng Đài

Chức Sắc Hiệp Thiên Đài và Ban Thế Đạo.

- Phủ Quan màu vàng:

Chức Sắc Cửu Trùng Đài phái Thái

Chức Sắc Phước Thiện từ Phẩm Hiền Nhơn trở lên

- Phủ Quan màu xanh:

Chức Sắc Cửu Trùng Đài phái Thượng

Chức Sắc Phước Thiện nam nữ đeo dây sắc lệnh màu xanh: Chí Thiện, Đạo Nhơn, Chơn Nhơn

- Phủ Quan màu đỏ:

Chức Sắc Cửu Trùng Đài phái Ngọc, Ban Trị Sự nam phái và các Phẩm tương đương

Chức Sắc Ban Kiến Trúc, Bộ Nhạc

Chức Sắc Phước Thiện nam nữ đeo dây sắc lệnh màu đỏ: Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Bảo Thể, Đầu phòng văn.

- Phủ Quan màu đen:

Đạo hữu nam nữ, đạo sở, minh đức, tân dân (Phước Thiện), thư ký, trật tự viên,

- Đấp Tấm phủ quan - Đốt đèn trên và dưới quan tài.

Khi đặt quan tài ở đúng vị trí rồi thì lấy tấm phủ quan đấp lên quan tài, kế tiếp đặt giá đèn lên trên.

Tấm phủ quan là một tấm vải để phủ lên quan tài, có hình vuông, mỗi cạnh 12 tấc (1 thước 2 tấc), bốn bề viền ren, chính giữa thêu một Thiên Nhãn lớn có 12 tia hào quang. Hình Thiên Nhãn thêu theo đường chéo của hình vuông. Khi đấp tấm phủ quan thì để cho chơn mày của Thiên Nhãn về phía đầu quan tài (đầu người chết), hai góc hai bên phủ xuống hai bên hông quan tài.

Về màu sắc, Tấm phủ quan có 5 loại theo 5 màu : vàng, xanh, đỏ, trắng, đen.

Muốn đấp tấm phủ quan, người chứng lễ đem tấm phủ quan đặt nơi Thiên bàn, cầu nguyện Đức Chí Tôn ban ơn cho người chết, rồi mới đem đấp lên quan tài.

Dùng màu sắc của tấm phủ quan để phân biệt người chết là nam hay nữ, cơ quan, 3 phái Chức sắc CTĐ kể ra :

+ Phủ quan màu trắng dành cho : Chức sắc và Chức việc Nữ phái CTĐ, Chức sắc HTĐ và Chức sắc Ban Thế Đạo.

+ Phủ quan màu vàng dành cho : Chức sắc CTĐ phái Thái, Chức sắc PT từ phẩm Hiền Nhơn trở lên.

+ Phủ quan màu xanh dành cho : Chức sắc CTĐ phái Thượng, Chức sắc PT nam nữ mang dây Sắc lịnh màu xanh : Chí Thiện, Đạo Nhơn, Chơn Nhơn.

+ Phủ quan màu đỏ dành cho : Chức sắc CTĐ phái Ngọc, BTS nam phái và các phẩm tương đương, Chức sắc Ban Kiến Trúc, Bộ Nhạc, Chức sắc PT nam nữ mang dây Sắc lịnh màu đỏ : Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Bảo thể, Đầu phòng văn.

+ Phủ quan màu đen dành cho : Đạo hữu nam nữ, Đạo sở, Minh đức, Tân Dân (PT), Thơ ký, Trật tự viên, . . . .

Ý nghĩa của tấm phủ quan nầy giống như ý nghĩa của việc thờ Thiên Nhãn nơi Khách đình : Đức Chí Tôn vì quá thương yêu con cái của Ngài nên một mình Ngài rời Thiên đình đi xuống trần (nên Tam Giáo chủ và Tam Trấn không biết), không nệ chỗ uế trược, đến độ con cái của Ngài lúc chung qui hồn lìa khỏi xác, để trở về cùng Ngài.

Khi quan tài đấp tấm phủ quan màu gì thì khi lên thuyền Bát Nhã, tấm diềm treo trên thuyền Bát Nhã cũng có màu giống như thế.

Khi đấp tấm phủ quan xong thì đặt giá đèn lên quan tài. Trên giá đèn, đốt đủ 9 cây đèn sáp, đủ 9 cây không dư không thiếu, thường chăm sóc đừng để tắt. Số 9 cây đèn nầy đúng theo 9 cây nhang đốt cháy khi hành pháp độ thăng và 9 bài Kinh Tuần cửu, có Cửu vị Tiên Nương hướng dẫn linh hồn người chết đi lên 9 từng Trời.

Phía dưới quan tài đốt một ngọn đèn để khử trược lưu thanh.

+ Việc thu hồi tấm phủ quan : Sau khi đồng nhi đọc Kinh Hạ huyệt, 3 biến Vãng Sanh Thần chú và niệm xong Câu Chú của Thầy, vị chứng lễ bước tới ngang quan tài, xá Thiên Nhãn trên phủ quan 3 xá rồi thu hồi tấm phủ quan)

+ Nghi thức cáo từ Tổ – Thành phục – Tang phục

Để thực hiện các nghi thức này, gia đình cần tiến hành các việc như sau:

Chuẩn bị 2 mâm chay gồm 1 mâm cúng Cửu Huyền Thất Tổ, 1 cúng Thần Hoàng Bổn Cảnh. Các mâm cúng này phải có đủ hoa, rượu, nước trà.

Đặt đồ tang ngay ngắn trong 1 cái mâm được gọi là mâm tang phục để trước bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ. Trên mâm đốt 2 cây nến.

nghi thức cáo từ tổ – thành phục – tang phục

Trước tiên, Chức Việc và người nhà đến trước Thiên Bàn cúng Đức Chí Tôn, dâng sớ Thành phục, cầu nguyện cho người nhà thọ tang. Tiếp sau, đến bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ thực hiện lễ cáo từ Tổ thọ tang. Sau cùng đến bàn vong làm lễ phát tang.

Thời gian để tang bao gồm các hình thức để tang như:

Để tang 81 ngày: tới Chung cửu thì mãn tang.

Để tang  281 ngày: tới Tiểu tường thì mãn tang.

Để tang 581 ngày: tới Đại tường thì mãn tang.

Nghi thức cúng vong Triêu – Tịch

Nghi thức này sẽ có 6 lễ sĩ hiến lễ, mặc áo lễ màu xanh đậm.

Việc Tế Điện và 4 bái thài hiến lễ có sự quy định khác nhau tùy Phẩm Cấp của người chết. Lúc này, tất cả người thân quỳ trước bàn vong.

Chức Sắc, Chức Việc, chư đồng đạo dự lễ cầu siêu đứng 2 bên bàn vong, phân ra 2 bên nam nữ, chấp tay bắt ấn Tý.

4.4. CẦU SIÊU TANG LỄ

Sau lễ cầu siêu, Chức Sắc lớn Phẩm hơn người chết thì không lạy vong mà chỉ niệm hương cầu nguyện trước bàn vong. Rồi đến chư đồng đạo vào bái vong. Khi bái vong thì tay bắt ấn Tý, cầu nguyện cho vong linh rồi quỳ lại 3 lạy.

Buổi tối tổ chức hòa nhạc trước bàn vong và luân phiên tụng kinh Di Lạc trước Thiên Bàn.

+ Nghi thức hành pháp độ hồn

Nghi thức hành pháp độ hồn sẽ bao gồm các nghi lễ là phép xác – đoạn căn – độ thăng. Thông thường, gia đình sẽ thỉnh cầu 1 vị Chức Sắc Phẩm Giáo Hữu đến thực hiện cho người chết.

+ Phép xác

Phép xác là tẩy rửa chơn thần người chết cho hết ô trược để nhẹ nhàng bay đến cõi linh thiêng.

+ Đoạn căn

Đoạn căn là cắt đứt 7 dây oan nghiệp, không còn ràng buộc chơn thân người chết.

+ Độ thăng

Độ thăng là đưa âm hồn người chết bay lên Cửu Trùng Thiên (9 tầng trời).

Chi tiết về các nghi thức này sẽ được vị Chức Sắc Phẩm Giáo Hữu trở lên hướng dẫn.

Cần lưu ý nếu người chết là Chức Sắc Phẩm Giáo Hữu trở lên thì việc hành pháp độ thăng được thực hiện tại Tòa Thánh.

Trường hợp ở xa không có Chức Sắc hành pháp thì cả Chức việc Ban Trị Sự cùng với gia đình tang quyến, bưng khay vong đến cúng trước Thiên Bàn, cầu nguyện Đấng Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng ban ân và tha thứ tội tình cho người chết rồi trở lại bàn vong tụng kinh cầu siêu nối tiếp kinh khi đã chết rồi. Tụng 3 hiệp rồi niệm chú Thầy 3 lần, sau đó động quan đưa linh cữu ra thuyền Bát Nhã.

4.5. LIÊN ĐÀI

Từ Đầu sư - Thập nhị thời quân trở lên: Nhập Liên đài an nơi nhập Tháp, làm tại Hội Thánh. Khi Tẩn liệm thì tại Thiên Phong Đường, khi đọc kinh thì tại đại điện Tòa Thánh. Khi di hành đến nơi nhập Tháp phải di liên đài 3 vòng Tòa Thành và đảnh lễ trước Điện thờ Phật Mẫu.

Chánh Phối sư 2 tàng - 2 lộng (Từ Chánh Phối sư trở xuống còn làm tuần cửu).

Phối sư 1 tàng - 1 lộng

- Lễ Động quan – Khiển điện

Nghi lễ này sẽ có nhạc và lễ. Đầu tiên là thực hiện lễ khiển điện, lễ

xướng:

Đạo gia tựu vị

Nhơn quan giả bái quan

Đạo giả nhập cữu

Chấp sự giả triệt linh tọa

Đạo giả cử cữu thăng xa phát hành

4.6. LỄ AN TÁNG

Gia chủ sẽ bưng khay vong đến trước Thiên Bàn xá 3 xá rồi đi theo Phướn Thượng Sanh, tiếp theo sau là linh cữu. Khi đưa ra tới đường lộ thì phải trật tự.

- Đám tang của Giáo Hữu – Giáo Sư và Phẩm tương đương:

Gia chủ sẽ bưng khay vong đến trước Thiên Bàn xá 3 xá rồi đi theo Phướn Thượng Phẩm, tiếp theo sau là linh cữu. Khi đưa ra tới đường lộ thì phải trật tự.

- Đám tang của Lễ Sanh và Phẩm tương đương:

Gia chủ sẽ bưng khay vong đến trước Thiên Bàn xá 3 xá rồi đi theo Phướn Thượng Sanh, tiếp theo sau là linh cữu. Khi đưa ra tới đường lộ thì phải trật tự.

- Bảng Đại Đạo

- Phướn Thượng Phẩm hay Thượng Sanh

Đồng nhi tụng kinh đưa Linh Cữu, có đàn và tụng cho đến khi đến Huyệt mộ

Bàn hương án có 1 lọng và 2 lễ sĩ theo hầu

Vãng lụy và tràng hoa

Thuyền Bát Nhã

Dàn Nam

Gia đình tang quyến

Chức Sắc – Chức Việc – Đạo Hữu đưa tang

- Đám tang của Chức Vị Ban Trị Sự và Đạo Hữu:

Khay Vong

Phướn Thượng Sanh

Trật tự đưa đám giống như trên nhưng không có Bàn hương án và Dàn Nam

Điếu văn cảm tạ – Hạ huyệt

Khi đến nghĩa trang, đặt hòm kê trên huyệt. Vị chủ lễ đến trước linh cữu, trải chiếu và bày mâm cúng Thần Hoàng Bổn Cảnh. Gia đình tang quyến quỳ lại cầu nguyện xin gửi thi hài người chết tại đây. Rồi lạy 3 lạy.

Thân bằng quyến thuộc đọc điếu văn và lời cảm tạ (nếu có). Gia đình tang quyến quỳ trước đầu huyệt, tay bắt ấn Tý, đồng nhi bắt đầu tụng kinh Hạ huyệt – 3 lần, tiếp sau đó đọc vãng sanh thần chú 3 lần rồi lại niệm câu chú của Thầy 3 lần.

Vị chủ lễ đúng ngang hòm, xá 3 xá rồi thu hồi tấm phủ quan giao cho đội đạo tỳ. Đội đạo tỳ bắt đầu tiến hành hạ hòm xuống huyệt.

- Kết thúc tang lễ

Sau khi thực hiện các nghi thức trên, tang lễ có thể được xem như đã kết thúc. Ngoài ra, còn một số nghi thức sau đám tang như sau:

Tuần cửu 81 ngày

Tiểu tường 200 ngày

Đại tường 300 ngày xã tang

Nghi Tiết Tang Lễ Hàng Thiên Thần

Nghi Tiết Tang Lễ Hàng Nhơn & Địa Thần

Bên cạnh đó còn có những trường hợp khác như sau:

Tang Lễ Của Đạo Hữu Giữ Lục Trai

Tang Lễ Bạt Tiến

Trường hợp khác: Tự tử – Sét đánh – Nhi đồng

4.7. LỄ XIN TỘI

CHO NGƯỜI LIỄU ĐẠO

(tại Thiên Bàn)

- KỆ CẦU NGUYỆN

Nay đệ tử đồng thành tâm khấu bái,

Đại Từ Phụ quảng đại từ bi;

Thương xót chúng sanh nơi miền khổ hải,

Hóa dục nhứt điểm huyền diệu.

Cứu an đệ tử (tên họ người chết……..)

Khi số mãn căn, xin cầu an thân phận.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH LÀM LỄ XIN TỘI

Trên Ngọc Đế Chí Tôn xử đoán,

Định niên phần ngày tháng mãn căn;

Phép công thưởng phạt đền bồi,

Trả cho xong tội dứt rồi trái oan.

Ơn hóa dục linh thiêng chiếu giám,

Đức Từ Bi tội giảm, phước tăng;

Ngày nay duyên số mãn căn,

Linh hồn theo chốn siêu thăng non bồng.

Cầu cho lánh khỏi trần hồng,

Nương theo cỏi Phật chín từng liên hoa.

(đọc 3 lần, 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

4.8 LỄ CẦU LINH HỒN

- CHÚ CẦU LINH HỒN

Nam mô Bát Bộ Hộ Pháp tẩy trừ ngạ quỷ chi lộ.

Nam mô Thập Điện Từ Vương thường hành bình đẳng.

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát tiếp dẫn vong hồn tảo đắc siêu thăng, bất nhập địa phủ chi u quang.

Tận độ chúng sanh bất vãng u minh chi giải cảnh.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH CẦU LINH HỒN

Nguyền Ngọc Đế Huyền Khung tế độ,

Cầu Tây Phương Phật Tổ từ bi;

Đức ông Thái Thượng giải nguy,

Cứu người bệnh ngặt gặp khi tai nàn.

Khỏi hành xác nhẹ nhàng thân thể,

Lúc lâm chung mau dễ xuất thần;

Nương mây lìa chốn hồng trần,

Trở về cõi thọ hưởng phần tiêu diêu.

Vọng Địa Tạng độ siêu đọa lạc,

Cầu Âm Tào Đông Nhạc giảm hình;

Giác linh tỉnh ngộ tiền trình,

Bớt cơn mê muội, giật mình trở trăn.

Mong Tam Giáo bủa giăng âm đức,

Trợ vong hồn thêm sức thiêng liêng;

Tỉnh lòng nhớ Phật, tưởng Tiên,

Lánh nơi khổ hải tìm miền Thiên Thai.

Kìa trước mắt Kim Đài cửa Phật,

Rước những người thành thật, thiện lương;

Phước Thần cầm phướn dẫn đường,

Khá mau theo dõi Tây Phương kịp giờ.

(cắm phía trên đầu tử thi 1 cây đèn cầy rồi đọc bài)

4.9 LỄ ĐƯA LINH HỒN

- KINH ĐƯA LINH HỒN (Số 1)

Linh quang lìa khỏi chốn trần gian,

Cúi lạy Di Đà Phật cứu nàn.

Tiến dẫn linh hồn về tịnh độ,

Dắt dìu phách uế lại Tây Phang.

Độ người ám muội xa âm cảnh,

Rước kẻ nhơn từ đến Niết Bàn.

Bốn tám nguyền xưa ân đức cả,

Hộ trì u hiển đặng thân an./.

- KINH ĐƯA LINH HỒN (Số 2)

Lòng thành kỉnh môn sanh khấu bái,

Nhờ Ơn Trên hà hải độ nàn;

Nam mô Thượng Đế Ngọc Hoàng,

Nam mô Phật Tổ Tây Phang chứng lòng.

Mong Thái Thượng Đức Ông độ dẫn,

Cầu Kim Tinh đoái phận ngu phàm;

Nam mô Nam Hải Quan Âm,

Từ bi cứu khổ ân thâm muôn đời.

Quan Thánh Đế lắm lời khuyến dạy,

Khuyên làm lành nhơn ngãi vẹn tròn;

Nam mô chư Phật, chư Tôn,

Cứu người trần khổ, đang cơn mê mờ.

Nguyện xác khỏi hành hà khổ cực,

Cầu lâm chung hồn xuất dễ dàng;

Từ đây lìa khỏi trần gian,

Nương mây theo gió nhẹ nhàng phi thăng.

Mãn kiếp đọa trầm luân khổ hải,

Nơi ngôi xưa trở lại tiêu diêu;

Mong ơn Địa Tạng độ siêu,

Âm Tào Đông Nhạc giảm tiêu tội hình.

Kìa Bạch Ngọc rộng thinh cửa mở,

Chờ rước người sạch nợ luân hồi;

Cầu xin hồn đặng nhẹ khơi,

Phướn thần theo dõi đến nơi Phật đường.

(Vị chứng đàn tay bưng chén nước, tay cầm bông nhún vào chén nước và rãy vào thây người gần dứt hơi miệng đọc chú).

4.10 LỄ TẨY TRẦN THI

- CHÚ TẨY TRẦN THI

( lúc gần dứt hơi)

Thử thời tịnh tẩy trần ai (giữa)

Phước lộc hựu trùng lai (trái)

Hồn du Tiên cảnh (phải)

Thế tục bất quày

Trực vãng Thiên Thai

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

Tiếp dẫn Phật Đài, tiêu diêu khoái lạc

Tận khử trần ai

Tảo đắc siêu thăng tịnh độ

Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát

Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.

- KINH TẨY TRẦN THI

( Khi tuyệt khí)

Trái oan nay đã an bài,

Linh hồn nương chốn Phật Đài lo tu.

Cũng nhờ một lúc công phu,

Nay về ở chốn non du hưởng nhàn.

Hồn ra xác tục hân hoan,

Nương theo câu kệ, tầm đàng Phật bang.

Lưỡng biên Thổ Địa Thành Hoàng,

Khử tà trục quỉ dẹp đàng cho qua.

Tới lui đôi bực Tỳ Bà,

Nhớ chừng Tiên cảnh là nhà thuở xưa.

Trầm luân cuộc thế khuyên chừa,

Huỳnh Định tụng niệm, Phật đưa trở về.

Tường Vân bạch hạc giao kề,

Sơn đầu, Tòng Bá cỏ huê đượm nhuần.

Tràng Phang, Bảo Cái tay nưng,

Tây Phương nương gió, trông trừng ruỗi dung.

Có câu: Thiện nguyện, Thiên tùng,

Trầm luân lánh khỏi, thung dung Phật Đài.

4.11 LỄ SƠ CHUNG THÔNG SỰ

(Lễ này trước bàn Thầy)

- LỜI CẦU NGUYỆN

Hôm nay, ngày…tháng…năm…tại gia đình nầy vị……..vừa từ trần vào lúc……giờ. Đệ tử chức việc………nam nữ vâng lệnh Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và Hội Thánh hướng dẫn lễ, nhạc, đồng nhi đến làm lễ cúng tế cầu siêu.

Khẩn nguyện Ơn trên Đức Đại Từ Phụ, Đức Đại Từ Mẫu, các Đấng Thiêng Liêng, Địa Tạng Vương Bồ Tát, (Thất Nương Diêu trì Cung. Nếu người chết là phái nữ) cứu hộ vong hồn vị được siêu thăng tịnh độ.

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

-Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

SỚ SƠ CHUNG THÔNG SỰ

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

SỚ VI

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kim hửu đệ tử thọ Thiên ân ………………. hiệp giữ chư tín đồ nam nữ đại tiểu đẳng. Đoái lãnh hiếu quyến ………………….quỳ tại Thiên Bàn thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Đại Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Tá Châu Quảng Pháp Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Đông Nhạc Đế Quân Khoan Hồng Độ Chúng Thiên Tôn.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát Từ Bi Độ Chúng Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

TỊNH THỈNH

Chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần Kim liên tọa hạ.

Khẩn cầu Từ bi thi ân xá tội vong hồn thọ Thiên ân:……… ……… Thế danh:……………… Tử ư ……… niên …… ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng ……….tuế.

Sanh tại tự sanh dĩ lai, sanh tử luân hồi tạo tội thậm trọng, duyên ngộ Đại Đại Tam Kỳ Phổ Độ. Đầu nhập thọ trì quy giái vi năng tinh nghiêm, công quả dĩ lập, bất hạnh ư niên …… ngoạt …… nhựt …… thời khí thế liễu đạo, tội quá đa đoan, thiệt nan phóng cử, thử nhật vận vong, phòng nguy chi hửu trở, nghiêm thiết trai đàn văn tuyên trình tấu.

Đại Từ Phụ quảng đại từ bi ân xá nhứt thiết tội nghiệt khẩn cầu nhứt linh chơn tánh, thị xuất khổ hải, âm lý gia tu, không trung cảm ứng phò trì đại đạo, duyên mãn đồng phó. Thăng hướng cực lạc, chi quốc vĩnh chứng, Bồ đề đạo quả.

Hiếu quyến (tên họ chủ tang………………………..….….) thành tâm khẩn cầu, Ai tấu. Bá bái,

Thượng sớ.

- KINH SƠ CHUNG THÔNG SỰ

Sơ chung sự quỳ tâu trước bệ,

Vọng Huyền Khung Thượng Đế giác tri;

Tên …… dĩ thác trần thi,

Ngưỡng cầu Thượng Đế từ bi độ hồn.

Người sống có dập dồn tội lỗi,

Đã ăn năn sám hối hồi đầu;

Tam Kỳ Thầy mở Đạo mầu,

Sắp mình vào cửa thỉnh cầu kệ kinh.

Cầu ân đức rộng thinh bủa khắp,

Đại từ bi khỏa lấp tội tình;

Độ hồn sửa tánh anh linh,

Về miền cực lạc kệ kinh hưởng nhàn.

Mong Tam Giáo độ nàn cứu thế,

Chứng môn sanh bài lễ khẩn cầu;

Điện tiền quỳ bái khải tâu,

Cho hồn đắc quả chực chầu Linh Tiêu.

Hồn nhờ đặng tiêu diêu tự toại,

Khỏi lộn quanh khổ hải trần gian;

Bồng Lai Tiên Cảnh ở an,

Bồ đề diệu quả Niết Bàn tu thân./.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

4.12. LỄ PHẠT MỘC

(Lấy cái rìu hay cái búa, bịch vải hay giấy đỏ nơi lưỡi và một khai trầu rượu để trước đầu hòm vái Sơn Lâm. Khi đọc mỗi câu chú váy một cái).

- CHÚ PHẠT MỘC

Án mộc lang viễn khứ tha phương.

Nhứt trảm mộc, mộc qui sơn hải.

Nhì trảm mộc, viễn khứ tha phương.

Tam trảm mộc, tang chủ an khương.

Trai chủ phước lộc vô cương.

(rồi liệng cái rìu ra ngoài sân)

4.13. LỄ TẨN LIỆM

(Vị chứng sự đứng ngay đầu người chết cầm 3 cây nhang rồi đọc bài chú Nhập Mạch)

- CHÚ NHẬP MẠCH

Bế trứ phàm nhãn không sắc tướng,

Phóng xuất huê quang lưỡng đường đường.

Thân sự phù sanh vô thính sự,

Cáo bộ côn lôn đảnh thượng hành.

Huyền tỏa thiết pháp kinh Thiên Địa,

Hồng danh bửu diệu xuất trùng dương.

Thoát xác hồn nhiên vô ma chướng,

Minh tâm kiến tánh phóng kim quang.

Thử chiếm thái vô phục nguơn thủy,

Túc đạp liên hoa kiến tổ nương.

- CHÚ PHỔ AM

Thiên giả khai, địa giải khai,

Lão Mẫu phát hạ, Phổ Am hạ thế lai.

Phổ Am tam tổ chưởng,

Phát nguyện thiên nhiên chư Phật.

Tùy hậu lai, nhị thập tứ khí,

Án Thiên Địa, Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu.

Trấn Càn Khôn; Thiên vô kỵ,

Địa vô kỵ, Âm Dương vô kỵ.

Bá vô cấm kỵ,

Phổ Am Tam đồ tại thử, chư sát viễn tỵ.


- CHÚ

Nhứt điểm càn khôn đại,

Hoành trung nhựt nguyệt trường.

Phổ am thấu đáo thử,

Thần sát vãng tha phương.

- LỜI CẦU NGUYỆN

(trước khi đọc kinh tẩn liệm)

Hôm nay đến ngày giờ khâm liệm đem xác của (hiền huynh) (hiền tỷ) vào quan tài cho ấm áp.

Chúng tôi cầu nguyện Ơn Trên Đức Đại Từ Phụ, Đức Đại Từ Mẫu các Đấng Thiêng Liêng ban ơn lành cho (hiền huynh) (hiền tỷ) được siêu thăng tịnh độ, hồn xuất xác khỏi xác nhẹ nhàng linh diệu.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH TẨN LIỆM (bài 1)

Thân phàm xác đến kỳ hư hoại,

Hồn linh thiêng trở lại Ngọc Kinh;

Nhẹ nhàng Tiên thể thượng trình,

Giải xong xác thịt, tượng hình Chí Tôn.

Tạo linh đài bảo tồn xương cốt,

Dựng tinh thần làm hột Minh Châu;

Sáng soi hai chữ Đạo mầu,

Nhờ công tu niệm luyện câu phép lành.

Nay xác này đã thành vô dụng,

Vào Liên Đài cung phụng lễ dưng;

Hồn về Bạch Ngọc vui mừng,

Lâu lâu trở lại, nhắc chừng đoàn em.

- KINH TẨN LIỆM (bài 2)

Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ,

Nương huyền linh sạch giủ thất tình;

Càn Khôn bước Thánh thượng trình,

Giải xong xác thịt mượn hình Chí Tôn.

Khối vật chất vô hồn viết tử.

Đất biến hình tự thử qui căn;

Đứng gìn thân ái nghĩa nhân,

Xôn xao thoát khổ, xa lần bến mê.

Hồn Trời hóa, trở về Tiên cảnh,

Xác Đất sanh, đến lịnh phục hồi;

Từ từ cực lạc an vui,

Lánh nơi trược khí, hưởng mùi siêu thăng.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- LỜI CẦU NGUYỆN THỈNH PHỦ QUAN

ĐẤP LÊN QUAN TÀI

Hôm nay đến giờ đấp tấm phủ quan lên quan tài của vị……………………đệ tử khẩn nguyện Ơn Trên Đức Đại Từ Phụ, Đức Đại Từ Mẫu ban phép lành cho tấm phủ quan đầy đủ pháp linh nhờ huyền diệu của Đức Chí Tôn giữ gìn con cái của Thầy cho đến khi đi an táng nơi lòng đất mẹ.

Và cầu nguyện Đức Đại Từ Phụ ban ơn lành cho phướn linh để dìu dắt linh hồn của vị……………………………Đến nơi an ngự cho tròn quả viên.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )\

4.14. LỄ THÀNH PHỤC

(Đạo hữu và Chủ tang quỳ tại Thiên bàn, vị chứng sự cầm 5 cây hương rồi nguyện như vầy.)

- LỜI LẬP NGUYỆN THÀNH PHỤC

Nam mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Kiêm Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, chứng minh cho gia quyến của (chủ tang………) cư tang thọ chế, dĩ báo thâm ân.

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- SỚ THÀNH PHỤC

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kiêm vỉ tang sự đạo hữu (tên họ ……) khí thế liễu đạo, kiêm hữu hiếu quyến đại tiểu đẳng ……………. nghiêm thiết đàng tràng hương, đăng, trà, tửu, hoa, quả chi nghi. Hiến cúng thọ phục chi lễ.

Kiêm hữu đệ tử Thiên phong Chức sắc …….… hiệp giữ nội gia quỳ tại án tiền thân văn trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Lực Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Gia Tô Giáo Chủ Khoan Hồng Ngoại Độ Từ Bi Cứu Thế Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Tá Châu Quảng Pháp Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Đông Nhạc Đế Quân Khoan Hồng Độ Chúng Thiên Tôn

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát Từ Bi Độ Chúng Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

TỊNH THỈNH

Chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần quá khứ hiện tại chứng vị Thiên Tôn liên đài chi hạ. Chứng minh hiếu quyến hiệp đẳng. Khẩn cầu từ bi bạt độ

vong hồn thọ Thiên ân: ….… Thế danh: ….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng …….tuế.

Ngưỡng cầu tiếp độ vong hồn siêu xuất khổ hải miễn nhập luân hồi vĩnh hưởng tiêu diêu thắng cảnh, Thiên cung chi phước, hiếu quyến đồng đẳng thọ phục tang, thành tâm khấu bái

Thượng sớ vĩ văn.

Tâm niệm:

-Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(3 lạy, mỗi lạy 4 gật)

 4.15 LỄ CÁO TỪ TỔ THỌ TANG

(Bưng mâm tang phục để ngay bàn thờ ông bà).

Xướng:

Hiếu tử tựu vụ, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương.

Xướng:

-Thượng hương, lê tứ bái, quỳ, hiến tửu.

*Lời cầu nguyện cúng cáo Từ Tổ thọ tang:

Hôm nay, ngày … tháng…năm (cha) (mẹ) của chúng con đã quy vị, chúng con xin dâng lễ vật cúng trình lên Cửu Huyền Thất Tổ cho phép chúng con được thọ tang báo hiếu cho (cha) (mẹ). ……………..Cầu xin Cửu Huyền Thất Tổ ban ân lành cho chúng con để làm tròn câu hiếu đạo.

- KINH CÁO TỪ TỔ THỌ TANG

Đầu cúi lạy Tiên linh chứng chiếu,

Cho cháu con đoái hiếu cư tang;

Tưởng tình cốt nhục khóc than,

Noi theo cổ lễ thọ tang đền bồi.

Ơn dưỡng dục tam niên nhũ bộ,

Công nhọc nhằn chín tháng cưu mang;

Tửu trà văn cáo nghiêm trang,

Ông bà, cô bác chứng an lễ trình.

Thảo ngay cho vẹn phân minh,

Đạo làm con thảo đáp tình cù lao.

Tấm lòng hiếu tử đừng xao,

Sắt son để dạ không nao nhọc nhành.

Hương hoa kỉnh cáo lòng thành,

Ông bà chứng chiếu lễ thành thọ tang.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- BÀI CÚNG TỪ TỔ

Nhơn sanh Thiên số chi kỳ,

Người sau kể trước đồng quy một đàng.

Mãn căn trở lại Tây Phang,

Tiêu diêu khoái lạc tránh đàng mê tân.

Hôm nay (tên họ) ………. quy Thần,

Là ngày rảnh nợ hồng trần vu Tiên.

Cúi xin Thất Tổ Cửu Huyền,

Thương lòng con thảo cháu hiền thọ tang.

Quả huê điện hiến linh sàng,

Tiên linh chiếu cố tọa bàn chứng minh.

Lễ xin đái hiếu cung trình,

Có linh xin hưỡng chút tình thảo thân.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

(Rồi bưng mâm tang phục để ngay linh cửu).

- LỜI CẦU NGUYỆN ĐẤT ĐAI VIÊN TRẠCH (trước khi làm lễ phát tang tại ngay linh cửu)

Hôm nay đến ngày giờ khâm liệm đem xác của (hiền huynh) (hiền tỷ) vào quan tài cho ấm áp.

Chúng tôi cầu nguyện Ơn Trên Đức Đại Từ Phụ, Đức Đại Từ Mẫu các Đấng Thiêng Liêng ban ơn lành cho (hiền huynh) (hiền tỷ) được siêu thăng tịnh độ, hồn xuất xác khỏi xác nhẹ nhàng linh diệu.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

4.16 LỄ THÀNH PHỤC PHÁT TANG

Xướng:

Tử Tôn tự vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ.

- KINH THÀNH PHỤC PHÁT TANG

Noi theo văn lễ hiến dưng,

Lòng thành rượu rót ba tuần mời khuyên.

Giờ nay cởi hạc du Tiên,

Gia đàng quyến thuộc lòng thiền quái tang.

Âm dương phân cách đôi đàng,

Kẻ còn người mất muôn ngàn lụy rơi.

Trăm năm trong cuộc đổi dời,

Thiều quang vội dứt người đời khôn toan.

Khó phân trong máy hành tàng,

Bơ vơ chích nhạn rẽ hàng kêu sương.

Từ đây Thiên các nhứt phương,

Âm dương vị lộ hai đường khó trông.

Linh hồn nguyện đến non bồng,

Tiêu diêu khoái lạc thoát vòng trần ai.

Tử sanh cổ vãng kim lai,

Dương gian là cảnh Tiên đài là quê.

Mãn căn đúng số lộn về,

Trả vay rảnh nợ an bề tầm Tiên.

Lễ nghi kỉnh bái án tiền,

Chứng minh gia quyến lòng thiền thọ tang.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU (bài 1)

Rượu tuần nhứt châm đầy dưng trước,

Nguyên hương hồn ẩm phước cho vui.

Xin chứng lòng con thảo ngậm ngùi,

Đau dạ trẻ sụt sùi giọt lụy.

Đơn sơ lễ trọn niềm chung thủy

Sự mất còn thờ ví cũng đồng

Ba năm tang hiếu vẹn xong

Chúc cầu (từ mẫu, thân phụ..) non bồng tiêu diêu.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU (bài 2)

Rượu nhị tuần rót đày dâng tiếp,

Con rễ dâu đồng hiệp lạy quỳ.

Ơn sanh thành, ơn ví cao dày,

Nghĩa dưỡng dục nghĩa tài lớn rộng.

Kìa chín chữ cù lao lồng lộng,

Nọ mười ơn dưỡng dục minh minh.

Biết chi bồi đắp vong linh,

Tạm dùng lễ bạc chứng tình thảo ngay.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU (bài 3)

Rượu nầy lễ ba tuần xin rót,

Cúi lạy quì đôi giọt dầm sa.

Phế tâm bào, gan ruột xót xa,

Đoạn cốt nhục chia ra hai ngả.

Dạy gia quyến thượng hòa hạ lục,

Lễ mọn nầy nhứt nhứt sánh sô,

Chúc cầu khỏi chốn phong đô,

Được lên cỏi Phật để hầu nghe kinh./,

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, tấn phạn, kiểm soạn.

- KINH TẤN PHẠN

Lễ tấn phạn chứng lòng ngay thảo,

Dưới gối dưng trọn đạo làm con.

Công sanh thành báo bổ cho tròn,

Tình cốt nhục nước non khó sánh.

Nay (cha, mẹ….) đã cõi trần xa lánh,

Nơi gia đàng hiu quạnh sớm khuya.

Vô thường sau vội chia lìa,

Làm cho người thiện phải về đế hương.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà.

- KINH DÂNG TRÀ

Trà Bạch Liên hơi lên thơm nức,

Xin tạm dùng lễ tất vừa xong.

Nguyện linh hồn phát hóa non bồng,

Nương cõi Phật, tu công lập quả.

Miền Tiên cảnh thật là phong nhã,

Bước từng mây thông thả sớm trưa.

Phật Tiên là chổ thích ưa,

Lánh miền phàm tục gió mưa bụi trần.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, ngũ phục chi nhơn các phục kỳ phục.

- CHÚ NGUYỆN

Nam mô Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Vạn Thiên Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.

Lời dặn: Sắm một tô nước, 1 cái bông và 1 cây kéo, đọc tới cầu nhứt tiễn thì hớt trên đầu tang chủ một cái và nhúng bông vào nước rải một cái.

- CHÚ PHÁT TANG

Sắc thần thủy cấm linh đinh,

Cường giác ngưu tinh hiệp vị khí,

Phân minh thọ kỳ tang phục,

Nhứt tiễn phát thọ kỳ tang phuc,

Chư hung thần tống khứ tha phương.

Nhì tiễn phát thọ kỳ tang phuc,

Vong hồn siêu thăng tịnh độ.

Tam tiễn phát thọ kỳ tang phuc,

Trai chủ thiên thu thọ vạn vạn tuế.

Xướng:

-Lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

4.17 LỄ TRÌNH ĐIẾU TANG

(Lễ nầy nơi bàn Thầy)

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

- KINH CẦU SIÊU

Nay đệ tử lòng thành khấu bái,

Vọng Hoàng Thiên quảng đại từ bi.

Ân đức oai thâm diệu huyền vi,

Chúa nhơn vật chiếu tri tam giái.

***

Trên bố đức bốn phương khắp rãi,

Dưới muôn loài quỳ lại ngưỡng trông.

Thức lòng phàm đặng rõ phép công,

Đường sanh tử việc đồng hữu mạng.

***

Cuộc huyển thể đến hồi khổ nạn,

Đấng Thượng Khung xử đoán phân minh.

Vớt vong linh nơi chốn u minh,

Tiếp duyên phước đăng trình cõi thọ.

***

Cho gặp gỡ lục thân thuở nọ,

Quyến luyến tình, chẳng bỏ lòng thương.

Nhờ Ơn Trên giúp kẻ trần dương,

Mau thức tỉnh ăn năn lỗi trước.

***

Thuyền Bát Nhã kỳ ba độ rước,

Tưởng Phật Trời lần bước hồi đầu.

Nhờ ơn lành giải hoá tâm sầu,

Đặng sớm biết đảo cầu Trời Phật.

***

Lòng lương thiện noi đường chánh thật,

Khỏi vương mang bệnh tật vào mình.

Mong từ bi quảng đại hiển linh,

Độ kẻ mới tách mình lìa xác.

***

Nương yến sáng hào quang thông đạt,

Soi tỏ tường lờ lạt âm ty.

Thoát khỏi nơi hầm tối hiểm nguy,

Tùng, Tiên, Phật thung dung khoái lạc.

***

Dạ thành kỉnh Thần Minh chiếu tạc

Hộ thân tâm an lạc hòa bình.

(Lễ nầy nơi Linh cửu)

- KỆ ĐIẾU TANG

Nay đệ tử thúc tu lễ điếu,

Cầu đạo (huynh, tỷ….) thoát xác phi đằng.

Vong hồn trong sạch đặng siêu thăng,

Vĩnh hưởng tiêu diêu nơi thắng cảnh.

- KINH ĐIẾU TANG (bài 1)

Nợ trần thế ngày nay đã rảnh,

Nương mây lành lên cảnh Thiên Thai;

Là nơi hưởng lộc lâu dài,

Lánh vòng thế tục sắc tài ái ân.

Công phu khuya sớm ân cần,

Hồn linh mới đặng về gần non Tiên.

Khi xưa gặp đặng chơn truyền,

Nay về chầu trực Phật tiền khỏe thân.

Giờ này Đạo hữu quy Thần,

Anh em bậu bạn bội phần mừng thương.

Mừng là thấy cõi Tây Phương,

Thương là đương lúc giữa đường rẽ phân.

Tuy rằng chẳng phải đồng thân,

Cùng nhau đồng đạo nghĩa nhân mặn nồng.

Tử sanh do tại Thiên công,

Những ngày vắng mặt bận lòng nhớ thương.

Tạm dùng lễ mọn rau tương,

Thô trà đạm bạc lòng thương chứng cùng.

Giữ bền hai chữ thủy chung,

Ngày sau Tiên cảnh trùng phùng đệ huynh.

- KINH ĐIẾU TANG (bài 2)

Nương cõi thọ hương hồn lìa thế,

Trước linh sàn phách quế hãy còn.

Nơi dạ đày chứng kiến lòng son,

Cõi trần thế bà con thân tiếc.

***

Xa nhau bởi xác phàm phân biệt,

Nghĩa cuộc đời tan hiệp thảm thay.

Nay từ trần hồn phách nương mây,

Khỏi ràng buộc muôn cay ngàn đắng.

***

Người trở gót cung Tiên dậm thẳng,

Hết vương mang gánh nặng nợ trần.

Cách dương gian lìa cõi hương lân,

Nơi vị lộ dựa gần Tiên cảnh.

***

Đặng thong thả dạo chơi non đãnh.

Mắt nhắm xem tranh cạnh dưới đời.

Ấy là nơi biển khổ chơi vơi,

Người ở thế lỡ vời nẽo tối.

***

Linh hồn đặng thảnh thơi tiêu rỗi,

Kẻ sống đang lặn lội bụi trần.

Cũng vì còn mang khối nhục thân,

Dường như thể trăm cân sức nặng.

***

Miền tiên cảnh vong hồn bay thẳng,

Dứt sự đời dạ chẳng mến tranh.

Cuộc sang giàu giả dối lợi danh,

Người phàm tục chen giành rộn rực.

***

Chốn âm cảnh xa nhau cách bứt,

Sống dương gian càng cực với đời.

Một may dầu phủi sạch thảnh thơi,

Hiệp một chỗ gặp nơi khoái lạc.

***

Tâm quảng đại tầm Tiên cởi hạc,

Xá lỗi người lầm lạc khi xưa.

Vọng anh linh độ kẻ mến ưa

Lòng thành kỉnh muối dưa xin chứng.

(Nếu người lớn tuổi thì đạo hữu lạy 4 lạy, 2 lạy Thiên và Địa, 2 lạy vong linh. Chức sắc và Thiên phong khỏi lạy).

4.19 LỄ CÚNG ÔNG BÀ

THIẾT ĐÀN

Xướng:

Từ tôn tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương.

Xướng:

Thượng hương, lễ tứ bái, quỳ.

- KINH CÚNG TIÊN LINH

Nay con cháu đền ơn sanh dục,

(Triêu, tịch

Cù lao ân đức nan thù,

Lễ dưng tổ phẩm điện du linh tòa.

Đồng kỉnh cáo ông bà, cô bác,

Chứng chút tình đạm bạc thô sơ.

Trăm năm giữ việc phượng thờ,

Ngày đêm hương lửa chớ lơ lảng lòng.

Cuộc trần thế tròn xong mạc trắc,

Lễ hiển u, nam bắc phân kỳ.

Tuy rằng hai ngã biệt ly,

Chơn linh sau cũng hội kỳ Linh Tiêu.

Tu công đức kỳ siêu Thất Tổ,

Cầu Từ Bi tế độ Cửu Huyền.

Người mà thiện quả thiện duyên,

Muôn năm dựa cảnh Phật Tiên hưởng nhàn.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

Xướng:

Tang chủ tựu vị, quỳ, phần hương, nguyện hương.

4.20 LỄ CÚNG VONG

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ

- KINH CÚNG VONG (Bài 1)

Tưởng ơn xưa sánh tài non nước,

Tủi lòng nầy lụy ước y khâm;

Đạo làm hiếu tử tình thâm.

Sớm thăm tối viếng ngọc âm cho mừng.

Công cao dưỡng dục khuyết trừng,

Dạy con vẹn giữ ngũ thường, tam cang.

Nhớ khi ngồi đứng trung đàng,

Nay về cõi thọ gan vàng quặn đau.

Âm dương lưỡng lộ chia nhau,

Chúc nguyền đặng hưởng thanh cao an nhàn.

Tửu trà hoa quả bỉ bàn,

Lễ dưng (Thân Phụ, Từ Mẫu…) đoan trang nghiêm nghì.

Đạo nhơn sắp đặt lễ nghi,

Cầu hồn phát hóa du quy Thiên đàng.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU(1)

Rượu tuần nhứt châm đầy dưng trước,

Nguyên hương hồn ẩm phước cho vui.

Xin chứng lòng con thảo ngậm ngùi,

Đau dạ trẻ sụt sùi giọt lụy.

Đơn sơ lễ trọn niềm chung thủy

Sự mất còn thơ ví cũng đồng

Ba năm tang hiếu vẹn xong

Chúc cầu (từ mẫu, thân phụ) non bồng tiêu diêu.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

- KINH CÚNG VONG (bài 2)

Nay tang chủ trai đàn cung phụng,

Thỉnh đạo nhơn tùy tụng hiền ngôn.

Hể làm người phải kính sở tôn,

Ơn cúc dục ôn tồn trọn Đạo.

Nguyện Trời Đất chứng tri môn đạo,

Hộ hương hồn thủ bảo cháu con.

Nghĩa sanh thành ví tợ nước non,

Tình (Phụ tử, Mẫu tử…) cho tròn đạo cả.

Nay phân nhau âm dương hai ngã,

Thảm thương này nào thỏa ruột đau.

Cõi dương trần lời hẹn với nhau,

Vì ai khiến mà mau vội tách.

Dây oan trái dứt rồi trả sạch,

Phủi nợ trần hồn phách theo Tiên,

Giữ Đạo mầu nhờ đức Thiêng Liêng,

Nhờ Địa Tạng tự nhiên tế bạc.

Lòng thành kỉnh ba tuần rượu lạt,

Lễ đáp dưng đạm bạc muối dưa.

Nay ơn đền báo bổ tình xưa,

Đầu cúi lạy như mưa dầm ướt.

Nghĩa (sanh thành..) sánh tài non nước,

Tình (Phụ tử, Mẫu tử) những ước trăm năm.

Hởi hóa công tôi dám hỏi thăm,

Vì sao vậy, tích tâm vắng bặt.

Ân ái nguyên, trọn tình đinh sắt,

Chia đôi đàng như cắt lá gan.

Xin hương hồn dặm thẳng cho an,

Nương cõi thọ sửa sang tu luyện.

Xướng:

`Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU(2)

Rượu nhị tuần rót đầy dưng tiếp,

Con rễ dâu đồng hiệp lại quỳ.

Ơn sanh thành, ơn ví cao dày,

Nghĩa dưỡng dục nghĩa tài rất lớn.

Kìa chín chữ cù lao lồng lộng,

Nọ mười ơn dưỡng dục minh minh.

Biết chi bồi đắp vong linh,

Tạm dùng lễ bạc chứng tình thảo ngay./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

KINH CÚNG VONG (bài 3)

Nơi biển khổ tưng bừng sóng bủa,

Chốn kỳ duyên mây tủa mịt mù;

Người đời mấy bực danh nhu,

Vô thường đến lúc công phu lỡ vời.

Đường tử biệt ngàn năm khó đợi,

Nguyện linh hồn trở lại non Tiên;

Nhìn xem linh cửu thêm phiền,

Thương người mạng bạc huỳnh tuyền vội lui.

Cuộc sống thác nghĩ càng thêm tủi,

Nẻo mất còn chạnh buổi phù sanh;

Khó đo máy tạo dữ lành,

Âm dương cách biệt khôn đành lấp ngơ.

Nhớ linh xưa tánh tình ăn ở,

Dưới trên hòa tôi tớ đồng thương.

Hiền lành ngợi khắp thôn lương,

Dưới dìu kẻ khó trên nhường người cao.

Lúc ở thế xử tròn nhơn đạo,

Nay từ trần thiện bảo cựu ngôi;

Thương ôi! Nước chảy hoa trôi,

Sao dời vật đổi mấy hồi tang thương.

Người ở thế như cơn sống lượng,

Kẻ lâm trần mường tượng ngút sương;

Kể sao cho xiết đoạn trường,

Ngựa qua cửa sổ hai đường biệt ly.

Thảm thiết than, than rồi lại nghĩ,

Giấc mộng hồn cũng tỷ vân phi;

Có câu thố tử hồ bi,

Vật còn thương loại huống gì người yêu.

Khuyên đoái tưởng …… hiền con hiếu,

Lễ tiễn hành đa thiểu xin thương;

Tạm dùng dưa muối rau tương,

Trà thô rượu lạt lòng thương chứng cùng.

Lần tay tính ngày qua tháng lụng,

Ôi thôi rồi! một cụm khói chang;

Nổi vắng mặt khó làm khuây lãng,

Biết cậy ai phân đoán hỏi han;

Hôm nay hội diện thân bằng,

E mai linh cửu lên đường hết trông.

Tử sanh nhơn nghĩa việc đồng,

Hồn linh thăm viếng dặn lòng chớ quên./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU(3)

Rượu nầy lễ ba tuần xin rót,

Cúi lạy quì đôi giọt dầm sa.

Phế tâm bào, gan ruột xót xa,

Đoạn cốt nhục chia ra hai ngả.

Dạy gia quyến thượng hòa hạ lục,

Lễ mọn nầy nhứt nhứt sánh sô,

Chúc cầu khỏi chốn phong đô,

Được lên cỏi Phật để hầu nghe kinh.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, tấn phạn, kiểm soạn.

KINH TẤN PHẠN

Lễ tấn phạn chứng lòng ngay thảo,

Dưới gối dưng trọn đạo làm con.

Công sanh thành báo bổ cho tròn,

Tình cốt nhục nước non khó sánh.

Nay (cha, mẹ….) đã cõi trần xa lánh,

Nơi gia đàng hiu quạnh sớm khuya.

Vô thường sau vội chia lìa,

Làm cho người thiện phải về đế hương.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà.

KINH DÂNG TRÀ

Trà Bạch Liên hơi lên thơm nức,

Xin tạm dùng lễ tất vừa xong.

Nguyện linh hồn phát hóa non bồng,

Nương cõi Phật, tu công lập quả.

Miền Tiên cảnh thật là phong nhã,

Bước từng mây thông thả sớm trưa.

Phật Tiên là chổ thích ưa,

Lánh miền phàm tục gió mưa bụi trần.

Xướng:

Lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

4.21 LỄ THIẾT ĐÀN TỤNG KINH

KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

KINH THỈNH PHẬT THÁNH TIÊN

Trên Phât Tổ từ bi chiếu giám,

Dưới Thần Tiên linh cảm chứng tri.

Ngày nay mở cuộc siêu kỳ,

Cầu cho (tên họ……...) hồn phi Thiên đàng.

Nguyện cùng Phật Tổ tây phang,

Quan Âm BồTát tràng phan giáng liền.

Cúi xin Hộ Pháp Luôn Thiên,

Đằng vân giá võ xuống miền trần gian.

Từ bi ủng hộ trai đàn,

Giúp cho tang chủ bảo toàn hiếu trung.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KỆ KHAI CHUNG

Chung thinh đổng khấu u minh quang,

Tỉnh ngộ nhơn sanh hiệp nhứt đàng.

Sám hối hồi đầu qui chánh giáo,

Cao Đài Chúa Tể độ hồng khoan.

(Mỗi câu đọc xong đánh 3 tiếng, 4 câu là 12 tiếng).

KỆ KHAI MỎ

Nam mô án mộc ngư, tẩy trừ ngạ quỉ bất đáo điện trung. Đệ thanh mộc đáo hồi cung thượng.

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(Niệm danh Thầy 3 lần, mỗi lần đọc xong đánh 3 tiếng, 3 lần niệm là 9 tiếng).

SỚ KHAI KINH

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

SỚ DĨ

Tiên thánh lợi sanh, tam thừa ái khải, chánh hội pháp dương, độ tử vi bằng, nhứt trụ tâm lương.

PHỤC DĨ

Đông phương Giáo chủ hoằng khai giải thoát chi môn. Tây trước đạo sư tiếp dẫn vong hồn vãng sanh chi lộ.

TRÌNH TẤU

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

SỚ VI

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi trung, cư trụ.

Phật Tu hương thiết cúng phúng kinh kỳ siêu sự.

Kim tang chủ:…

CUNG CANG

Đại giác năng nhơn phủ thừa tiếp độ vong hồn thọ Thiên ân: ….… Thế danh: ….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng …….tuế.

Ô Hô!

Nhứt tức bất hồi thiên thu vĩnh biệt, tội phước hà kỳ, thăng trầm vị biện, dụng thân báo bổ kỳ trợ vãng sang chi lộ. Tư giả kim ngoạt thị nhựt kỳ siêu (tuần mấy…….) chi tuần, Kim ngôn gia trì mật ngữ kỳ sanh tịnh độ. Kim tắc đạo tràng, trai đàn sơ khải viễn tịnh sớ văn, nhựt hàm hòa nam khấu bái.

TẤU

Nam mô Trung Thiên Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật chứng minh, kim liên tọa hạ.

VIÊN PHƯỢNG

Bát Bộ Hộ Pháp Long Thiên Thập Điện Từ Vương Đại huyền Chơn tể thượng trung hạ giái nhứt thiết thần kỳ. Thổ địa đồng hâm hiến hưởng chi nghi, tiếp dẫn vong hồn vãng sanh chi lộ.

Phục nguyện vong hồn tảo đắc siêu thăng bất nhấp Địa phủ chi u quang, tảo đăng tịnh độ.

Ngưỡng du chư Phật cảm ứng chứng minh

CẨN SỚ

Tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hữu đệ tử hiệp giữtang chủ thành tâm khấu bái.

Thượng sớ./.

CHÚ DIỆT TỘI

Thất Phật diệt tội chơn ngôn:

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, bồ đề tát ta bà ha. (đọc 3 lần)

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

 

KINH CẦU SIÊU (Bài 1)

Kim đệ tử điện tiền khẩn đảo,

Nguyện linh hồn huờn đáo Thiên Đường;

Huyền Khung chứng chiếu trần dương,

Thành tâm phục nguyện tận tường trai tăng.

Tang chủ nguyện lập đàng nghiêm thiết,

Vì thảo ân hiếu yết Cao Tiên;

Độ hồn ly khổ phương viên,

Thoát đường ly tiết ngục tiền, hồi thiên.

Đại Từ Phụ chứng miên đệ tử,

Chiếu tâm đàn ân tứ, từ bi;

Độ vong địa ngục thoát ly,

Siêu thăng cực lạc hồi qui thiên đường.

Hoặc hữu tội trần dương tiền kiếp,

Hoặc Kim sanh theo nghiệp oan khiên.

Từ bi hỉ xả an nhiên,

Độ hồn siêu thoát kiền thiên phản hồi.

Sắc Thượng Đế Tam Kỳ đại xá,

Lịnh Huyền Khung phổ hóa nhơn sanh;

Quy nguyên chánh đạo nhơn thành,

Huờn Tiên thiên lý độ sanh tử hồn.

Đầu lễ bái chư Tôn liệt vị,

Cầu linh hồn thọ ký Phật bang;

Chứng lòng trai chủ trần gian,

Chư nho tề tựu trai đàn thành-tâm.

Đức Từ Phụ cao thâm cảm hóa,

Đại từ bi phóng xả siêu hồn.

Nam mô Chủ Tể Kiền Khôn,

Huyền khung, Ngọc Đế độ hồn siêu thăng.

Quyền Giáo Chủ Tây phương Phật pháp,

Độ linh hồn siêu thoát luân hồi;

Nam mô Thích Ca Như Lai,

Độ hồn lai đáo Phật đài Tây phang.

Đạo diệu luật, bảo toàn độ thế,

Chưởng khắp quyền Phổ tế nhơn phàm;

Nam mô Thái Thượng Lão Đam,

Dẫn hồn đăng cảnh Tiên bang hưởng nhàn.

Nhờ Thánh đức chứng đàng nghiêm thiết,

Phục Nho Tông nghi tiết tri hiền;

Nam mô Khổng Thánh Văn Tuyên,

Dẫn vong đắc lộ hy hiền tường tri.

Quyền Giáo Tông Tam Kỳ Phổ Độ,

Lập Tiên thiên cứu khổ nhơn sanh.

Nam mô Thái Bạch trường canh,

Độ vong thoát tục siêu sanh thiên đường.

Cứu khổ nạn trần dương bi khổ.

Phóng Kim quang bảo hộ thậm thâm;

Nam mô Nam Hải Quan Âm,

Độ vong thoát cảnh đọa trầm trần ai.

Nghĩa chí vỏng Hùng-oai, Thánh võ,

Phò Hớn triều kết lập Thu Xuân.

Nam mô Quan Thánh Đế Quân,

Dà Lam Phật hiện độ vong đắc thành.

Hoặc sanh tiền cạnh tranh tạo tội,

Chư môn sanh sám hối cầu siêu;

Cầu linh hồn, đắc tiêu diêu,

Hưởng phần khoái-lạc Linh Tiêu cảnh nhàn.

Hoặc tiền kiếp tạo đoan ác nghiệp,

Chư Nho cầu tận-diệt oai khiên;

Hưởng chung phước huệ Cao Tiên,

Tri căn giác ngộ đắc duyên đạo truyên.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

 

KINH CẦU SIÊU (Bài 2)

Trên Thiên Bàn khói hương ngui ngút,

Dưới trẻ con dưng chút thành tâm;

Mong ơn hà hải cao thâm,

Truyền ban Đại đạo sửa lầm thế gian.

Tam Kỳ Đạo đã ban cứu thế,

Ơn Cao Đài Thượng Đế rất sâu;

Ơn Thầy độ khắp hoàn cầu.

Đem về đạo chánh ngỏ hầu sửa thân.

Phật Tiên Thánh chư Thần đắc linh,

Giúp tay Thầy chấn chỉnh nền tu;

Dạy đời mở trí phàm ngu,

Tỉnh tu một kiếp, thiên tu thanh nhàn.

Xưa lầm lỗi dị đoàn, mê tín,

Con tưởng lầm vọng thỉnh cầu siêu;

Đặng mong tội lỗi tiêu điều,

Ngày nay nghĩ lại, Trời chiều đặng sao?

Bừng mắt dậy chiêm bao sực tỉnh,

Lễ cầu siêu biết chính là đây;

Chứng đàn mong có linh Thầy,

Triệu hồn kẻ thác đến rày đàng trung.

Tuồng thế sự lạnh lùng gây trở,

Thân của hồn lỡ dỡ bao phen;

Trót cam trong cảnh thấp hèn,

Mừng, vui, giận, ghét, đua chen thất tình.

Nỗi lục dục gập gình nơi dạ,

Khiến thân phàm quên cả lý chơn;

Tranh danh đoạt lợi thua hơn,

Vần xoay trong kiếp cá nhơn hưởng nhờ.

Chữ Thiên đạo đành ngơ chẳng biết,

Biết đạo người mài miệt hiến thân;

Chẳng tu chẳng luyện chơn thần,

Để cho bụi tục lấp lần linh quang.

Hoặc khi sống phục hàng Thiên đạo,

Mà chỉ xoay vào đạo dị đoan;

Hôm nay, kiếp tỉnh mơ màng,

Nghe chuông siêu độ tìm đàng quy thiên.

(12 tiếng chuông)

Người ở thế có duyên cùng chẳng,

Tiếng lạc lầm có hẳn nào sai;

Rủi chơn lỡ bước lạc loài,

Ăn năn tự cứu khỏi nơi tội tình.

Khi ở thế gây hình tư tưởng,

Tửu, khí, tài, sắc vướng vào thân;

Tội kia hẳn cũng có phần,

Bịnh, Sinh, Lão , Tử bốn lần phải mang.

Lúc đã thác tội tràn dạ chịu,

Hồn tuy theo đủ thiếu kiếp tu;

Hoặc thăng vào cảnh thiên thu,

Hoặc vào chịu tội Diêm U hai đàng.

Hồn còn xác, mơ màng với xác,

Quên suy điều thiện ác mà tu;

Nay hồn lìa khỏi Diêm Phù,

Hồn khôn suy lấp, mà tu chánh đàng.

Dầu Tiên Phật còn mang nhục thể,

Cũng phải cam tội lệ như người;

Phật Tiên nào khác vẻ người,

Nhờ ăn ăn tội tá Trời giáo nhơn.

Nay cầu siêu mong ơn Từ Phụ,

Truyền điển quang khuyến nhủ hồn linh;

Hồn đương trong cảnh gập gình,

Tiếp tròn linh điển dọn mình thoát lên.

Tâm niệm:

-Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

KINH CẦU SIÊU (Bài 3)

Đầu vọng bái Tây phương Phật Tổ,

A Di Đà Phật độ chúng dân.

Quan Thế Âm lân mẩn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát,

Bồ từ bi tế bạt vong hồn.

Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,

Miền Âm cảnh mục khôn khai giải.

Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại,

Độ kẻ lành chế cải tai ương.

Chốn dạ đài Thập Điện Từ Vương,

Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.

Giảm hình phạt bớt đường ly tiết,

Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.

Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên,

Nơi Phước địa ở yên tu luyện.

Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,

Hộ thương sanh u hiển khương ninh.

Tâm niệm:

Nam Mô chư Phật Tiên Thánh Thần cảm ứng chứng minh.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

BÀI KHAI KINH

Vưng lời Thượng Đế sắc ban,

Tụng kinh siêu độ lớp lang rõ ràng.

Cầu xin độ dẫn Thiên Đàng,

Nương theo cõi Phật dựa màn Bồng Lai.

Đức Thầy xuống lịnh ngày nay,

Tụng kinh Tam Bảo chớ sai điều nào.

Chẵng nên giặm sửa chế vào,

Mắt xem miệng đọc đừng xao lòng tà.

Khai kinh đức Phật Di Đà,

Tụng cầu tiêu tội Diêm La đưa hồn.

Tổ sư Thái Thượng Đức Ông,

Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.

Ngày nay cuối (cuối, đúng…..Ngọ) y giờ,

Cầu xin Thổ Địa ra ơn rước hồn.

Vong linh (tên họ ……) là hồn,

Dắt về lạy Phật tọa bàn nghe kinh.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

- SỚ KHAI SƠN

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kim hữu đệ tử vong hồn thọ Thiên ân: …. Thế danh:….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng …….tuế. đầu nhập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vĩ vô cực vi thể. Thái cực vi dụng, bất dụng phiêu tiền hóa mã, thiết lập hương, đăng, trà, tửu chi nghi.

KÍNH BẨM

Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Long Thần; khẩu thỉnh!.

Thổ Công, Thổ Mẫu, Thổ Tử, Thổ Tôn nhứt thiết quyến thuộc, phổ đồng cúng dường, tự kim khai sơn phá thổ, dĩ hậu an bổn vị, vận đắc mạo phạm, Thiên vô kỵ, Địa vô kỵ, Âm Dương vô kỵ, như hữu bất tuân, ngô phụng Thái Thượng Lão Quân cấp cấp như luật lịnh./.

Xướng:

Hiến tửu, lễ tam bái.

4.22 LỄ CÁO ĐẠO LỘ

Xướng:

Viên chức tựu vị, quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NGUYỆN

Ngưỡng cầu đạo lộ đẳng Thần kỳ,

Kim nhựt di quan tán tử thi.

Trục quỷ khử tà kinh viễn tỵ,

Vong hồn thành tựu vọng Tây quy.

Xướng:

Thượng hương, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

*Lời cầu nguyện Cáo đạo lộ:

Hôm nay ngày…tháng…năm….lễ phát hành di linh cửu vị…………………………di an táng nơi nghĩa địa. Gia đình sắm lễ vật đăng cúng.

Chúng tôi là (chức việc)……………………sở tại địa phương kính thỉnh Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Đất Đai Viên trạch, Thành Hoàng Bổn Cảnh, Thổ Địa Long Thần chứng minh thọ hưởng. Xin phò độ trì cho việc di hành linh cửu của vị……..…được bình an mọi việc.

- KINH CÁO ĐẠO LỘ (bài 1)

Nguyện cùng Đạo lộ Ngũ phương,

Khử tà trục quỷ nhường đường minh sanh.

Giúp cho linh cửu thượng trình,

Mồ phần an táng Tây đình hồi qui.

Vọng cầu Thổ Địa Thần kỳ,

Hộ hồn lương thiện kịp kỳ đăng Tiên.

E khi uế trược nhiễm truyền,

Cúi xin chư vị linh tiền tránh xa.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH CÁO ĐẠO LỘ (bài 2)

Vọng Ngũ Phương Đạo Lộ chứng tri,

Cùng Trị Nhựt Thần Kỳ ủng hộ.

Nay di cửu táng an phần mộ,

Trục tà ma cản lộ lăng loàn.

Cho cốt hài thong thả lên đàng,

Vong linh đặng an nhàn cực lạc.

Lòng thành kỉnh Thần minh chiếu tạc,

Giúp hương hồn kỵ hạc đăng Tiên.

E cốt hài uế khí nhiễm truyền,

Xin chư vị linh tiền viễn tỵ.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu, Lễ tam bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tam bái, hưng bình thân.

4.23 LỄ CÁO THỦY THẦN

Xướng:

Viên chức tựu vị, quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ CÁO THỦY THẦN

Vọng cầu Thủy Tộc đẳng Tôn Thần,

Luân chuyển gia đình tế chúng dân.

Kim nhựt hương huê trình thượng hiến,

Phò trì linh cửu nhứt phiên tân.

Xướng:

Thượng hượng, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH CÁO THỦY THẦN

Nguyện cầu Hải Nhược Vương Hầu,

Phò trì linh cửu kịp chầu táng an.

Trãi qua Bích Thủy, Lư Giang,

Trời thanh gió tịnh đưa thoàn minh sinh.

Tam bôi mỹ tửu cung trình,

Thanh trà huê quả tạ tình Thần Linh.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu, Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu, Lễ tam bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tam bái, hưng bình thân.

(Nghi nầy làm tại linh cửu.)

4.24 LỄ PHỤNG MINH SANH

Xướng:

Tang chủ chư vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương,

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Khói hương ngui ngút trước linh sÀng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn./.

Xướng:

Thượng hương, lễ tứ bái. Phụng Minh sanh hiến tấu Thiên bàn.

(Rồi bưng mâm Minh sanh để trước bàn Thầy)

4.25 LỄ PHỤNG MS HIẾN TẤU THIÊN BÀN

(Lễ nầy tại Thiên bàn)

- KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

KINH PHỤNG MINH SANH

HIẾN TẤU THIÊN BÀN

Kim đệ tử điện tiền cung khấu,

Phụng Minh Sanh hiến tấu Thiên Bàn;

Kiêm vì hiếu quyến chủ tang,

Chọn nhằm giờ ……… động quan phát hành.

Linh nghê gác sẵn giành chực trước,

Đạo Tì nhơn chờ rước quan tài;

Địa linh gửi chút thi hành,

Xác phàm an táng vĩnh giai mộ phần.

Vọng Địa Tạng cầm cân độ thế,

Ra oai linh phổ tế nhơn quần;

Nam mô Thái Thượng Lão Quân,

Quan Âm Phật Mẫu chín từng liên-hoa.

Đức Khổng Thánh Nho Gia khuyến thể,

Đồng từ bi ân huệ cứu nàn;

Xủ rèm bảo cái tràng phang,

Cho vong nương bóng Niết bàn khỏe thân.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

4.26 LỄ PHỤNG MINH SANH CÁO TỪ ĐƯỜNG

Xướng:

-Từ tôn tựu vị, quỳ, phần hương, niệm hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương,

Xướng:

-Thượng hương, lễ tứ bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH PHỤNG MINH SANH

CÁO TỪ ĐƯỜNG

Lễ trình cáo Cửu Huyền Thất Tổ,

Chứng minh tình báo bổ ơn xưa.

Trời xanh cao khi nắng khi mưa,

Người trần thê tử sanh hữu mạng.

Nay …… đã từ trần nhứt đoạn,

Lựa ngày lành khởi táng tha phương.

Nguyên hương hồn phát lạc an khương,

Có đạo hữu thôn hương đưa đón.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DƯNG BA TUẦN RƯỢU

Lễ ba tuần cúi mình chước tửu,

Vọng Cửu Huyền Thất Tổ giác linh.

Hộ hương hồn tỉnh ngộ quang minh,

Theo Trời Phật qua miên cực lạc.

Lòng thành kỉnh Thần minh chiếu tạc,

Nguyên hương hồn giá hạc đăng Tiên.

Đặng thảnh thơi nhờ có Hoàng Thiên,

Gìn đạo đức ở yên ngôi cũ.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tứ bái, hưng bình thân. Phụng Minh sanh huờn du cửu sở.

4.27 LỄ PHÁT HÀNH ĐỘNG QUAN

CÁCH SẮP ĐẶT DI QUAN

Các sắp đặt thứ tự nhà vàng hay thoàn Bát nhã, ở ngoài đường theo thứ tự sau đây!. Sắp bên hữu ngoài đường chừa chỗ cho xe cộ đi qua lại.

Thứ tự sắp xếp theo dưới đây:

01 -Giá triệu.

02 -Bàn nghinh xa.

03 -Bàn phúng.

04 -Tấm công bố Đạo.

05 -Bồng lư của đồng nhi bằng vải trắng, kinh sử.

06 -Bàn vong và cặp phang.

07 -Chức sắc Thiên phong sắp hàng ba.

08 -Đại tiểu linh xa.

09 -Quan tài.

10 -Chủ tang.

11 -Đạo hữu cùng bá tánh và bà con sắp hàng ba.

12 -Xe đưa.

Xướng:

-Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ, Phụng Minh sanh hướng ư tiền đạo. Chấp thanh nhang hướng ư tiền đạo.

- KỆ TỪ GIẢ

Ngày nay từ giã rẽ đôi phang,

Linh cửu mộ phần đặng táng an.

U hiển cách nhau tin vắng bặt,

Hồn nương cõi thọ hưởng thanh nhàn.

Xướng:

Dịch giã nhập bái quan; lễ nhị bái, hưng bình thân, truyệt linh điện.

- LỜI GỌI

Bớ quan viên đạo hò!. Nay đặng ngày kiết nhựt lương thần; đệ linh cửu táng an phần mộ.

- KỆ ĐỘNG QUAN

Ngày nay kiết nhựt lương thần,

Đồng đưa linh cửu mồ phần táng an.

Âm dương cách trở đôi đàng,

Cầu cho qui phách vào hàng Tiên bang.

- KINH ĐỘNG QUAN

Nay đạo hữu hiệp cùng tang chủ,

Cùng hương lân đồng thủ hộ quan.

Nguyên hương hồn thoát lạc bình an.

Cầu Tiên Phật đặng ban công quả.

Cuộc trần thế trái oan vay trả,

Nhẹ nhàng mình thong thả cõi Tiên.

Phước lộc nhiều hưởng đặng bình yên,

Cháu con đặng viên niên phú túc.

Nơi trần thế đặng phần hậu phúc,

Xin Phật Trời chứng chút lòng son.

Cho quan tài an ổn nước non,

Hồn theo Phật khỏi vòng oan trái.

Kìa Bát nhã để nơi biển ái,

Rước những người thông thái thiện lương.

Qua đặng nơi cực lạc Tây phương,

Nhờ Tiên Phật dẫn hồn siêu độ.

Nguyên thi hài an nơi phần mộ,

Sơn thủy tình dẫn lộ gió trăng.

Phách hồn linh giá hạc phi thăng,

Về cõi thọ thanh nhàn muôn thuở.

Cảnh bồng lai thảnh thơi nương ở,

Khỏi nợ trần không sợ đa đoan.

Cầu xin quý phách đặng bình an,

Theo Trời Phật điểm ban công quả.

- KINH ĐƯA LINH CỬU (Bài 1)

Nam mô Thượng Đế Cao Đài,

Nam mô Phật Tổ Như Lai chứng lòng.

Nam mô Thái Thượng Đức Ông,

Nam mô Thái Bạch dày công độ đời.

Nam mô Nam Hải Như Lai,

Quan Âm Phật Mẫu trừ tai cứu nàn.

Nam mô Quan Thánh Đế Quân,

Nam mô chư Phật, chư Thần, Thánh, Tiên.

Nam mô Tam giáo hiệp truyển,

Tam Kỳ Phổ Độ sẵn thuyền chực đưa.

Nam mô Ngọc Đế đại từ,

Tội căn xin đặng giảm trừ chế châm.

Cầu xin ơn đức cao thâm,

Độ vong đặng khỏi đọa trầm Âm ty.

Nam mô Địa Tạng chứng tri,

Nam mô nhờ Đức Từ Bi dẫn hồn.

Nam mô chư Phật, chư Tôn,

Cầu vong đặng nhập Thiên môn buổi nầy.

- KINH ĐƯA LINH CỬU (Bài 2)

Cõi phàm vay trả trái oan,

Dập dìu kẻ tới, rộn ràng người lui.

Cách nhau lòng thảm dạ ngùi,

Cạn suy nghĩ xét thầm vui cho người.

Nợ đời phủi sạch thảnh thơi,

Lánh miền khổ não tìm nơi thanh nhàn.

Bồng lai phước địa ở an,

Dứt dây oan nghiệt buộc ràng nhiểu nhương.

Nguyện cầu Giáo chủ Tây phương,

A di Đà Phật xót thương giảm nàn.

Độ hồn lìa khỏi trần gian,

Về miền cực lạc niết bàn tu thân.

Quan Âm Bồ Tát ân cần,

Tầm thinh cứu khổ giải lần tai nguy.

U Minh Đại Thánh từ bi,

Đức ơn Địa Tạng liên trì tiếp vong.

Từ Vương Thập Điện rộng lòng,

Xá tha hồn đặng thoát vòng trầm luân.

Âm Tào Đông Nhạc Đế Quân,

Vớt người lương thiện khỏi chưng tội tình.

Thần Quang Hộ Mạng anh linh,

Giúp vong tri sáng biết nhìn đường ngay.

Phước thần phướn báu cầm tay,

Sắc vưng Tam Giáo hộ rày linh quang.

Mong ơn Thổ Địa Thành Hoàng,

Khử tà trục quỷ dẹp đàng chông gai.

Phách hồn lánh nẽo Diêm đài,

Thoát ly Địa phủ, Thiên thai hầu gần.

Tiêu diêu tịnh dưỡng tinh thần,

Trau dồi công đức tế dân trợ đời.

Ngưỡng trong thửa nguyện như lời,

Hiển u hai ngã gặp nơi phước lành.

- KINH ĐƯA LINH CỬU (Bài 3)

Buồn thương cuộc thế rẽ đôi,

Thầm mừng hồn phách rảnh rồi trần ai.

Nguyện trên Đức Phật Cao Đài,

Từ bi cứu khổ Thiên thai đem về.

Hồng trần là chốn giác mê,

Phản hồi Tiên cảnh là quê hương mình.

Đạo Trời thưởng phạt phân minh,

Đưa người đạo đức khỏi hình ngục quan.

Âm dương cách trở đôi đàng,

Chư nho đồng nguyện khỏi đàng lầm than.

Nguyện cầu Thổ Địa Thành Hoàng,

Đem hồn người thiện Phật đàng điểm công.

Dương gian âm cảnh luật đồng,

Hể người đạo đức non bồng trí an.

Ngày nay cỡi hạc băng ngàn,

Phủi rồi những lúc trái oan cuộc trần.

Linh hồn thọ chúc Thiên ân,

Non du khuya sớm ân cần niệm kinh.

Thiêng liêng khuyên khá giữ gìn,

Bồ đề nương bóng Huỳnh đình rèn tu.

Sớm khuya luyện tập công phu,

Một ngày cõi thọ ngàn thu dương trần.

Từ bi tạo hóa so cân,

Đưa người đạo đức lại gần Thiên thai.

Lần lên cõi Phật Như Lai,

Tiêu diêu khoái lạc trần ai khỏi về.

Dạo chơi bích thủy, sơn khê,

Sớm xem hải đảo tối kề Bồng lai.

Linh hồn mựa chớ đơn sai,

Cảnh Tiên là báu, trần ai chớ màng.

Giờ nay rãnh cuộc trái oan,

Chư nho đồng nguyện vào hàng Tiên bang.

(Nghi nầy làm tại huyệt mã)

4.28. LỄ CÁO HẬU THỔ

Xướng:

Tang chủ tựu vị, quỳ, phần hương, nguyện hương.

KỆ NIỆM HƯƠNG

Tam bôi mỹ tửu phụng kiền xương,

Tang chủ cung thành lễ hiến hương.

Hậu Thổ quan tâm nhàn lạc hưởng,

Tân khu nhứt mạch địa miên trường.

Xướng:

Thượng hương, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu

- LỜI NGUYỆN CẦU HẬU THỔ

Hôm nay, ngày …tháng….năm….Linh vị của………….đã đến nơi phần mộ. Chúng tôi……………….cùng tang gia hiếu quyến sắm lễ vật đăng cúng.

Chúng tôi và toàn gia quyến kính trình Hoàng Thiên Hậu Thổ. Đất đai Thổ mộ Thần Hoàng Bổn Cảnh, Thổ Địa Long Thần chứng minh nhậm lễ. Chúng tôi xin gởi hài cốt của vị…….ở nơi đây nhờ Hậu Thổ gìn giữ cho nằm yên nơi lòng đất mẹ.

(đọc sớ cáo Hậu Thổ)

- SỚ CÁO HẬU THỔ

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kim hữu đệ tử Thiên phong, Chức sắc …………….… cộng đồng đạo hữu đắc vị tân cố vong hồn thọ Thiên ân: ….… Thế danh: ….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng …….tuế. Đầu nhập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Tôn quy thủ giái phản bổn luyện khí huờn nguyên. Dĩ vô cực vi thể, thái cực vi dụng, bất dung phiêu tiền hóa mã, thử thời …… bất hạnh ư niên …… ngoạt …… nhựt …… thời. Khí thế liễu đạo thoát xác huờn hương, kim tương thi hài táng ư thử địa.

Kim hiếu quyến tánh danh ………….. thiết lập trai đàng hương đăng, trà, tửu, hoa quả chi nghi.

Kỉnh bẩm

Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Long Thần, Thổ Công, Thổ Mẫu, Thổ Tôn, Thổ Địa, Chư Thần. Phục vọng phô đồng lãnh thọ các an bổn vị bất khả xâm phạm Thiên, Địa, Nhựt, Nguyệt, thời sát nhứt nhứt hung thần, ác sát hóa vi kiến tường.

Thượng hữu huờn chiêm Ngôu Phụng, Thái Thượng Lão Quân cấp cấp như luật lịnh.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH CÁO HẬU THỔ

Mong Hậu Thổ huệ từ chiếu cố,

Cùng Ngũ Phương Ngũ Thổ Địa Thần.

Hộ cốt hài an táng mồ phần,

Vô tư tảo đức ân che chở.

Xác phàm đặng thảnh thơi muôn thuở,

Vọng oai linh nâng đỡ phò trì.

Độ vong hồn thoát nẽo ai bi,

Nơi u hiển giai kỳ thạnh vượng,

Trong gia quyến viên niên phú chưởng,

Cầu vong linh trực hưởng Tây phương.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tam bái.

- KỆ HẠ RỘNG

Phù sanh nhứt mộng kỷ nhơn tri,

Bách tuế quang âm vấn thị thùy.

Thế cuộc tồn vong tầm mạc trắc,

Ta hồ vĩnh việt thử chung qui.

- KINH HẠ RỘNG

Từ bàn cổ khai Thiên tịch Địa,

Đại Từ Tôn oai nghĩa giúp đời.

Ơn cao Địa Mẫu vơi vơi,

Người đều gội đức tài Trời hóa sanh.

Lầu đài cát dinh thành nưng đỡ,

Tải vô tư muôn thuở linh thiêng.

Thần kỳ Tinh tú Sơn xuyên,

Phong Vân, Lôi, Võ Thanh Thiên chung nhờ.

Chư Vương Đế trọng thờ phụng kính,

Chúng lê dân thành tín bái sùng.

Thú cầm, thảo mộc, côn trùng,

Cũng đều sản xuất đúc ung dẫy đầy.

Công Hậu Thổ đức dày đạo cả,

Hóa dưỡng sanh hoa quả lúa khoai.

Kim ngân, châu báu dược tài,

Nuôi người đặng sống lâu dài trần gian.

Ơn đùm bọc đỡ nưng rải khắp,

Vọng anh linh khỏa lấp thi hài.

Đê đầu khẩn vái linh oai,

Độ cho gia quyến lâu dài bình an.

 4.29 LỄ DẪN VONG VỀ

- KINH TỪ GIẢ MỘ PHẦN

Tống chung nay đã an bài,

Hồn lên cõi thọ cốt hài gởi đây.

Nợ trần nay đã hết gây,

Chẳng còn tính việc lưng đầy thế gian.

Trăm năm kết cuộc nghĩ càng,

Âm dương vị lộ hay đàng khó trông.

Tử sanh, thiên số nan thông,

Người về Tiên cảnh kẻ trong dương trần.

Xác phàm tuy đã rẽ phân,

Linh hồn xin nhớ ân cần viếng thăm.

Phân tay, giọt lụy khôn cầm,

Mộ vân xuân thọ khôn tầm người thương./.

 

- KINH DẪN VONG VỀ

Oai Phật Trời anh linh phổ tế,

Lòng từ bi phổ tế độ dân.

Độ hồn lìa khỏi hồng trần,

Xét xem công-quả cân phân thưởng đền.

Giảm tội lỗi Ơn Trên chế lượng,

Thanh Phước Thần cầm phướn dẫn đàng.

Mong nhờ Hộ Mạng Thần Quang,

Giúp vong nhẹ tách băng ngàn cõi Tiên.

Đặng siêu độ trần duyên oan trái,

Sáng lương tâm chừa cải tiền khiên.

Ban ơn giúp sức Thiêng liêng,

Lánh nơi phàm tục tầm miền bồng lai./.

(Nhà có thờ Thầy mới có lễ nầy)

4.30 LỄ AN VỊ VONG LINH

KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương./.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- SỚ AN VỊ VONG LINH

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Gia trung chi nội, cầu an vị vong hồn (tánh danh người chết……...) kim hữu đệ tử Thiên phong, Chức sắc ……….. Hiệp giữ nam nữ đại tiểu đoái lãnh hiếu quyến (tên họ tang chủ ……quỳ tại Thiên bàn thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Lực Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Tá Châu Quảng Pháp Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Đông Nhạc Đế Quân Khoan Hồng Độ Chúng Thiên Tôn.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát Từ Bi Độ Chúng Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

Thập Phương chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần kim liên tọa hạ.

Khẩn cầu từ bi xá giữ vong hồn thọ Thiên ân: …..… Thế danh: ….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng …….tuế. tánh danh …… duyên ngộ Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, đầu nhập Thiên Môn, thọ trì quy giái vi năng. Tịnh nghiêm công quả vi lập, bất hạnh ư …… niên …… ngoạt …… nhựt …… thời. Khí thế liễu đạo, đệ tử hiệp giữ tín đồ, đoái lãnh hiếu quyến, tang chủ thiết cúng đàn tràng, hương đăng, trà, tửu, hoa, quả chi nghi. Cung phụng: Lập sàng an vị tôn vong. Thành tâm khấu bái.

Ai tấu vĩ văn./.

Tâm niệm:

- Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH AN VỊ VONG LINH

Thượng Từ Phụ Ngọc Hoàng Chủ Tể,

Tá danh là Thượng Đế Cao Đài;

Giáng cơ lập Đạo lâu dài,Đem nền Tam Giáo chỉ bày độ sinh.

Đặng cứu vớt chơn linh đọa lạc,

Phòng độ người mộng giác mê tân;

Đạo Nho, Thích, hợp một lần,

Cho người giữ đạo biết chừng nết na.

Trên nhờ có Thích Ca độ dẫn,

Lời Lão Quân ẩn nhẫn dạy bày;

Đại Thành Chí Thánh đức dày,

Văn chương dạy bảo, lễ nghi cho người.

Dạy luân lý đời đời cang kỷ,

Gồm nghĩa nhân độ bỉ đặng thông;

Sống tu đạo đức tạc lòng,

Thác rồi đặng khỏi trong vòng trầm luân.

Nay môn đệ (tên ……) số mạng,

Thương đồng môn quá vãng cầu hồn;

Chơn linh thoát chốn luân hồi,

Theo Thầy tới chỗ dứt rồi đọa căn.

Hết mơ mộng trần gian cảnh tạm,

Mắc đọa đày cực thảm bấy lâu;

Âm dương nay cách biệt nhau,

Kẻ còn người mất rồi sau sum vầy.

Nay có Đức Từ Bi sắc mạng,

Mong đặng nhờ Địa Tạng ân hoằng;

Thiện căn nay đặng độ thăng,

Ác nghiệt thì đợi luật hằng xử ngay.

Hồn đặng cõi bồng lai thượng lộ,

Nhờ Tam Kỳ Phổ Độ xá ân;

Từ đây khỏi lộn lại trần,

Hết luân hồi khổ xác thân đọa đày.

Tiêu diêu chốn hiệp vầy các Thánh,

Khoái lạc ngày đỏng đảnh non nhân;

Trái oan dứt sạch bụi trần,

Tiên bang chốn cũ bước chân lộn về.

Nơi biển khổ sông mê hết tưởng,

Non bồng lai gắng gượng lần lên;

Vong hồn nương cõi Phật Tiên,

Bỏ thân xác thịt lánh miền trần gian.

Trên nhờ có Ngọc Hoàng mở đạo,

Phật, Thánh, Tiên Tam Giáo độ đời;

Ra ơn phổ tế khắp nơi,

Dắt người khổ hải để đời Thiên Thai.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

4.31 LỄ PHẢN KHÓC CÚNG TIÊN LINH

Xướng:

Từ tôn tựu vị, quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương.

Xướng:

Thượng hương, lễ tứ bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH PHẢN KHÓC (Tiên Linh)

Tiên linh chứng chiếu lòng thanh,

Táng an (Thân phụ, Từ mẫu...) gia đình hồi qui.

Người đời có lúc hiệp ly,

Kẻ còn người mất xiết chi nỗi phiền.

Có câu: Mộc bổn thủy nguyên,

Lễ thô đạm bạc Tổ Tiên chứng cùng.

Nay đà mãn lễ tống chung,

Linh hồn cầu đặng trùng phùng Tổ Tông.

Sớm khuya dựa cảnh non bông,

Hết dây oan nghiệt khỏi vòng trần gian.

Giờ đây an vị linh sàng,

Ông Bà Cô Bác tọa bàn chứng tri.

Nguyên cầu Phật Tổ A Di,

Vớt người lương thiện đồng qui Phật đường./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu. (3 lần), -Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà. -Lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

4.32 LỄ CÚNG VONG AN VỊ

Xướng:

Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIÊM HƯƠNG

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ.

- KINH CÚNG VONG AN SÀNG

Âm dương nay đã chia đàng,

Sớm trưa vắng dạng dạ càng héo von.

Trăm năm nghĩ cuộc mất còn,

Là nơi số định, giữ tròn hiếu trung.

Làm người cho trọn thỉ chung,

Dương gian tuy cách trùng phùng cựu bang.

Muối dưa tạm dụng linh sàng,

Thô trà rượu lạt gia đàng lễ dưng.

Đọc câu ly biệt ngập ngừng,

Đoái nhìn linh vị không ngừng giọt châu.

Tử sanh Thiên số nan cầu,

Ước cho hồn đặng về chầu bệ giai.

Nhờ trên đại đức Phật dày,

Độ sanh, độ tử cả hai cũng đồng.

Hồn linh nguyên đến non bồng,

Qua miền cực lạc, thoát vòng trần ai.

Giờ nay linh vị an bày,

Chứng minh hiếu tử ngày nay bái quì.

Chư nho đưa đón kịp thì,

Cầu cho hồn đặng hồi qui Thiên đài.

Dặn lòng mựa chớ đơn sai,

Tưởng tình cốt nhục vãng lai gia đàng.

Có câu: Sanh thuận, tử an,

Nhưng buồn dương thế suối vàng cách phân.

Có thương đến viếng mộ phần,

Le the ngọn cỏ người thân khó tầm.

Từ đây tử biệt trăm năm,

Hồn khôn khuyên nhớ viếng thăm gia đàng.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ. hiến tửu.

- KINH CÚNG VONG PHẢN KHÓC

(Chồng cúng vợ hay vợ cúng chồng, rót rượu 3 lần mới đọc kinh)

***

Rượu ba tuần quỳ tâu trước án,

Xin linh hồn hưỡng cạn chén huỳnh.

Tưởng trăm năm trọn chữ bố kình,

Nào hay lại, thình lình vội dứt.

***

Trăng đương sáng vì mây nên khuất,

Dây xe săn ai bứt chia hai.

Nguyện hương hồn lên chốn Phật đài,

Cực lạc giới hằng ngày thong thả.

***

Song may gặp Tam Kỳ đạo cả,

Lo tu bồi công quả tháng ngày.

Nợ tiền khiên mau trả không vay,

Dạy gia quyến trì chay thủ giới.

***

Theo chơn lý không ham danh lợi,

Gìn luật lệ chớ khởi lòng tà.

Hằng tưởng câu bác ái độ tha,

Noi sáu chữ Di Đà Phật Tổ.

***

Trong thôn lý dày công phổ độ,

Đặng vớt người biển khổ sông mê.

Sổ Nam Tào nay đã định về,

Hồn theo gió hầu kề cực lạc.

***

Chơn thần xuất hồn ra khỏi xác,

Chứng lòng thành đạm bạc tương rau.

Chữ hiệp tang nghĩ đến càng đau,

Người phân cách biết sao hiệp mặt.

***

Nay đành chịu chồng Nam vợ Bắc,

Nhớ người yêu ngày khắc nào nguôi.

Cõi Phật Tiên xin đó an vui,

Miền trần thế để tôi công quả.

***

Luật Tam, Ngũ ngày đêm giữ dạ,

Đặng kiếp sau khỏi đọa luân hồi.

Người đà trở lại về ngôi,

Vui miền Tiên cảnh phủi rồi trần ai./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu. (con cháu dâng cúng)

- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 1)

Rượu tuần nhứt châm đầy dưng trước,

Nguyên hương hồn ẩm phước cho vui.

Xin chứng lòng con thảo ngậm ngùi,

Đau dạ trẻ sụt sùi giọt lụy.

Đơn sơ lễ trọn niềm chung thủy

Sự mất còn thờ ví cũng đồng

Ba năm tang hiếu vẹn xong

Chúc cầu (từ mẫu, thân phụ) non bồng tiêu diêu./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 2)

Rượu nhị tuần rót đầy dưng tiếp,

Con rễ dâu đồng hiệp lại quì.

Ơn sanh thành, ơn ví cao dày,

Nghĩa dưỡng dục nghĩa tài rất lớn.

Kìa chín chữ cù lao lồng lộng,

Nọ mười ơn dưỡng dục minh minh.

Biết chi bồi đắp vong linh,

Tạm dùng lễ bạc chứng tình thảo ngay.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 3)

Rượu nầy lễ ba tuần xin rót,

Cúi lạy quì đôi giọt dầm sa.

Phế tâm bào, gan ruột xót xa,

Đoạn cốt nhục chia ra hai ngả.

Dạy gia quyến thượng hòa hạ lục,

Lễ mọn nầy nhứt nhứt sánh sô,

Chúc cầu khỏi chốn phong đô,

Được lên cỏi Phật để hầu nghe kinh./,

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, Tấn phạn, kiểm soạn.

- KINH TẤN PHẠN

Lễ tấn phạn chứng lòng ngay thảo,

Dưới gối dưng trọn đạo làm con.

Công sanh thành báo bổ cho tròn,

Tình cốt nhục nước non khó sánh.

Nay (cha, mẹ….) đã cõi trần xa lánh,

Nơi gia đàng hiu quạnh sớm khuya.

Vô thường sau vội chia lìa,

Làm cho người thiện phải về đế hương./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà.

- KINH DÂNG TRÀ

Trà Bạch Liên hơi lên thơm nức,

Xin tạm dùng lễ tất vừa xong.

Nguyện linh hồn phát hóa non bồng,

Nương cõi Phật, tu công lập quả.

Miền Tiên cảnh thật là phong nhã,

Bước từng mây thông thả sớm trưa.

Phật Tiên là chổ thích ưa,

Lánh miền phàm tục gió mưa bụi trần./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

- KINH ĐƯA VONG

Ngày nay tế lễ đã xong,

Chư nho hiếu quyến đưa vong thượng đàng.

Ngưỡng cầu Thổ Địa Thành Hoàng,

Dẫn hồn nhẹ tách dậm ngàn Thiên Thai.

Dựa màn Phật Tổ Như Lai,

Kệ kinh gìn giữ hôm mai tu trì.

Rèn lòng bác ái từ bi,

Dắt dìu hậu tấn đồng qui hưởng nhàn.

Luân hồi lục đạo khỏi mang,

Vinh hoa, phú quý phàm gian nào màng.

Nguơn thần trở lại ngôi Càn,

Là nơi cảnh củ ẩn tàng thuở xưa.

Biển trần tang khổ nên chừa,

Người mang xác thịt lọc lừa chưa xong.

Thiện căn, thiện quả bền lòng,

Chờ ngày thoát xác non bồng gặp nhau.

Phước Thần phướn báu phất màu,

Cúi đầu lễ tống thanh cao phi đằng./.

Xướng:

Lế tất tứ bái, hưng bình thân.

4.33 LỄ KHAI MỘ

HƯỚNG DẪN:

Chuẩn bị lễ khai mộ gồm có:

+ Trộn chung 5 thứ đậu và mè để vào 5 ống trút, 4 ống 4 hướng 1 ống ở giữa, và 2 ống 2 bên là gạo bên trái, muối bên phải.

+ Bông nhiều màu để gắn chung 7 ống trút, và có giấy đỏ để bịt lại.

+ Đặt một cái bàn để cầu Trời, Phật Thánh Thần và Đức Địa Tang Vương Bồ Tát gồm bông, trái cây, đèn, nhang, rượu, trà là đủ.

+ Một mâm cúng Ngũ Phương, Ngũ Thổ có thêm 5 chén chè.

+ Cúng vong 3 chén chè để trước mộ.

Xướng:

Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương, thượng hương, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu, lễ tam bái, quỳ, nguyện sớ.

- SỚ KHAI MỘ

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,…………khu vực, ấp. Tại phần mộ chi tiền.

Kim hữu Thiên Phong, Chức sắc ………………….....đoái lãnh hiếu quyến Kim tang chủ:

chi kiết địa dĩ lai trảm thảo, phá thổ khủng hữu, phạm Ngũ phương, Ngũ thổ, Tôn thần, cập cổ mộ nghiệp chủ tân táng chi thời, dĩ hà thù tạ chư Thần.

CẨN DĨ

Vô cực vi thể, Thái cực vi dụng. Tam hiệp nhứt, mồ kỷ qui căn, sơn xuyên tinh tú địa mạch an linh, thanh long nghinh yết, Bạch hổ trinh tường, Ngũ phương Long thần, các an bổn vị, chư ác sát các ẩn kỳ trung vong thành hiệp, hiếu quyến chi tường.

Cẩn cụ sớ văn Thượng trình ai tấu./.

Xướng:

Phần sớ, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH KHAI MỘ (Bài 1 )

Cúi xin Hậu Thổ chứng minh,

Môn tang trai chủ lễ trình khai quan.

Dẫn hồn tảo vãng Thiêng Đàng,

Phách gìn giữ mộ linh hồn viếng thăm.

Giữ tròn hai chữ đạo tâm,

Linh hồn phơi phới quảng tầm Tiên cung.

Ngàn năm lạc cảnh thung dung,

Ngày thành chánh quả trùng phùng trươc mai.

Ơn trên Thượng Đế Cao Đài,

Cùng Tiên Phật Thánh hoằng khai đạo lành.

Độ tòan tứ khổ chúng Sanh,

Đồng qua bỉ ngạn lên thành nhụy châu./.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH KHAI MỘ (Bài 2 )

Đầu cúi lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ,

Nay đến ngày khai mộ định hồn;

Nam mô chư Phật chư Tôn,

Nam mô Địa Tạng dắt hồn siêu thăng.

Nghe câu kệ biết rằng sống thác,

Nguyện linh hồn khoái lạc tiêu diêu;

Mong ơn Địa Tạng độ siêu,

Vì người ở thế phải nhiều công phu.

Xin nhớ chốn phàm phu chứng chiếu,

Hỉ có lòng đa thiểu kỉnh dâng;

Trà thô chước tửu tam tuần,

Chủ gia nay đã kỉnh mừng Ngũ Phương.

Họa Tam Thiên trấn an phần mộ,

Trên chín tầng chỉ dẫn thẳng xong;

Mong nhờ Phật Tổ thần thông,

Đem hồn về đến non bồng cảnh Tiên.

Xin gia chủ bớt phiền bớt não,

Để cho vong trực đáo Tây Phương;

Tuy là cách trở âm dương,

Tử quy sanh ký là đường xưa nay.

Nay đạo (huynh, tỷ…) đến ngày xuân cảnh,

Nguyện hương hồn mới rãnh cuộc trần;

Xác phàm gởi lại mộ phần,

Hồn linh thoát tục về lần cảnh tiên.

Ba tuần trà rượu mãn viên,

Cúi đầu lễ bái gia đàng hồi quy./.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến trà, lễ tam bái.

- LỜI DẶN CHÚ GIẢI:

(Vị chủ lễ lấy một cái bông nhúng vào chén nước rải chung quanh mộ theo các hướng, vừa rải vừa đọc câu chú.)

CHÚ

Âm Dương giao thới

Nhật Nguyệt trùng quang (lấy bông cậm 4 hướng và niệm)

HƯỚNG BẮC

Khảm trung mãn Chánh Bắc đương Tý.

Bắc Phương Nhâm Quý Thủy.

HƯỚNG ĐÔNG

Chấn ngưởng bồn Chánh Đông đương Mẹo.

Đông Phương Giáp Ất Mộc.

HƯỚNG NAM

Ly trung hư Chánh Nam đương Ngọ.

Nam Phương Bính Đinh Hỏa.

HƯỚNG TÂY

Đoài thượng khuyết Chánh Tây đương Dậu.

Tây Phương Canh Tân Kim.

TRUNG ƯƠNG

Mồ Kỷ Thổ trấn thủ Càn Khôn

Án Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu thủ tứ phương.

Xướng:

Lễ tất tam bái, hưng bình thân.

4.34 LỄ HỎA TÁNG

(Lễ nầy nơi trước khi hỏa táng)

Xướng:

-Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG HỎA TÁNG

Tửu trà hoa quả kỉnh liền hương,

Thân chủ tang thương tiển biệt trường.

Hỏa táng thân nhân từng thể biến,

Mong nhờ Hỏa Đức phút giây nương./.

Xướng:

-Thượng hương, lễ nhị bái, quì, hiến tửu,

-Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu,

-Lễ nhị bái quỳ. Hiến tửu.

KINH HỎA TÁNG

(Giọng Nam Ai)

Thôi kiếp sống giờ đây dứt đoạn,

Mãnh hình hài ngoan ngoãn nằm yên;

Tinh nhanh linh hoạt không phiền,

Hồn về Cực Lạc, xác liền bỏ xa.

Nhớ kiếp sống thật thà hiếu đạo,

Nay thác rồi bước dạo thung dung;

Ma ha Thánh thủy tiếp cùng,

Tiển đưa xác tục về vùng Thiêng liêng.

Xin định tâm như thiền tinh tấn,

Phách biến hình như tánh vượt tu;

Lưu truyền tôn tử nghìn thu,

Con đường đạo đức giải thù từ đây.

Đừng thương khóc, đừng ngây thương nhớ,

Đặng vượt lên khỏi trở lại trần;

Vướng chân vì mối tình thân,

Gắng cho thoát xác đôi phân vắng hình.

Hâm ngọn lửa thâm tình dâng trọn,

Nguyện hương hồn lánh chốn phong đô;

Nương mây thoát kiếp mơ hồ,

Tìm về tiên cảnh điểm tô linh hồn.

Hởi hồn phách tinh khôn thăng tiến,

Hội giác linh diện kiến bên Thầy;

Xác phàm thối rữa không may,

Nay nhờ ngọn lửa tan ngay mãnh hồn.

Trong phút chốc xác thành tro bụi,

Theo Liêng Thần hồn tựa lần lên;

Âm dương cách trở đôi bên,

Tiển người thác trước không nên lụy sầu./.

Xướng:

Lễ nhị bái quỳ. Hiến trà.

CHÚ VÃNG SANH

Vãng Sanh thần chú quyết định chơn ngôn, bạt nhứt thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ đà la ni.

Nam mô A Di Đa Bà Dạ Đa Tha Dà Đa Dạ Đa Điệt Dạ Tha, A Di Rị Đô Bà Tì, A Di Rị Đa Tất Đam Bà Tì, A Di Rị Đa Tì Ca Lan Đế, A Di Rị Đa Tì Ca Lan Đa, Dà Di Nị Dà Dà Na, Chỉ Ca La Lệ, Ta Bà Ha. (đọc 3 lần).

Xướng:

Lễ tất tứ bái, hưng bình thân./.

NGHI LỄ HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

V- PHẦN LÀM TUẦN

5.1. LỄ VÀO ĐÁM

(Nhà không thở Thầy thì vọng bàn ĐịaTạng, Trấn thần vào đám)

.

THẦN CHÚ ĐỐT NHANG

Vọng từ ân thống lãnh Thiên Thần,

Chầu Ngọc Đế hầu gần Kim Khuyết.

Thường xem xét hơi nhang thanh khiết.

Đã rõ thông hung kiết khải tâu.

Hiệp chư Thần ra sức khẩn cầu,

Cho linh diệu nhiệm mầu ngút tỏa.

Khói thơm nực bay ra trừ họa,

Diệt yêu ma nhiễu phá hồng trần.

Loại mị tà chẳng dám đến gần

Mùi uế trược vội lần tiêu tán.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

CHÚ NIỆM HƯƠNG

Một tấm lòng thành niệm trước điện tiền,

Mùi hương thơm nức thấu đến đài Tiên.

Khẩn cầu Trời phật đạo pháp thông truyền.

Chư nho đệ tử sắc ban,

Vưng lời Tiên Trưởng lập đàn cầu tiên.

Nhờ trên lượng rộng đức hiền,

Chứng lòng hiếu tử hạnh triêu hoan tình./.

Lời dặn: Một vị chứng đàn cầm 3 cây nhang, một ly nước, một cái bông, rồi họa:

THỈNH BẠCH THỦY TRẤN THẦN

Thiên nhứt sanh thủy

Địa lục thành chi

Nhứt lục ký định

Ngũ hành nãi kỷ

Ngô kim tốn động

Uế trực trần phi.

Dương chi đảo thủy, biến sái nội đắc thanh lương./.

(họa chữ, họa bùa Tam Thiên)

Lời dặn:

Mỗi hướng nhúng nhánh bông vào chén rồi rải một cái và niệm: Nam mô Quan Thê Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. (Niệm 3 lần)

Bắc: Khai giải uế chi u minh, tẩy trừ ngạ quỉ bất đáo điện trung. Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Đông: Khai giải uế chi u minh, tẩy trừ ngạ quỉ bất đáo điện trung. Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Nam: Khai giải uế chi u minh, tẩy trừ ngạ quỉ bất đáo điện trung. Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tây: Khai giải uế chi u minh, tẩy trừ ngạ quỉ bất đáo điện trung. Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Chính giữa: Nam mô thượng trung hạ giái giải uế chi u minh, tẩy trừ Chúa quỉ bất đáo điện trung. Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Nhà có thờ Thầy thì vọng bàn Địa Tạng, vào đám.

KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương./.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

KINH THỈNH CHƯ PHẬT THÁNH TIÊN

Trên Phât Tổ từ bi chiếu giám,

Dưới Thần Tiên linh cảm chứng tri.

Ngày nay mở cuộc siêu kỳ,

Cầu cho (tên họ……...) hồn phi Thiên đàng.

Nguyện cùng Phật Tổ tây phang,

Quan Âm BồTát tràng phan giáng liền.

Cúi xin Hộ Pháp Luôn Thiên,

Đằng vân giá võ xuống miền trần gian.

Từ bi ủng hộ trai đàn,

Giúp cho tang chủ bảo toàn hiếu trung./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KỆ KHAI CHUNG

Chung thinh đổng khấu u minh quang,

Tỉnh ngộ nhơn sanh hiệp nhứt đàng.

Sám hối hồi đầu qui chánh giáo,

Cao Đài Chúa Tể độ hồng khoan.

(Mỗi câu đọc xong đánh 3 tiếng, 4 câu là 12 tiếng).

KỆ KHAI MỎ

Nam mô án mộc ngư, tẩy trừ ngạ quỉ bất đáo điện trung. Đệ thanh mộc đáo hồi cung thượng.

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(Niệm danh Thầy 3 lần, mỗi lần đọc xong đánh 3 tiếng, 3 lần niệm là 9 tiếng).

SỚ VÀO ĐÁM CẦU SIÊU

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kim vì (tuần mấy…….) chi tuần, cố tác tiểu lễ.

Kim tang chủ:

Hữu đệ tử Thiên phong chức sắc: ………………………… công đồng thánh chúng, thiện chơn, hiệp giữ tang chủ quỳ tại Thiên bàn thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Lực Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Thái Công tướng phụ tá Châu Quảng Pháp từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên liên đài chi hạ.

KHẨN CẦU

Từ bi xá vi hữu tội độ ách tiêu tai, phát hạ hồng ân xá giữ vong hồn thọ Thiên ân: ….… Thế danh: ….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng …….tuế.

Xuất ly ư khổ hải, siêu thăng thượng giới chứng quả bồ đề.

Hữu đệ tử Thiên Phong, Chức sắc hiệp giữ tang chủ đại tiểu đẳng thiên oai bất thắng, chiêm ân chi chí thành tâm khấu bái.

Thượng tấu dĩ văn./.

CHÚ DIỆT TỘI

Thất Phật diệt tội chơn ngôn:

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, bồ đề tát ta bà ha. (đọc 3 lần)

(3 lạy, mỗi lạy 4 gật)

KINH KHAI CỬU

Đã quá chín tầng Trời đến vị,

Thân đặng an, tinh, khí cũng an;

Tầng trời gắng bước lên thang,

Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.

Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi,

Quên trần ai mong mỏi Động Đào;

Ngó chi khổ hải sóng xao,

Đoạn tình yểm dục đặng vào cõi thiên.

Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ,

Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân;

Nắm cây huệ kiếm gươm Thần,

Dứt tan sự thế nợ trần từ đây./.

(3 lạy 9 gật)

KINH ĐỆ NHỨT CỬU

Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo,

Khối hình hài đã chịu rã tan;

Bảy dây oan nghiệt hết ràng,

Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.

Kìa Thiên cảnh con đường vọi vọi,

Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu;

Cung thiềm gắng bước cho mau,

Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên.

Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,

Đoạn cho rồi oan trái buổi sanh;

Đem mình nương bóng Chí Linh,

Định tâm Chí Thánh mới gìn ngôi xưa.

Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh,

Phách anh linh ắt phải anh linh;

Quản bao thập ác luc hình,

Giải thi thoát khổ diệt hình đoạn căn./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KINH ĐỆ NHỊ CỬU

Tây Vương Mẫu vườn đào ươm chin,

Chén trường sanh có lịnh ngự ban;

Tiệc hồng dã dọn sẵn sàng,

Chơn thần khá đến hội hàng chư linh.

Đã thấy đủ Thiên Đình huyền pháp,

Cỡi giác thân lên đạp Ngân Kiều;

Đẩu tinh chiếu thấu Nguyên Tiêu,

Kim quang kiệu đỡ đến triều Ngọc hư.

Khí trong trẻo dường như băng tuyết,

Thần im đìm dường nét thiều quang;

Xa chừng thế giới Địa hoàng.

Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng./.

KINH ĐỆ TAM CỬU

Cõi thanh thiên lên miền Bồng Đảo,

Động Thiên Thai bảy Lão đón đường;

Cam lồ rưới giọt nhành dương,

Thất tình lục dục như dường tiêu tan.

Cung Đẩu Suất nhặt khoan tiếng nhạc,

Đệ lịnh bài cánh hạc đưa linh;

Tiêu thiều lấp tiếng dục tình,

Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.

Cung Như Ý, Lão Quân tiếp khach,

Hội Thánh Minh giao sách Trường xuân;

Thanh quan rỡ rỡ đòi ngàn,

Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng thiên./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KINH ĐỆ TỨ CỬU

Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc,

Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên;

Năm rồng đỡ nổi đầu thuyền,

Vào cung Tuyệt Khổ kiến Huyền Thiên Quân.

Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,

Bộ Lôi Công giải tán trược quang;

Cửa lầu Bát Quái chun ngang,

Hỏa tinh Tam Muội thiêu tàn oan gia.

Đạp Thái Sơn nhảy qua Đẩu suất;

Vịn Kim câu đến chực Thiên môn;

Chơn Thần đã nhập càn-khôn,

Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KINH ĐỆ NGŨ CỬU

Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ,

Cõi Xích Thiên vội mở ải quan;

Thiên quân diêu động linh phan,

Cả miền Thánh Vức nhộn nhàng tiếp nghinh.

Đài chiếu giám cảnh minh nhẹ bước,

Xem rõ ràng tội phước căn sinh;

Lần vào cung Ngọc Diệt Hình,

Khai kinh vô tự đặng nhìn quả duyên.

Đắc văn sánh thông Thiên định Địa,

Phép huyền công trụ nghĩa hóa thân;

Kỵ Kim quan, kiến Lão Quân,

Dựa xe như ý oai Thần tiễn thăng./.

KINH ĐỆ LỤC CỬU

Bạch Y Quan mở đàng rước khách,

Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa;

Vào cung Vạn Pháp xem qua,

Cho tường cựu nghiệp mấy tòa thiên nhiên.

Cung Lập Khuyết tìm duyên định ngự,

Lãnh Kim Sa đặng dự Như Lai;

Minh Vương, Khổng Tước cao bay,

Đem chơn Thần đến tận đài Huệ Hương.

Mùi ngào ngạt thơm luôn Thánh thể,

Trừ tiêu tàn ô huế sinh quang;

Thiên thiều trổi tiếng nhặt khoan,

Đưa linh thẳng đến Niết bàn mới thôi./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KINH ĐỆ THẤT CỬU

Nhẹ phơi phới dồi dào không khí,

Hạo Nhiên Thiên đã chí môn quan;

Đẹp xinh cảnh vật đòi ngàn,

Hào quang chiếu diệu khai đàng thăng Thiên.

Cung Chương Pháp xây quyền tạo Hóa,

Kiến Chuẩn Đề thạch xá giải thi;

Dà Lam dẫn nẽo Tây qui,

Kim chung mở lối kịp kỳ kỵ sen.

Động Phổ Hiền, Thần Tiên hội hiệp,

Dỡ Kim cô đưa tiếp linh quang;

Im lìm kìa cõi Niết bàn,

Lôi Âm trống thúc lên đàng Thượng Thiên./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KINH ĐỆ BÁT CỬU

Hơi Tiên tửu nực nồng thơm ngọt,

Phi Tưởng Thiên để gót tới nơi;

Mùi trần khi đã xa khơi,

Say sưa bầu khí bồi hồi chung phong.

Cung Tận thức thần thông biến hóa,

Phổ Đà Sơn giải quả Từ Hàng;

Cởi Kim Hẫù, đến Tịch San,

Đẩu vân nương phép Niết Bàn đến xem.

Cung Diệt Bửu ngọc rèm đã xủ,

Nghiệp hữu tình tượng đủ vô vi;

Hồ tiên vội rót tức thì,

Nước Cam lồ rửa ai bi kiếp người./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KINH ĐỆ CỬU CỬU

Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,

Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng;

Hội Bàn Đào, Diêu Trì Cung,

Phục sinh đào hạn rượu hồng thưởng ban.

Cung Bắc Đẩu xem căn quả số,

Học triều nghi vào ở Linh Tiêu;

Ngọc Hư Cung, sắc lịnh kêu,

Thưởng, phong, trừng trị, phân điều dọa thăng.

Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,

Tạo hình hài các bậc nguyên nhân;

Cung Trí Giác, trụ tinh thần,

Hườn hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KINH TIỂU TƯỜNG

Tịnh niệm phép Nhiên Đăng tưởng tín,

Hư vô Thiên đến thính Phật điều;

Ngọc Hư đại hội ngự triều,

Thiều quang nhị bá thiên kiều đề chơn.

Bồ Đề Dạ dẫn hồn thượng tấn,

Cực Lạc Quan đẹ phận Tây Qui;

Vào Lôi Âm kiến A Di,

Bộ công Di Lạc Tam Kỳ độ sanh.

Ao Thất Bửu gội mình sạch tục,

Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam;

Vạn linh trổi tiếng mừng thầm,

Thiên thơ Phật tạo độ phàm giải căn./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

-KINH ĐẠI TƯỜNG

Hổn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo Chủ,

Di Lạc đương thâu thủ phổ duyên;

Tái sanh sửa đổi chơn truyền,

Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong.

Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị,

Cõi tây Phang đuổi quỉ trừ ma.

Giáng linh Hộ Pháp Di Đà,

Chuyển cây ma xử đuổi tà trục tinh.

Thâu các đạo hữu hình làm một,

Trường thi Tiên, Phật dượt kiếp khiên;

Tạo đời cải dữ ra hiền,

Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KINH THỈNH VONG NHẬP ĐÀN

(đọc tại bàn Thầy)

Thái dương chiếu khắp chúng sanh,

Xét xem muôn việc dữ lành đoán phân.

Nam Tào nắm số dương trần,

Độ sanh, độ tử cầm cân song bằng.

Lòng Trời thương kẻ thiện căn,

Chờ ngày mãn thế phi thăng Thiên đàng.

Đê đầu khấu bái Thiên Nhan,

Chư nho đến giúp trai đàng cầu siêu.

Noi theo luật pháp Thiên điều,

Triệu hồn phản bộ bái triều đàng trung.

Cúi xin Thượng Đế nhiêu dung,

Cho hồn trở lại trùng phùng tử tôn.

Nay (tên họ ……) phần hồn,

Còn chờ chiếu chỉ phi bôn nhập đàn./.

(3 lạy, mỗi lạy 4 gật)

-KINH CẦU SIÊU (Bài 1)

Kim đệ tử điện tiền khẩn đảo,

Nguyện linh hồn huờn đáo Thiên Đường;

Huyền Khung chứng chiếu trần dương,

Thành tâm phục nguyện tận tường trai tăng.

Tang chủ nguyện lập đàng nghiêm thiết,

Vì thảo ân hiếu yết Cao Tiên;

Độ hồn ly khổ phương viên,

Thoát đường ly tiết ngục tiền, hồi thiên.

Đại Từ Phụ chứng miên đệ tử,

Chiếu tâm đàn ân tứ, từ bi;

Độ vong địa ngục thoát ly,

Siêu thăng cực lạc hồi qui thiên đường.

Hoặc hữu tội trần dương tiền kiếp,

Hoặc Kim sanh theo nghiệp oan khiên.

Từ bi hỉ xả an nhiên,

Độ hồn siêu thoát kiền thiên phản hồi.

Sắc Thượng Đế Tam Kỳ đại xá,

Lịnh Huyền Khung phổ hóa nhơn sanh;

Qui nguyên chánh đạo nhơn thành,

Huờn Tiên thiên lý độ sanh tử hồn.

Đầu lễ bái chư Tôn liệt vị,

Cầu linh hồn thọ ký Phật bang;

Chứng lòng trai chủ trần gian,

Chư nho tề tựu trai đàn thành-tâm.

Đức Từ Phụ cao thâm cảm hóa,

Đại từ bi phóng xả siêu hồn.

Nam mô Chủ Tể Kiền Khôn,

Huyền khung, Ngọc Đế độ hồn siêu thăng.

Quyền Giáo Chủ Tây phương Phật pháp,

Độ linh hồn siêu thoát luân hồi;

Nam mô Thích Ca Như Lai,

Độ hồn lai đáo Phật đài Tây phang.

Đạo diệu luật, bảo toàn độ thế,

Chưởng khắp quyền Phổ tế nhơn phàm;

Nam mô Thái Thượng Lão Đam,

Dẫn hồn đăng cảnh Tiên bang hưởng nhàn.

Nhờ Thánh đức chứng đàng nghiêm thiết,

Phục Nho Tông nghi tiết tri hiền;

Nam mô Khổng Thánh Văn Tuyên,

Dẫn vong đắc lộ hy hiền tường tri.

Quyền Giáo Tông Tam Kỳ Phổ Độ,

Lập Tiên thiên cứu khổ nhơn sanh.

Nam mô Thái Bạch trường canh,

Độ vong thoát tục siêu sanh thiên đường.

Cứu khổ nạn trần dương bi khổ.

Phóng Kim quang bảo hộ thậm thâm;

Nam mô Nam Hải Quan Âm,

Độ vong thoát cảnh đọa trầm trần ai.

Nghĩa chí vỏng Hùng-oai, Thánh võ,

Phò Hớn triều kết lập Thu Xuân.

Nam mô Quan Thánh Đế Quân,

Dà Lam Phật hiện độ vong đắc thành.

Hoặc sanh tiền cạnh tranh tạo tội,

Chư môn sanh sám hối cầu siêu;

Cầu linh hồn, đắc tiêu diêu,

Hưởng phần khoái-lạc Linh Tiêu cảnh nhàn.

Hoặc tiền kiếp tạo đoan ác nghiệp,

Chư Nho cầu tận-diệt oai khiên;

Hưởng chung phước huệ Cao Tiên,

Tri căn giác ngộ đắc duyên đạo truyên./.

(3 lạy, mỗi lạy 4 gật)

KINH CẦU SIÊU (Bài 2)

Trên Thiên Bàn khói hương ngui ngút,

Dưới trẻ con dưng chút thành tâm;

Mong ơn hà hải cao thâm,

Truyền ban Đại đạo sửa lầm thế gian.

Tam Kỳ Đạo đã ban cứu thế,

Ơn Cao Đài Thượng Đế rất sâu;

Ơn Thầy độ khắp hoàn cầu.

Đem về đạo chánh ngỏ hầu sửa thân.

Phật Tiên Thánh chư Thần đắc linh,

Giúp tay Thầy chấn chỉnh nền tu;

Dạy đời mở trí phàm ngu,

Tỉnh tu một kiếp, thiên tu thanh nhàn.

Xưa lầm lỗi dị đoàn, mê tín,

Con tưởng lầm vọng thỉnh cầu siêu;

Đặng mong tội lỗi tiêu điều,

Ngày nay nghĩ lại, Trời chiều đặng sao?

Bừng mắt dậy chiêm bao sực tỉnh,

Lễ cầu siêu biết chính là đây;

Chứng đàn mong có linh Thầy,

Triệu hồn kẻ thác đến rày đàng trung.

Tuồng thế sự lạnh lùng gây trở,

Thân của hồn lỡ dỡ bao phen;

Trót cam trong cảnh thấp hèn,

Mừng, vui, giận, ghét, đua chen thất tình.

Nỗi lục dục gập gình nơi dạ,

Khiến thân phàm quên cả lý chơn;

Tranh danh đoạt lợi thua hơn,

Vần xoay trong kiếp cá nhơn hưởng nhờ.

Chữ Thiên đạo đành ngơ chẳng biết,

Biết đạo người mài miệt hiến thân;

Chẳng tu chẳng luyện chơn thần,

Để cho bụi tục lấp lần linh quang.

Hoặc khi sống phục hàng Thiên đạo,

Mà chỉ xoay vào đạo dị đoan;

Hôm nay, kiếp tỉnh mơ màng,

Nghe chuông siêu độ tìm đàng quy thiên.

(12 tiếng chuông)

Người ở thế có duyên cùng chẳng,

Tiếng lạc lầm có hẳn nào sai;

Rủi chơn lỡ bước lạc loài,

Ăn năn tự cứu khỏi nơi tội tình.

Khi ở thế gây hình tư tưởng,

Tửu, khí, tài, sắc vướng vào thân;

Tội kia hẳn cũng có phần,

Bịnh, Sinh, Lão , Tử bốn lần phải mang.

Lúc đã thác tội tràn dạ chịu,

Hồn tuy theo đủ thiếu kiếp tu;

Hoặc thăng vào cảnh thiên thu,

Hoặc vào chịu tội Diêm U hai đàng.

Hồn còn xác, mơ màng với xác,

Quên suy điều thiện ác mà tu;

Nay hồn lìa khỏi Diêm Phù,

Hồn khôn suy lấp, mà tu chánh đàng.

Dầu Tiên Phật còn mang nhục thể,

Cũng phải cam tội lệ như người;

Phật Tiên nào khác vẻ người,

Nhờ ăn ăn tội tá Trời giáo nhơn.

Nay cầu siêu mong ơn Từ Phụ,

Truyền điển quang khuyến nhủ hồn linh;

Hồn đương trong cảnh gập gình,

Tiếp tròn linh điển dọn mình thoát lên./.

(3 lạy, mỗi lạy 4 gật)

KINH CẦU SIÊU (Bài 3)

Đầu vọng bái Tây phương Phật Tổ,

A Di Đà Phật độ chúng dân.

Quan Thế Âm lân mẩn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát,

Bồ từ bi tế bạt vong hồn.

Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,

Miền Âm cảnh mục khôn khai giải.

Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại,

Độ kẻ lành chế cải tai ương.

Chốn dạ đài Thập Điện Từ Vương,

Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.

Giảm hình phạt bớt đường ly tiết,

Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.

Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên,

Nơi Phước địa ở yên tu luyện.

Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,

Hộ thương sanh u hiển khương ninh./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

5.2. LỄ CÁO TIÊN LINH

Xướng:

-Hiếu chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

KỆ NGUYỆN HƯƠNG

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương,/.

Xướng:

Thượng hương, lễ tứ bái, quỳ.

KỆ CÁO TIÊN LINH

Thượng Đế truyền ra ân sắc phân,

Chư nho đệ tử đến thi ân,

Tụng cầu siêu độ vong hồn tử,

(Bá nhựt ……) chi tuần lễ hiến dưng.

Đọc tiếp theo

Nguyền Tiên linh ngậm ngùi chín suối,

Chứng cháu con đầu cúi khẩn cầu.

Tang ba năm đoái hiếu lòng sầu,

Nguyền cùng Trời Phật khẩn cầu tụng kinh./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu. lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu, lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

KINH CÁO TIÊN LINH

Ơn Trên bố đức rộng thinh,

Dẫn hồn lên đặng quang minh cõi Trời.

Chí thành nguyện vái như lời,

Cầu cho Thất Tổ muôn đời tiêu diêu.

Ơn tình gánh nặng thâm yêu,

Hiếu trung vẹn giữ đừng siêu lòng tà.

Cúi đầu làm lễ ông bà,

Rước về chứng thính, Di Đà thiết kinh.

Có ông Địa Tạng thân nghinh,

Dẫn hồn về chốn bửu tinh tòa vàng.

Tín thành thiết lập trai đàng,

Cầu Trời khẩn Phật huy hoàng cầu siêu./.

(đọc bài nầy 3 lần)

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

5.3. LỄ CÚNG VONG

Xướng:

Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

KỆ NGUYỆN HƯƠNG

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn./.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ.

KINH THỈNH VONG A

(Những người khi sanh tiền có tu hành)

Mừng thay rảnh đặng cuộc trần,

Tiêu diêu cõi thọ tinh thân thêm tươi.

Vườn xuân đạo lý vui cười,

Chào mừng bạn cũ khỏi mười ngục quan.

Linh hồn trở lại Tiên bang,

Thỏa lòng hứng cảnh Thiên Đàng viếng thăm.

Vui vầy cùng bạn tri âm,

Nhớ khi ở thế bạn cầm tửu thi.

Người người đồng niệm A Di,

Cầu cho u hiển kịp kỳ linh tiêu.

Mau mau trở lại dắt dìu,

Đem chư đạo hữu bái triều Tiên Ông.

Cùng nhau du ngoạn non bồng,

Phỉ tình cá nước đạo đồng trước mai.

Khi xưa thờ Đức Cao Đài,

Nay về chốn cũ bệ giai chực chầu.

Trãi xem trong cuộc bể dâu,

Tu hành là đạo đứng đầu nhơn gian.

Xem qua trong máy hành tàng,

Một ngày cõi thọ là ngàn thế gian.

Giờ nay đặng chút huy hoàng,

Tửu trà huê quả bỉ bàng kỉnh dưng.

Tỏ trong đạo đức chúc mừng,

Cầu cho quý phách lẫy lừng Thiên Thai.

Chư nho vưng lịnh Cao Đài,

Thỉnh hồn đạo hữu cấp lai linh sàng./.

KINH THỈNH VONG B

(Trong Tiên linh khi sanh tiền chưa vào đạo, tu hành))

Buồn thay chi xiết nỗi buồn,

Người đời sống thác tợ luồng gió qua.

Vừng mây lững đững ác tà,

Cỏ cây tươi tốt ngân hà rạng trong.

Sum sê hạc gáy Non Bồng,

Hồn linh nương gió xích tòng ở an.

Là người bước tới Tiên Bang,

Lánh nơi thế trược tìm đàng thanh tân.

Cũng là nhứt mạch chí thân,

Dương gian, Âm cảnh ân cần vãng lai.

Chư nho vưng lịnh Cao Đài,

Triệu luôn hồn phách cấp lai linh sàng./.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ.

KINH CÚNG VONG (Bài 1)

Nay tang chủ đáp lòng hiếu tử,

Thỉnh cao tiên, đệ tử đạo hiền.

Tụng kinh nhờ đức rộng thiêng liêng,

Xin xá tội sanh tiền hung ác.

Cầu Phật Tổ Quan Âm Bồ Tát,

Cho vong linh đặng thoát khổ hình.

Xin linh hồn theo dõi lộ trình,

Về chứng chiếu lễ trình cúng tế.

Trăm năm dốc tưởng thương không phế,

Một dạ thành thọ chế cư tang.

Xin cho hồn phát lạc bình an,

Về Tây vức đặng ban công quả.

Cuộc dương thế trái oan vay trả,

Khỏi nợ trần thong thả cõi Tiên.

Cũng là nhờ đức Hoàng Thiên,

Cho vong nhẹ tách đến miền thế gian.

Tửu trà huê quả bỉ bàn,

Thỉnh hồn trở lại trai đàn nghe kinh./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

KINH DƯNG RƯỢU (Bài 1)

Rượu tuần nhứt châm đầy dưng trước,

Nguyên hương hồn ẩm phước cho vui.

Xin chứng lòng con thảo ngậm ngùi,

Đau dạ trẻ sụt sùi giọt lụy.

Đơn sơ lễ trọn niềm chung thủy

Sự mất còn thờ ví cũng đồng

Ba năm tang hiếu vẹn xong

Chúc cầu (từ mẫu, thân phụ) non bồng tiêu diêu./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

KINH CÚNG VONG (Bài 2)

Nay tang chủ lễ cầu siêu sự

Cậy chư nho đệ tử cao tiên

Tụng kinh nhờ đức rộng Hoàng Thiên

Xin xá tội sanh tiền hung độc

Nguyền Thổ Địa dẫn hồn tức tốc

Đem hồn về chứng hưởng cúng dưng

Nay tang chủ trai tuần ( nhứt cửu……)

Cầu hồn về Tây Vức thung dung.

Nhờ ơn ba vặn ức niên tùng,

Theo chơn Phật ấm cùng chơn Phật.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

KINH DƯNG RƯỢU (Bài 2)

Rượu nhị tuần rót đầy dưng tiếp,

Con rễ dâu đồng hiệp lại quì.

Ơn sanh thành, ơn ví cao dày,

Nghĩa dưỡng dục nghĩa tài rất lớn.

Kìa chín chữ cù lao lồng lộng,

Nọ mười ơn dưỡng dục minh minh.

Biết chi bồi đắp vong linh,

Tạm dùng lễ bạc chứng tình thảo ngay./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

KINH CÚNG VONG (Bài 3)

Biển trần ngày nay lánh khỏi,

Nguyện linh hồn lên cõi thiên thai.

Ngày Tiên tháng Phật rộng dài,

Nương theo ngọn phướn diêu đài ấm thân.

Nay nhờ Ngọc Đế ban ân,Non Tiên bước tới hồng trần khỏi vương.

Người đời mấy cuộc tang thương,

Bịnh, già, sống thác bốn đường tân tao.

Tử sanh thiên số nan đào,

Dày công tu niệm khỏi vào trầm luân.

Ngày nay (Bá nhựt, Tiểu Tường) chi tuần,

Thô trà đạm bạc ba tuần mời khuyên.

Chứng cho gia quyến thảo hiền,

Trai đàn thiết lập lòng thiền cầu siêu.

Sau dầu hồn đặng tiêu diêu,

Đoái tình cốt nhục dắt dìu đồng môn.

Sự vong như thể sự tồn,

Xác phàm tuy mất linh hồn còn y.

Hôm nay mở cuộc siêu kỳ,

Cầu cho hồn phách đồng qui Thiên Đường./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

KINH DƯNG RƯỢU (Bài 3)

Rượu nầy lễ ba tuần xin rót,

Cúi lạy quì đôi giọt dầm sa.

Phế tâm bào, gan ruột xót xa,

Đoạn cốt nhục chia ra hai ngả.

Dạy gia quyến thượng hòa hạ lục,

Lễ mọn nầy nhứt nhứt sánh sô,

Chúc cầu khỏi chốn phong đô,

Được lên cỏi Phật để hầu nghe kinh./,

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, Tấn phạn, kiểm soạn.

KINH TẤN PHẠN

Lễ tấn phạn chứng lòng ngay thảo,

Dưới gối dưng trọn đạo làm con.

Công sanh thành báo bổ cho tròn,

Tình cốt nhục nước non khó sánh.

Nay (cha, mẹ….) đã cõi trần xa lánh,

Nơi gia đàng hiu quạnh sớm khuya.

Vô thường sau vội chia lìa,

Làm cho người thiện phải về đế hương./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà.

KINH DÂNG TRÀ

Trà Bạch Liên hơi lên thơm nức,

Xin tạm dùng lễ tất vừa xong.

Nguyện linh hồn phát hóa non bồng,

Nương cõi Phật, tu công lập quả.

Miền Tiên cảnh thật là phong nhã,

Bước từng mây thông thả sớm trưa.

Phật Tiên là chổ thích ưa,

Lánh miền phàm tục gió mưa bụi trần./.

Xướng:

Lế tất tứ bái, hưng bình thân.

5.4. LỄ CÚNG THỜI NGỌ

(Tiếp theo là lễ cúng thời ngọ, trang…..)

(Nơi Thiên bàn Hội Thánh, Thánh Tịnh, Nhà Tịnh cúng theo nghi thức Tiểu lễ, còn tại tư gia thì nghi thức nầy khi tới bài Lạy mẹ thì dâng Tam bửu, Lời nguyện chung và Ngũ nguyện).

5.5. LỄ THỈNH VONG NHẬP ĐÀN

(Nơi bàn vong)

Xướng:

Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

KỆ NIỆM HƯƠNG

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn./.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ, hiến trà, lễ tứ bái, hưng bình thân, thỉnh vong nhập đàn thính kinh.

BÀI THỈNH VONG

Nay tang chủ dưng trà bồn lạy,

Thỉnh hương hồn khấu bái Phật Trời.

Cầu Từ Bi ân đức độ đời,

Tiêu giảm tội thoát nơi khổ não.

Chúng con đã thành tâm khẩn đảo

Vong siêu thăng môn đạo lâu dài./.

(Tang chủ bưng lư hương đi theo vị chủ đàn đến bàn Thầy xá, nếu vị liễu đạo là chức sắc thì để bàn vong ngay giữa, còn vị ấy chưa thọ phong thì để một bên trước bàn hộ pháp, nam để bên nam, nữ để bên nữ).

5.6. LỄ KHAI KINH

BÀI CẦU NGUYỆN

Nay đệ tử đồng thành tâm khấu bái,

Đại Từ phụ quảng đại từ bi,

Chứng chiếu cho vong hồn ( tên họ …….)

Đầu nhập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

Nay mãn căn chung, phản bổn huờn nguyên

Đệ tử cảm tình đồng cầu vong linh siêu thăng cực lạc.

KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương./.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

SỚ KHAI KINH

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

SỚ DĨ

Tiên thánh lợi sanh, tam thừa ái khải, chánh hội pháp dương, độ tử vi bằng, nhứt trụ tâm lương.

PHỤC DĨ

Đông phương Giáo chủ hoằng khai giải thoát chi môn. Tây trước đạo sư tiếp dẫn vong hồn vãng sanh chi lộ.

TRÌNH TẤU

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

SỚ VI

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi trung, cư trụ.

Phật Tu hương thiết cúng phúng kinh kỳ siêu sự.

Kim tang chủ:…

CUNG CANG

Đại giác năng nhơn phủ thừa tiếp độ vong hồn thọ Thiên ân: ….… Thế danh: ….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng …….tuế.

Ô Hô!

Nhứt tức bất hồi thiên thu vĩnh biệt, tội phước hà kỳ, thăng trầm vị biện, dụng thân báo bổ kỳ trợ vãng sang chi lộ. Tư giả kim ngoạt thị nhựt kỳ siêu (tuần mấy…….) chi tuần, Kim ngôn gia trì mật ngữ kỳ sanh tịnh độ. Kim tắc đạo tràng, trai đàn sơ khải viễn tịnh sớ văn, nhựt hàm hòa nam khấu bái.

TẤU

Nam mô Trung Thiên Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật chứng minh, kim liên tọa hạ.

VIÊN PHƯỢNG

Bát Bộ Hộ Pháp Long Thiên Thập Điện Từ Vương Đại huyền Chơn tể thượng trung hạ giái nhứt thiết thần kỳ. Thổ địa đồng hâm hiến hưởng chi nghi, tiếp dẫn vong hồn vãng sanh chi lộ.

Phục nguyện vong hồn tảo đắc siêu thăng bất nhấp Địa phủ chi u quang, tảo đăng tịnh độ.

Ngưỡng du chư Phật cảm ứng chứng minh

CẨN SỚ

Tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hữu đệ tử hiệp giữtang chủ thành tâm khấu bái.

Thượng sớ./.

CHÚ DIỆT TỘI

Thất Phật diệt tội chơn ngôn:

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, bồ đề tát ta bà ha. (đọc 3 lần)

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

KINH CẦU SIÊU (Bài 1)

Kim đệ tử điện tiền khẩn đảo,

Nguyện linh hồn huờn đáo Thiên Đường;

Huyền Khung chứng chiếu trần dương,

Thành tâm phục nguyện tận tường trai tăng.

Tang chủ nguyện lập đàng nghiêm thiết,

Vì thảo ân hiếu yết Cao Tiên;

Độ hồn ly khổ phương viên,

Thoát đường ly tiết ngục tiền, hồi thiên.

Đại Từ Phụ chứng miên đệ tử,

Chiếu tâm đàn ân tứ, từ bi;

Độ vong địa ngục thoát ly,

Siêu thăng cực lạc hồi qui thiên đường.

Hoặc hữu tội trần dương tiền kiếp,

Hoặc Kim sanh theo nghiệp oan khiên.

Từ bi hỉ xả an nhiên,

Độ hồn siêu thoát kiền thiên phản hồi.

Sắc Thượng Đế Tam Kỳ đại xá,

Lịnh Huyền Khung phổ hóa nhơn sanh;

Quy nguyên chánh đạo nhơn thành,

Huờn Tiên thiên lý độ sanh tử hồn.

Đầu lễ bái chư Tôn liệt vị,

Cầu linh hồn thọ ký Phật bang;

Chứng lòng trai chủ trần gian,

Chư nho tề tựu trai đàn thành-tâm.

Đức Từ Phụ cao thâm cảm hóa,

Đại từ bi phóng xả siêu hồn.

Nam mô Chủ Tể Kiền Khôn,

Huyền khung, Ngọc Đế độ hồn siêu thăng.

Quyền Giáo Chủ Tây phương Phật pháp,

Độ linh hồn siêu thoát luân hồi;

Nam mô Thích Ca Như Lai,

Độ hồn lai đáo Phật đài Tây phang.

Đạo diệu luật, bảo toàn độ thế,

Chưởng khắp quyền Phổ tế nhơn phàm;

Nam mô Thái Thượng Lão Đam,

Dẫn hồn đăng cảnh Tiên bang hưởng nhàn.

Nhờ Thánh đức chứng đàng nghiêm thiết,

Phục Nho Tông nghi tiết tri hiền;

Nam mô Khổng Thánh Văn Tuyên,

Dẫn vong đắc lộ hy hiền tường tri.

Quyền Giáo Tông Tam Kỳ Phổ Độ,

Lập Tiên thiên cứu khổ nhơn sanh.

Nam mô Thái Bạch trường canh,

Độ vong thoát tục siêu sanh thiên đường.

Cứu khổ nạn trần dương bi khổ.

Phóng Kim quang bảo hộ thậm thâm;

Nam mô Nam Hải Quan Âm,

Độ vong thoát cảnh đọa trầm trần ai.

Nghĩa chí vỏng Hùng-oai, Thánh võ,

Phò Hớn triều kết lập Thu Xuân.

Nam mô Quan Thánh Đế Quân,

Dà Lam Phật hiện độ vong đắc thành.

Hoặc sanh tiền cạnh tranh tạo tội,

Chư môn sanh sám hối cầu siêu;

Cầu linh hồn, đắc tiêu diêu,

Hưởng phần khoái-lạc Linh Tiêu cảnh nhàn.

Hoặc tiền kiếp tạo đoan ác nghiệp,

Chư Nho cầu tận-diệt oai khiên;

Hưởng chung phước huệ Cao Tiên,

Tri căn giác ngộ đắc duyên đạo truyên./.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

KINH CẦU SIÊU (Bài 2)

Trên Thiên Bàn khói hương ngui ngút,

Dưới trẻ con dưng chút thành tâm;

Mong ơn hà hải cao thâm,

Truyền ban Đại đạo sửa lầm thế gian.

Tam Kỳ Đạo đã ban cứu thế,

Ơn Cao Đài Thượng Đế rất sâu;

Ơn Thầy độ khắp hoàn cầu.

Đem về đạo chánh ngỏ hầu sửa thân.

Phật Tiên Thánh chư Thần đắc linh,

Giúp tay Thầy chấn chỉnh nền tu;

Dạy đời mở trí phàm ngu,

Tỉnh tu một kiếp, thiên tu thanh nhàn.

Xưa lầm lỗi dị đoàn, mê tín,

Con tưởng lầm vọng thỉnh cầu siêu;

Đặng mong tội lỗi tiêu điều,

Ngày nay nghĩ lại, Trời chiều đặng sao?

Bừng mắt dậy chiêm bao sực tỉnh,

Lễ cầu siêu biết chính là đây;

Chứng đàn mong có linh Thầy,

Triệu hồn kẻ thác đến rày đàng trung.

Tuồng thế sự lạnh lùng gây trở,

Thân của hồn lỡ dỡ bao phen;

Trót cam trong cảnh thấp hèn,

Mừng, vui, giận, ghét, đua chen thất tình.

Nỗi lục dục gập gình nơi dạ,

Khiến thân phàm quên cả lý chơn;

Tranh danh đoạt lợi thua hơn,

Vần xoay trong kiếp cá nhơn hưởng nhờ.

Chữ Thiên đạo đành ngơ chẳng biết,

Biết đạo người mài miệt hiến thân;

Chẳng tu chẳng luyện chơn thần,

Để cho bụi tục lấp lần linh quang.

Hoặc khi sống phục hàng Thiên đạo,

Mà chỉ xoay vào đạo dị đoan;

Hôm nay, kiếp tỉnh mơ màng,

Nghe chuông siêu độ tìm đàng quy thiên.

(12 tiếng chuông)

Người ở thế có duyên cùng chẳng,

Tiếng lạc lầm có hẳn nào sai;

Rủi chơn lỡ bước lạc loài,

Ăn năn tự cứu khỏi nơi tội tình.

Khi ở thế gây hình tư tưởng,

Tửu, khí, tài, sắc vướng vào thân;

Tội kia hẳn cũng có phần,

Bịnh, Sinh, Lão , Tử bốn lần phải mang.

Lúc đã thác tội tràn dạ chịu,

Hồn tuy theo đủ thiếu kiếp tu;

Hoặc thăng vào cảnh thiên thu,

Hoặc vào chịu tội Diêm U hai đàng.

Hồn còn xác, mơ màng với xác,

Quên suy điều thiện ác mà tu;

Nay hồn lìa khỏi Diêm Phù,

Hồn khôn suy lấp, mà tu chánh đàng.

Dầu Tiên Phật còn mang nhục thể,

Cũng phải cam tội lệ như người;

Phật Tiên nào khác vẻ người,

Nhờ ăn ăn tội tá Trời giáo nhơn.

Nay cầu siêu mong ơn Từ Phụ,

Truyền điển quang khuyến nhủ hồn linh;

Hồn đương trong cảnh gập gình,

Tiếp tròn linh điển dọn mình thoát lên.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

KINH CẦU SIÊU (Bài 3)

Đầu vọng bái Tây phương Phật Tổ,

A Di Đà Phật độ chúng dân.

Quan Thế Âm lân mẩn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát,

Bồ từ bi tế bạt vong hồn.

Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,

Miền Âm cảnh mục khôn khai giải.

Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại,

Độ kẻ lành chế cải tai ương.

Chốn dạ đài Thập Điện Từ Vương,

Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.

Giảm hình phạt bớt đường ly tiết,

Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.

Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên,

Nơi Phước địa ở yên tu luyện.

Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,

Hộ thương sanh u hiển khương ninh./.

Tâm niệm:

Nam Mô chư Phật Tiên Thánh Thần cảm ứng chứng minh.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

BÀI KHAI KINH

Vưng lời Thượng Đế sắc ban,

Tụng kinh siêu độ lớp lang rõ ràng.

Cầu xin độ dẫn Thiên Đàng,

Nương theo cõi Phật dựa màn Bồng Lai.

Đức Thầy xuống lịnh ngày nay,

Tụng kinh Tam Bảo chớ sai điều nào.

Chẵng nên giặm sửa chế vào,

Mắt xem miệng đọc đừng xao lòng tà.

Khai kinh đức Phật Di Đà,

Tụng cầu tiêu tội Diêm La đưa hồn.

Tổ sư Thái Thượng Đức Ông,

Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.

Ngày nay cuối (cuối, đúng…..Ngọ) y giờ,

Cầu xin Thổ Địa ra ơn rước hồn.

Vong linh (tên họ ……) là hồn,

Dắt về lạy Phật tọa bàn nghe kinh./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

5.7. LỄ CÚNG ÂM NHƠN

CHUẨN BỊ

Cúng Âm Nhơn vào buổi chiều ngoài sân, Sắp một cái bàn có đủ nhang đèn bông trái cây trà rượu để nguyện Trời Phật cầu siêu cho Âm Nhơn, con cháu lạy ra. Phía ngoài 1 bàn dài thấp hơn hoặc chảy chiếu dưới đất cũng được dể dọn cúng Âm Nhơn, gồm 12 chén chè hoặc cháo, 12 cây nhang và vài bánh mức, trái cây, gạo nuối.

Xướng:

Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

KỆ

Thánh chúng Tam Kỳ thọ sắc ngôn,

Đàn trung thí thực độ cô hồn.

Ngưỡng cầu Địa Tạng Vương ân xá

Khai xuất Diêm Đình uổng tử môn./.

Xướng:

Thượng hương, lễ tam bái. quỳ, hiến tửu

KINH CÚNG ÂM NHƠN

Cầu Thượng Đế từ bi ân xá,

Xin Diêm Đình vội thả hồn oan;

Nguyện cầu Phật Tổ Tây Phang,

Quan Âm Bồ Tát hộ toàn tội nhơn.

Có câu: Thiên Địa tuần huờn,

Lộn quanh cũng lại chánh chơn một đàng.

Khi xưa dương thế thác oan,

Xuống thành Uổng Tử khôn toan trở về.

Chịu làm ngạ quỉ thảm thê,

Trái oan chưa dứt không bề hội căn.

Độ hồn mau biết ăn năn,

Đem về đạo chánh phi thăng Thiên Đàng.

Hoặc cho trở lại thế gian,

Xử tròn nợ trước. tầm đàng quy tôn.

Thương thay thập loại cô hồn,

Bơ vơ lưỡng cảnh dập dồn tuyết sương.

Ngày đêm xuống hố trên đường,

Nhiễu nhương lân ấp phố phường dọ ăn.

Chịu làm cô độc vô căn,

Phái lưu chẳng có, thân bằng cũng không.

Nhớ câu “nhựt nguyệt quang đồng”,

Cúi xin Bồ Tát rộng lòng cứu nguy.

Độ hồn trở lại qui y,

Hoặc hồi dương thế kịp kỳ Long Hoa.

Cầu cho nước trị dân hòa,

Nơi nơi lạc nghiệp trẻ già bình yên./.

Xướng:

Lễ tam bái. quỳ, hiến tửu

(Đọc bài cúng Âm Nhơn và hiến tửu cho đủ 3 lần rồi hiến trà)

Xướng:

Lễ tam bái. quỳ, hiến trà.

CHÚ VÃNG SANH

Vãng Sanh thần chú quyết định chơn ngôn, bạt nhứt thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ đà la ni.

Nam mô A Di Đa Bà Dạ Đa Tha Dà Đa Dạ Đa Điệt Dạ Tha, A Di Rị Đô Bà Tì, A Di Rị Đa Tất Đam Bà Tì, A Di Rị Đa Tì Ca Lan Đế, A Di Rị Đa Tì Ca Lan Đa, Dà Di Nị Dà Dà Na, Chỉ Ca La Lệ, Ta Bà Ha. (đọc 3 lần).

Xướng:

Lễ tất tam bái, hưng bình thân.

5.8. LỄ HUỜN KINH

KINH NIỆM HƯƠNG

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

SỚ HUỜN KINH

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

PHỤC DĨ

Ngọ Thiên Pháp thực, hiến cúng tô đà la lệ, hương, hoa, đăng, trà, quả, lạc.

SỚ VI

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Phật Tu hương thiết cúng hoàn nguyện kỳ siêu tịnh độ sự nghinh tường tạp phước.

Kim tang chủ:

vi nhựt phần hương tâm thánh khấu bái.

CUNG CANG

Đại giác năng nhơn phủ thừa tiếp độ vong hồn thọ Thiên ân: ….… Thế danh: ….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng …….tuế.

Tư giả hương hoa tố phẩm, cúng dường Phật, Pháp, Tăng, Tam Bửu. Tức nghiêm tọa nãi, tang chủ kỳ siêu chi nhựt, phục mạng lục hòa chi thiện phẩm, Tiên tụng Tam Bửu kinh kỳ siêu tịnh độ kim đắc kinh công, phúng tụng vãng chung.

Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Văn Phật chứng minh kim liên tọa hạ.

Nam mô Thập Phương Vô Lượng thường trụ chi bửu.

Nam mô Thập Điện Đại Đức Từ Vương án tiền chiếc hội phán xuất khổ luân, thị sanh lạc quốc.

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát tiếp dẫn vong hồn, tảo đắc siêu thăng, thiên thượng chi thiên, bất nhập địa trung chi địa.

CẨN SỚ

Tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hữu đệ tử hiệp giữ tang chủ khấu bái.

Thượng tấu dĩ văn./.

CHÚ DIỆT TỘI

Thất Phật diệt tội chơn ngôn:

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, bồ đề tát ta bà ha. (đọc 3 lần)

(3 lạy, mỗi lạy 12 gật)

BÀI HUỜN KINH (Số 1)

Ngày nay rảnh cuộc khai tuần,

Nhờ on Thượng Đế chứng đàn đã lâu.

Cực lòng Chư Phật ứng chầu,

Lạy đưa chư Phật hồi chầu Thượng cung./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

BÀI HUỜN KINH (Số 2)

Sắc trên truyền dạy tụng kinh,

Ngày nay ra Ngọ xin trình Thầy hay.

Lễ xong tất việc bữa nay,

Huờn lai kinh kệ xin Thầy chứng tri.

Chư nho đồng đến trước quỳ,

Cúi đầu lễ bái hồi quy tu hành./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

TỐNG THÁNH

Ơn Phật Tổ từ bi độ thế,

Chứng trai đàn thiện lễ hiến cung;

Có câu: Thiện nguyện Thiên tùng,

Lòng thành cầu khẩn Trời dung lỗi lầm.

Đàn tràng trai chủ nhứt tâm,

Mừng cho (tên họ…….) khỏi lâm luân hồi.

Giờ nay siêu sự an rồi,

Lạy đưa Tiên Thánh phản hồi Thượng cung./.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

BÀI ĐƯA VONG

Ngày nay tế lễ đã xong,

Chư nho hiếu quyến đưa vong thượng đàng.

Ngưỡng cầu Thổ Địa Thành Hoàng,

Dẫn hồn nhẹ tách dậm ngàn Thiên Thai.

Dựa màn Phật Tổ Như Lai,

Kệ kinh gìn giữ hôm mai tu trì.

Rèn lòng bác ái từ bi,

Dắt dìu hậu tấn đồng qui hưởng nhàn.

Luân hồi lục đạo khỏi mang,

Vinh hoa, phú quý phàm gian nào màng.

Nguơn thần trở lại ngôi Càn,

Là nơi cảnh củ ẩn tàng thuở xưa.

Biển trần tang khổ nên chừa,

Người mang xác thịt lọc lừa chưa xong.

Thiện căn, thiện quả bền lòng,

Chờ ngày thoát xác non bồng gặp nhau.

Phước Thần phướn báu phất màu,

Cúi đầu lễ tống thanh cao phi đằng./.

(Nếu tuần Đại Tường thì đọc kinh Trừ phục trước rồi mới đọc sớ Huờn kinh)

SỚ TRỪ PHỤC

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.

Kim vì …………………… chi tuần dĩ đáo. Hội thỉnh đạo tràng thành tụng chơn kinh, kỳ siêu bạc độ vong hồn thọ Thiên ân: ….… Thế danh: ….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng …….tuế.

Kim tang chủ:

Hiệp tang chủ nam nữ đại tiểu đẳng, hương hoa tố phẩm lễ nghi phượng hiến đồng bái trừ phục chi tuần văn thân trình tấu

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Lực Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát tiếp dẫn hương hồn siêu thăng cực lạc.

Kim nhựt quyến thuộc tang chủ đại tiểu đẳng tam niên mãn phục chi tuần, nghinh tường tạp phước, vạn thọ vô cương, cẩn cụ sớ văn, Thượng trình, ai tấu !

Bá Bái Dĩ Văn.

5.9. LỄ CÚNG CỬU HUYỀN

Xướng:

Từ tôn tựu vị, giai quỳ, phần hương nguyện hương.

KỆ NIỆM HƯƠNG

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương,/.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quì, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

 

KINH CÚNG TIÊN LINH

Nay con cháu đền ơn sanh dục,

Triêu….tịch…điện dưng kỉnh chúc chay tu.

Cù lao ân đức nan thù,

Lễ dưng tổ phẩm điện du linh tòa.

Đồng kỉnh cáo ông bà, cô bác,

Chứng chút tình đạm bạc thô sơ.

Trăm năm giữ việc phượng thờ,

Ngày đêm hương lửa chớ lơ lảng lòng.

Cuộc trần thế tròn xong mạc trắc,

Lễ hiển u, nam bắc phân kỳ.

Tuy rằng hai ngã biệt ly,

Chơn linh sau cũng hội kỳ Linh Tiêu.

Tu công đức kỳ siêu Thất Tổ,

Cầu từ bi tế độ cửu huyền.

Người mà thiện quả thiện duyên,

Muôn năm dựa cảnh Phật Tiên hưởng nhàn./.

5.10. LỄ CÚNG VONG TRỪ PHỤC

Xướng:

Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

KỆ NIỆM HƯƠNG

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn./.

Xướng:

-Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

KINH DƯNG RƯỢU (Bài 1)

Rượu tuần nhứt châm đầy dưng trước,

Nguyên hương hồn ẩm phước cho vui.

Xin chứng lòng con thảo ngậm ngùi,

Đau dạ trẻ sụt sùi giọt lụy.

Đơn sơ lễ trọn niềm chung thủy

Sự mất còn thờ ví cũng đồng

Ba năm tang hiếu vẹn xong

Chúc cầu (từ mẫu, thân phụ…) non bồng tiêu diêu.

Xướng:

Lệ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

KINH DƯNG RƯỢU (Bài 2)

Rượu nhị tuần rót đầy dưng tiếp,

Con rễ dâu đồng hiệp lại quì.

Ơn sanh thành, ơn ví cao dày,

Nghĩa dưỡng dục nghĩa tài rất lớn.

Kìa chín chữ cù lao lồng lộng,

Nọ mười ơn dưỡng dục minh minh.

Biết chi bồi đắp vong linh,

Tạm dùng lễ bạc chứng tình thảo ngay./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

KINH DƯNG RƯỢU (Bài 3)

Rượu nầy lễ ba tuần xin rót,

Cúi lạy quì đôi giọt dầm sa.

Phế tâm bào, gan ruột xót xa,

Đoạn cốt nhục chia ra hai ngả.

Dạy gia quyến thượng hòa hạ lục,

Lễ mọn nầy nhứt nhứt sánh sô,

Chúc cầu khỏi chốn phong đô,

Được lên cỏi Phật để hầu nghe kinh./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

KINH CÚNG VONG

Nay tang chủ trai đàn cung phụng,

Thỉnh đạo nhơn tùy tụng hiền ngôn.

Hể làm người phải kính sở tôn,

Ơn cúc dục ôn tồn trọn Đạo.

Nguyện Trời Đất chứng tri môn đạo,

Hộ hương hồn thủ bảo cháu con.

Nghĩa sanh thành ví tợ nước non,

Tình (Thân Phụ, Mẫu tử…) cho tròn đạo cả.

Nay phân nhau âm dương hai ngã,

Thảm thương này nào thỏa ruột đau.

Cõi dương trần lời hẹn với nhau,

Vì ai khiến mà mau vội tách.

Dây oan trái dứt rồi trả sạch,

Phủi nợ trần hồn phách theo Tiên,

Giữ Đạo mầu nhờ đức Thiêng Liêng,

Nhờ Địa Tạng tự nhiên tế bạc.

Lòng thành kỉnh ba tuần rượu lạt,

Lễ đáp dưng đạm bạc muối dưa.

Nay ơn đền báo bổ tình xưa,

Đầu cúi lạy như mưa dầm ướt.

Nghĩa (sanh thành..) sánh tài non nước,

Tình (Phụ tử, Mẫu tử) những ước trăm năm.

Hởi hóa công tôi dám hỏi thăm,

Vì sao vậy, tích tâm vắng bặt.

Ân ái nguyên, trọn tình đinh sắt,

Chia đôi đàng như cắt lá gan.

Xin hương hồn dặm thẳng cho an,

Nương cõi thọ sửa sang tu luyện./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, tấn phạn, kiểm soạn..

KINH TẤN PHẠN

Lễ tấn phạn chứng lòng ngay thảo,

Dưới gối dưng trọn đạo làm con.

Công sanh thành báo bổ cho tròn,

Tình cốt nhục nước non khó sánh.

Nay (cha, mẹ….) đã cõi trần xa lánh,

Nơi gia đàng hiu quạnh sớm khuya.

Vô thường sau vội chia lìa,

Làm cho người thiện phải về đế hương./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà.

KINH DƯNG TRÀ

Trà Bạch Liên hơi lên thơm nức,

Xin tạm dùng lễ tất vừa xong.

Nguyện linh hồn phát hóa non bồng,

Nương cõi Phật, tu công lập quả.

Miền Tiên cảnh thật là phong nhã,

Bước từng mây thông thả sớm trưa.

Phật Tiên là chổ thích ưa,

Lánh miền phàm tục gió mưa bụi trần./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

BÀI CÚNG VONG (Trừ phục)

Chúng tang chủ trước bàn phủ phục,

Ngỏ lâm đền cúc dục mười ơn..

Xin thân sanh chứng chút lòng đơn,

Lễ đạm bạc chớ hờn lòng trẻ.

Nay …… (trừ phục) noi theo cổ lễ,

Thâm ân nầy nào dễ ngui ngoai.

Nghĩa sanh thành đâu dám lợt phai,

Ơn dưỡng dục oằn vai gánh nặng.

Trong gia lễ sách xưa có dặn,

Tang ba năm đồ trắng đội mang.

Tưởng ân tình cốt nhục khóc than,

Nhớ nghĩa nặng ruột gan như cắt.

Nay phân chia kẻ nam người bắc,

Mai ra vào, tích bặt vắng tâm.

Đau đớn lòng giọt lụy khôn cầm,

Kim châm dạ đơn tâm khó giải.

Lễ (mãn phục ……) tế thành như tại,

Thỉnh chư nho sùng bái tụng cầu.

Trước trai đàn sớ điệp khải tâu,

Khỏi oan nghiệt, khẩn cầu siêu độ.

Xin linh hồn quang minh tỉnh ngộ,

Cảnh bồng lai thượng lộ đăng trình.

Kệ kinh khuya sớm giỡ gìn,

Huỳnh định tụng niệm dựa cành Phật Tiên.

VĂN ĐẠI TƯỜNG TRỪ PHỤC

Nợ trần thế ngày nay đã dứt,

Nương mây lành Tây Vức dời chơn.

Chẳng còn so thiệt tính hơn,

Theo chầu đức Phật linh đơn cứu đời.

Linh hồn nay đặng thảnh thơi,

Về miền cực lạc đời đời thung dung.

Tròn câu Ngũ lý Tam tùng,

Ba năm trọn đạo chung cùng quái tang.

Giờ nay thiết lập trai đàn,

Đại tường chi lễ Phật đàng cầu siêu.

Muối dưa tạm dụng ít nhiều,

Chứng minh gia quyến tịch triêu vọng cầu.

Trăm năm mấy cuộc bể dâu,

Hồn linh theo Phật ngõ hầu siêu thăng.

Tưởng câu mộ tỉnh Thiên Đàng,

Cúi xin Đức Phật gia-tăng phước lành.

Lễ dưng cúng hiến sẵn dành,

Trừ tang tập phước nghinh thành vô cương./.

VĂN CÚNG VONG ĐẠI TƯỜNG

Non khưu lãnh muôn năm lạc nghiệp,

Biển trần ai một kiếp rảnh rồi;

Nay đà trở lạy cựu ngôi,

Thỏa lòng hứng cảnh phủi rồi trần gian.

Khỏi vương cuộc thế trái oan,

Huỳnh-đình lo tụng Thiên đàng lần lên.

Này nhờ Đức Phật bề trên,

Mở lòng sáng láng quên nền mê tân.

Cuộc trần ràng buộc ái ân,

Bịnh, Già, Sống, Thác bốn đường tân tao.

Giờ đây đủ mặt thân bằng,

Đại tường thiết lập trai đan cầu siêu.

Chúc cho hồn đặng tiêu diêu,

Bồng lai bước tới động kiều lần qua.

Hai nơi vốn thiệt quê nhà,

Trần gian là chốn trẻ già lộn quanh.

Nay đà thoát khỏi tử sanh,

Phú, Bần, Quới, Tiện dữ lành khỏi vương.

Lễ dưng chúc thọ vô cương,

Cao lương mỹ vị, rau tương thế hành.

Có câu: Sự tử như sanh,

Gia đàng thân tộc lòng thành kính dưng.

Tam bôi, mỹ tửu sơ tuần,

Cúi đầu bốn lạy, lễ mừng đoàn viên.

Muôn năm Tiên cảnh nhàn yên,

Tiêu diêu khoái lạc, lánh miền trầm luân.

Rượu hâm tạm trảng nhị tuần,

Đầu dưng bốn lạy lễ mừng đăng Tiên.

Muôn năm giữ tánh thiêng liêng,

Ngày Tiên tháng Phật vui miền trời xuân.

Hiến chung rượu lễ tam tuần,

Cúi xin cạn hưởng ngỏ mừng cháu con.

Thủy chung hai chứ giữ tròn,

Âm dương tuy cách nghĩa còn bền dai.

Dặn lòng mựa chớ đơn sai,

Thương con mến cháu vãng lai linh sàng.

Nay đà rảnh cuộc thương tan,

Chúc đưa quý phách Thiên đàng tầm lên.

Bồng lai nhược thủy vững bền,

Luyện đơn nấu thuốc lam nền tiên gia.

Cảnh Tiên biết thuở nào già,

Muôn năm vui hưởng Thiên tòa hân hoan.

Ngày nay trừ phục đã an,

Thanh trà đạm bạc lễ toàn kỉnh dưng.

Lòng thành cúi lạy bốn tuần,

Chứng cho con thảo mấy từng thô sơ.

Xuân thu tế tự trọn thờ,

Sanh thành nghĩa trọng, ngày giờ chẳng quên./.

Xướng: Lễ nhị bái, quỳ, Giải phục chi nhơn các trừ kỳ phục

KỆ

Ba ta ăn ở nẻo xưa nay

Trong lòng gìn giữ ba năm chày

Lễ thành trừ phục ấy ngoài nầy

Thầy biểu Thần về cấm lai vãng

Nhược đáo vong linh tội đã gia.

BÀI GIẢI PHỤC

(chén nước, bông, lược)

Thần thủy giải uế họa khứ, phước lai.

Nhứt tảo phát giải trừ tang phục.

(lấy lược chảy trên đầu người thọ tang và lấy bông nhúng nước rãi trên đầu).

Trai chủ thọ khương ninh

Nhì tảo phát giải trừ tang phục

Vong hồn siêu thanh tịnh độ

Tam tảo phát giải trừ tang phục

Chư hung thần ác sát viễn khứ tha phương.

Kệ

Xuân nghinh bá phước

Hạ tập thiên tường

Thu thọ phong niên

Đông ngộ tam tinh cũng chiếu.

Xướng:

Lễ tất tứ bái.

5.11. LỄ CÚNG VÕ LÂM QUÂN

(Đặt bàn võ Lâm Quân để đốt tang ngoài sân)

Xướng: Vong tựu án tiền, chủ lễ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương, Phụng thỉnh Võ Lâm Quân Tôn Thần đồng lai chứng hưởng, thượng hương, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu, lễ tam bái, quỳ hiến trà, lễ tất tam bái.

Rồi đốt tang.

CHÚ ĐỐT TANG

Sắc thần hỏa linh linh tá hạ,

Án Thần thủy thanh thanh.

Nhứt sái chư Phật cảm ứng chứng minh,

Nhì sái vong hồn siêu sanh tịnh độ.

Tam sái trai chủ tăng long phước thọ,

Các xướng thiên thu thọ vạn vạn tuế./.

KINH ĐƯA VONG ĐẠI TƯỜNG

Phủi rồi trần tục hồi quê,

Trở về đường cũ ủ ê lòng sầu.

Đưa vong trở lại chực chầu,

Xin hồn trở lại đặng chầu Thượng Cung.

Phiền cùng Thổ Địa rộng dung,

Dẫn hồn trở lại thẳng dùng làm chi.

Đưa vong trở lại qui y,

Giao lai có chỗ như khi rước hồn.

Ngày nay tế lễ đã xong,

Trở về ngôi cũ cội tòng xuê xang./.

Xướng:

Lễ tất tứ bái., hưng bình thân.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

NGHI LỄ HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

VII- PHẦN KINH TÙY THEO VIỆC

- KINH NHẬP HỘI

(Giọng Nam Xuân)

Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,
Giữa Tây Phương nắm giữ Thiên Điều;

Dưới Ngọc Hư, kể bao nhiêu,

Thiêng Liêng các Đấng lập triều trị dân.

Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết,
Hai dạy răn cho biết tội tình;

Ba lo trị thế thái bình,

Cộng chung Pháp Luật Thiên Đình chí công.

Các con vốn trong vòng Thánh thể,
Phép tu vi là kế tu hành;

Mở đường tích cực oai linh,

Cậy phương thuyết giáo vẽ thành kinh chơn.

Đại Từ Phụ ra ơn dìu dẫn,
Diệt trí phàm hờn giận ghét ganh;

Để tâm dưới ánh Chí Linh,

Soi tường chơn lý chỉ rành chánh văn.

Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi,
Mượn Thánh ân xây đổi cơ Đời;

Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,

Câu kinh Vô Tự độ người thiện duyên.

Nguyện Ơn Trên cho yên trí não,
Nguyện Phật Tiên dạy bảo chơn linh;

Mang danh Hội Thánh đã đành,

Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn.

Niệm:

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

. (Niệm 1 lần)

- KINH XUẤT HỘI

(Giọng Nam Xuân)

Nhờ Chí Tôn dạy khôn lẽ Đạo,
Phật Thánh Tiên nhỏ máu nhiệt thành;

Vạn linh đã hiệp Chí linh,

Hội xong cậy sức công bình Thiêng Liêng.

Đã gầy dựng nên quyền giáo hóa,
Phòng hiệp vầy trọn cả nguyên nhân;

Vẹn toàn phàm thể thánh thân,

Tùng theo Chơn pháp độ lần chúng sinh.

Các con cúi đầu trình Sư Phụ(cúi đầu)
Gìn từ tâm khuyến nhủ tăng đồ;

Đạo hư vô, Sư hư vô,

Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.

Cứ nương dưới máy linh cơ Tạo,
Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà;

Cửa Địa Ngục, chóng lánh xa,

Mượn hình Thánh thể cất nhà cõi Thiên.

Niệm:

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(Niệm 1 lần)

- KINH VÀO HỌC

(Giọng Nam ai)

Đại Từ-Phụ xin thương khai khiếu,

Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ.

Gần điều nên, lánh lẽ hư,

Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.

Dò đường Thánh khó khăn chẳng nại,

Tùng khuôn hồng nhỏ dại lớn khôn.

Buộc yêu thương bạn đồng môn,

Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.

Nguyện Tam Cang gìn tâm trọn đạo,

Nguyện Ngũ Thường hiếu thảo làm khuôn.

Nguyện nên hương hỏa Tông đường,

Nguyện thương lê thứ trong trường công danh.

Cầu khẩn Ðấng Chơn linh nhập thể,

Ðủ thông minh học lễ học văn.

May duyên gặp hội Long vân,

Thuyền thơ ngọn gió Các Ðằng xuôi đưa.

Niệm:

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát

(Niệm 1 lần)

- KINH KHI ĐI NGỦ

(Giọng Nam Xuân)

Các vật dục xảy ra một buổi,

Cả hành vi lầm lỗi khôn ngừa.

Sấp mình cúi lạy xin thưa,

Ơn trên Từ-Phụ cho chừa tội khiên.

Trong giấc mộng nghỉ yên hồn phách,

Đấng Thiêng Liêng năng mách bảo giùm.

Bồng-Lai Cực Lạc chỉ chừng,

Đẩy đưa xác tục dựa gần cõi linh.

Niệm:

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. (Niệm 1 lần)

- KINH KHI THỨC DẬY

(Giọng Nam Xuân)

Vừa mở mắt giựt mình thức dậy,

Con mang ơn cúi lạy Từ-Bi.

Tử sanh, sanh tử là chi?

Gẫm trong giấc mộng cũng bì như nhau.

Đây tới sáng xôn xao với thế,

Những đua chen kiếm kế sanh nhai;

Có thân giữa chốn đọa đày,

Đếm ba vạn sáu ngàn ngày khó khăn.

Xin Từ Phụ ra ân cứu độ,

Tăng huyền linh giác ngộ chí thành;

Rõ phước đức, biết tội tình,

Nắm tâm đắp vững mặt thành Càn Khôn.

Trên nhờ có CHÍ TÔN che chở,

Thần, Thánh, Tiên, Phật hộ thân hèn;

Đường tu nối bước cho quen,

Xa trần tăm tối cận đèn Thiêng Liêng.

Niệm:

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(Niệm 1 lần)

- KINH ĐI RA ĐƯỜNG

(Giọng Nam Xuân)

Thân vận động trong trường thế sự,

Đạo nhơn luân cư xử cùng đời;

Đòi phen lúc biến khi dời,

Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.

Dòm thấy cuộc kinh dinh dưới mắt,

E trở tâm tánh bắt đổi thay;

Con xin nương bóng Cao Đài,

Bước ra một bước cảm hoài căn tu.

Gót chơn đưarủi như sát mạng,

Vật hữu linh phàm nhãn khôn soi;

Xin tha họa gởi tai rơi,

Hồn linh nhờ có ơn Trời chứng minh.

Đại Từ Phụ oai linh bảo hộ,

Những chông gai quét ngõ ven đường,

Đi an khương, về an khương,

Cõi Thiên, cảnh tục cũng đường chung nhau.

Niệm:

Nam Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(Niệm 1 lần)

- KINH KHI VỀ

(Giọng Nam Xuân)

Cảm tạ ơn trên đầu dìu đỡ,

Từ khi đi khi trở lộn về;

Đặng xong phận sự mọi bề,

Tâm tu lại vững chẳng hề lảng xao.

Những nhớ bước động Đào buổi trước,

Những nhớ khi Hớn rước Diêu Trì;

Găn Ta Ca, đỡ bước đi,

Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.

Dẩy xe trâu Côn Lôn trổi bánh,

Lý Lão Quân mong lánh phong trần;

Núi Ô Li Vê để dấu chân,

Gia Tô Giáo Chủ giải phần hữu sanh.

Con nguyện xin khuôn linh giúp sức,

Bước ta bà giục thức huệ quang;

Lòn thân dưới phép sầu than,

Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn.

Niệm:

Nam Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(Niệm 1 lần)

KINH VÀO ĂN CƠM

(Giọng Nam Xuân)

Giữa vạn vật con người một giống,

Phải uống ăn nuôi sống thây phàm;

Từ bi ngũ cốc đã ban,

Dưỡng nuôi con trẻ châu toàn mảnh thân.

Công Thần Nông hóa dân buổi trước,

Dạy khôn ngoan học chước canh điền;

Nhớ ơn bảo mạng Huyền Thiên,

Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh-sanh.

Niệm:

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(Niệm 1 lần)

KINH KHI ĂN CƠM RỒI

(Giọng Nam Xuân)

Nguyện nhớ ơn Nông Canh nhằn nhọc,

Nguyện ơn người lúa thóc giã xay;

Ngậm cơm ơn ngậm hằng ngày,

Nên người con nguyện ra tài lợi sanh.

Con cầu xin mảnh hình tráng kiện,

Giúp nên công xây chuyển cơ Đời;

Trên theo pháp luật Đạo Trời,

Niệm:

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(Niệm 1 lần)

KINH TỤNG KHI VỢ QUI LIỄU

(Giọng Nam Ai)

Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn đạo,

Theo tùng phu sửa áo nâng khăn;

Âm dương đôi nẻo chia phân,

Túy sơn Vân mộng mới gần đặng nhau.

Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,

Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung;

Thấy cơn tử biệt não nùng,

Hương thề tắt ngọn lạnh lùng tơ duyên.

Càng nhớ đến lời nguyền buổi trước,

Thẹn non sông chưa ngớt tình nồng;

Phụ phàng chi bấy Hóa công,

Lòng nào mà lại cắt lòng không đau.

Nối Tông Tổ biết bao nghĩa trọng,

Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du;

Mập mờ nhắn nguyệt đêm thu,

Kẻ còn người mất ai sầu hơn ai?

Vói nhắn khách Dạ đài có tưởng,

Vậy bóng hình để tướng nơi nao?

Hay là lạc bước nguồn đào,

Để thương cho mặt anh hào đeo mang.

Ngồi quạnh quẻ đèn tàn một bóng,

Chịu góa thân tuyết đóng song thu;

Bước Tiên nàng đã ngao du,

Đoái tình thương kẻ ôm cầu khóc duyên.

Hay nàng đặng nhập miền Cực Lạc,

Đoái tưởng người chưa thoát trầm luân;

Ngước trông níu ngọn phất trần,

Chổi Tiên quét sạch nợ nần oan gia.

Dâng mảnh tâm gọi là của lễ,

Chén ly tình là lệ ái ân;

Dầu chi cũng nghĩa chí thân,

Khối tình còn có một lần đây thôi.

KINH TỤNG KHI CHỒNG QUI VỊ

(Giọng Nam Ai)

Niềm ân ái thân hòa làm một,

Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương;

Nhắn mưa gởi gió đưa thương,

Từ đây thiếp tỏ đoạn trường với ai?

Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,

Càng ngổn ngang mối nợ tình chung;

Đã đành bẻ gãy chữ đồng,

Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.

Dầu sống sót cũng đành gọi thác,

Vui chi còn man mác tơ duyên;

Thiệt thòi cam phận thuyền quyên,

Chứa chan giọt lệ cửu tuyền cuộn trôi.

Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,

Xin hiển linh giúp kẻ góa thân;

Chở che khỏi kiếp phong trần,

Gìn gương liệt nữ hồng quần để soi.

Chàng dầu đặng thảnh thơi cảnh trí,

Hộ dâu con giữ kỹ nhơn luân;

Chàng dầu vinh hiển cảnh Thần,

Gởi trong giấc mộng đặng gần cùng nhau.

Chàng dầu hưởng Thiên Tào quyền phép,

Đỡ đường trần chật hẹp thân côi.

Chàng dầu cung Ngọc an ngôi,

Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.

Gởi hồn phách cho chàng định số,

Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.

Thiếp cam bao tóc thờ chàng,

Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!

 

KINH TỤNG CHA MẸ ĐÃ QUI LIỄU

(Giọng Nam Ai)

Ơn cúc dục cù lao mang nặng,

Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa;

Âm dương cách bóng sớm trưa,

Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.

Đầu cúi lạy .. .. linh hiển,

Lễ muối dưa làm miếng hiếu tâm.

Ven Trời gởi chút tình thâm,

Động lòng thương nhớ tuôn dầm lệ sa.

Xin có tưởng ruột rà máu mủ,

Cõi hư linh bao phủ ân hồng;

Cảnh Thiên noi bước Hóa Công,

Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như Lai.

Chốn Hư Linh chờ ngày hội hiệp,

Dầu căn xưa quả kiếp dường bao;

Thà cam vui chốn động Đào,

Đừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian.

Nuốt tiếng than đôi hàng lã chã,

Tưởng đến điều nhơn quả mà đau;

Xem thân tuổi hạc càng cao,

E ra tử biệt Thiên Tào định phân.

Nối hương lửa nhơn luân đạo trọng,

Con gìn câu chết sống trọn nghì;

Sấp mình cúi lạy Từ Bi,

………………………………………

Xin . .

Noi khuôn linh nẻo Thánh đưa chơn;

Thong dong cõi thọ nương hồn,

Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

Chung ly biệt con đưa tay rót,

Mối thương tâm chưa ngớt đeo sầu.

Cha ở đâu…., mẹ nơi đâu?.....

Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.

KINH CẦU BÀ CON THÂN BẰNG CỐ HỮU ĐÃ QUI LIỄU

(Giọng Nam Ai)

Khi dương thế không phân phải quấy,

Nay hư linh đã thấy hành tàng.

CHÍ TÔN xá tội giải oan,

Thánh, Thần, Tiên, Phật cứu nàn độ căn.

Đã tầng chịu khó khăn kiếp sống,

Định tâm thần giải mộng Nam Kha.

Càn khôn để bước Ta bà,

Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.

Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước,

Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.

Tiên phong phủi ngọn phất trần,

Liên đài đỡ gót đến gần Tây Phương.

Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,

Tầm không môn đặng đợi Như Lai.

Hào quang chiếu diệu Cao Đài,

May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh.

Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,

Cõi Đào nguyên cỡi hạc thừa long.

Lánh xa trược chất bụi hồng,

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung-dung.

Nơi cung Ngọc học thông Đạo cả,

Chốn Hư Vô Tạo Hóa tìm cơ.

Trên đường Thánh đức lần dò,

Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hóa Công.

Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,

Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.

Ngân Kiều Bát Nhã qua bờ,

Đưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng. /.

KINH CẦU TỔ PHỤ ĐÃ QUI LIỄU

(Giọng Nam Ai)

Giọt máu mủ lưu truyền tại thế,

Con những mong truyền kế lửa hương,

Nguyện cùng Thất Tổ xin thương,

Cho bền gan tấc noi đường thảo ngay.

Xưa chẳng đặng phước may gặp Đạo,

Nay phò trì con cháu tu tâm;

Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,

Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.

Dầu tội chướng ở miền địa giái,

Dầu oan gia ở ngoại Càn khôn;

Dầu mang xác tục hay hồn,

Nhớ cầu Từ Phụ CHÍ TÔN cứu nàn.

Dầu đoạt vị ở an Thiên cảnh,

Dầu tái sanh mở cảnh siêu phàm;

Nương thuyền Bát Nhã cho an,

Dìu chừng con cháu vào đàng nghĩa nhân.

Kìa lố bóng hồng ân bao phủ,

Cả thế gian đầy đủ đạo mầu;

Âm dương đôi nẻo như nhau,

Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì.

Chốn Tây phương đường đi thong thả,

Cõi Diêm Cung tha quả vong căn;

Tiêu diêu định tánh nắm phan,

Dò theo Cực lạc đon đàng siêu thăng.

Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm,

Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương;

Tấc lòng đòi đoạn đau thương,

Chơn mây vái với hương hồn hiển linh.

KINH TỤNG KHI VUA THĂNG HÀ

(Giọng Nam-Ai)

Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,

Đạo quân vương chữ dặn nơi lòng;

Thượng hoàng sánh đức Chí Công,

Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.

Giúp xã tắc tôi trung ra mặt,

Dẫy xa thơ trổi nhặt Văn minh;

Giúp dân hưởng chữ thái bình,

Văn ban võ bá triều đình đặc an.

Nay gần đặng Ngọc Hoàng Thượng Đế,

Tìm Chí linh trị thế cứu đời.

Thiên Tào Thánh ngự an ngôi,

Cầu cho dân chúng khỏi hồi can qua.

Bốn ngàn năm quốc gia đã lập,

Cõi Nam Châu bồi đắp giang-sơn;

Trụ tâm nâng đỡ quốc hồn,

Giữ bền đảnh-nghiệp vĩnh tồn hậu lai.

Kìa CHÍ TÔN CAO ĐÀI đương ngự,

Rưới hồng ân chặt giữ biên cương.

Sống thì định bá đồ vương,

Qui Thiên dựng lại miếu đường thuở xưa.

KINH TỤNG HUYNH ĐỆ MÃN PHẦN

(Giọng Nam-Ai)

Niềm thủ túc đã đành vĩnh biệt,

Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.

Thân nhau từ buổi lọt lòng,

Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau.

Câu chọc ruột còn đau đớn bấy,

Huống âm dương hết thấy mặt nhau;

Rẽ phân cốt nhục đồng-bào,

Cảnh thiên cõi tục lẽ nào không thương.

Thương những thuở huyên đường ôm ấp,

Thương những khi co đắp chung mền;

Thương hồi thơ bé tuổi tên,

Thương cơn khôn lớn giữ bền nghĩa nhau.

Rủi Thiên số Nam Tào đã định,

Giải căn sinh xa lánh trần ai;

Khá tua theo bóng CAO ĐÀI,

Nương mây thoát tục ra ngoài Càn Khôn.

Khối tình ái hương hồn dầu nhớ,

Tránh oan gia giải nợ trầm luân.

Viếng thăm hôm sớm …….

Trọng câu thần tỉnh ân cần cung Tiên.

Gởi Tổ Phụ ...........hiền cung phụng,

Gởi sắp em còn sống nơi đời;

Rót chung ly biệt lưng vơi,

Mảnh lòng tha thiết đưa người bạn xưa./.

KINH TỤNG KHI THẦY QUI VỊ

(Giọng Nam Ai)

Đường công danh càng nhìn quảng đại,

Nghĩa thầy trò nghĩ lại khó quên;

Vái cùng Sư Phụ linh thiêng,

Chứng lòng đệ-tử đáp đền ơn xưa.

Dầu hoạn lộ chưa vừa sở nguyện,

Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân;

Ơn cha sanh-hóa ra thân,

Ơn Thầy giáo huấn cũng gần như nhau.

Khoa võ môn dầu nhào qua khỏi,

Trương vi rồng học-hỏi nơi ai;

Đẹp mình với vẻ cân-đai,

Công thầy tô điểm từ ngày ấu-xuân.

Cõi hư vô nay gần phước Thánh,

Xin châu toàn đường hạnh môn-sinh;

Cõi Thiên xin gởi chút tình,

Rót chung ly hận gật mình đưa thương.

ĐOÀN THỊ ĐIỂM

KINH CỨU KHỔ

Nam mô Đại Từ, Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát

(đọc 3 lần).

Nam mô cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ. Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn, tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn. Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm linh nhơn thân đắc độ, hồi quang Bồ Tát, hồi thiện Bồ Tát, A Nậu Đại Thiên Vương chánh điện BồTát, ma kheo ma kheo thanh tịnh tỳ kheo, quan sự đắc tán tụng sự đắc hưu, chư Đại Bồ Tát, ngũ bá A La Hán, cứu hộ đệ tử ...…nhứt thân ly khổ nạn, tự ngôn Quan-Thế-Âm anh-lạc bất tu giải, cần đọc thiên vạn biến tai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tín thọ phụng hành tức thuyết chơn ngôn viết: Kim Ba Kim Ba Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đa La Ni Đế, Ni Ha-La Đế, Tì Lê Ni Đế, Ma Ha Dà Đế, Chơn Lăng Càn Đế, Bồ Đề Tát Ta Bà Ha.

DI LẠC CHƠN KINH

BÀI KHAI KINH

Khai kinh kệ vô thượng thậm thâm vi diệu pháp

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ

Ngã kim thính văn đắc thọ trì

Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt ngã.

THÍCH CA MÂU NI VĂN PHẬT thuyết

DI LẠC CHƠN KINH

THƯỢNG THIÊN HỔN NGUƠN hữu: Barahma Phật, Civa Phật, Christma Phật, Thanh Tịnh Trí Phật, Diệu Minh Lý Phật, Phục Tưởng Thị Phật, Diệt Thể Thắng Phật, Phục Linh Tánh Phật, Nhứt thiết chư Phật, hữu giác, hữu cảm, hữu sanh, hữu tử trí khổ nghiệp chướng luân chuyển hóa sanh, năng du ta bà thế giới độ tận vạn linh đắc quy Phật vị.

HỘI THIÊN NGƯƠN hữu: Trụ Thiện Phật, Đa Ái Sanh Phật, Giải Thoát Khổ Phật, Diệu Chơn Hành Phật, Thắng Giải Ác Phật, nhứt thiết chư Phật tùng lịnh DI LẠC VƯƠNG PHẬT, năng chiếu diệu quang tiêu trừ nghiệp chướng.

Nhược hữu chúng sanh văn ngã ứng dương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ tất đắc giải thóat luân hồi, đắc lộ Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn.

Nhược nhơn dương sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn hữu tội, nhược nhơn vô tội, thính đắc ngã ngôn, phát tâm thiện niệm, tất đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề tất đắc giải thoát.

Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh ma chướng, nhứt tâm thiện niệm: Nam mô Di Lạc Vương Bồ Tát, năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát ư nghiệp chướng tất đắc giải thoát.

HƯ VÔ CAO THIÊN hữu: Tiếp Dẫn Phật, Phổ Tế Phật, Tây Quy Phật, Tuyển Kinh Phật, Tế Pháp Phật, Chiếu Duyên Phật, Phong Vị Phật, Hội Chơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT dẫn độ Chơn Linh đắc Pháp, đắc Phật, đắc duyên, đắc vị, đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề chứng quả nhập Cực Lạc Quốc, hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên Thi tận độ Chúng Sanh đắc quy Phật vị.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu trì thính ngã dục đắc Chơn Truyền niệm thử NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT. Thưởng du ta bà thế giái giáo hóa Chơn Truyền phổ tế Chúng Sanh giải thoát lục dục thất tình thoát đọa luân hồi tất đắc giải thoát.

TẠO HÓA HUYỀN THIÊN hữu: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thử Luân Phật, dữ Cửu vị Nữ Phật, , như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh KIM BÀN PHẬT MẪU năng tạo, năng hóa Vạn Linh, năng du ta bà thế giái dưỡng dục quần sanh quy nguyên Phật vị.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân thính ngã dục tu phát nguyện nam mô KIM BÀN PHẬT MẪU dưỡng dục quần linh nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm hườn hư thi hình đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề Xá Lợi Tử quy nguyên Phật vị tất đắc giải thoát.

PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN hữu: Đa Pháp Phật, Tịnh Thiện Giáo Phật, Kiến Thắng Vị Phật, Hiển Hóa Sanh Phật, Trục Tà Tinh Phật, Luyện Đắc Pháp Phật, Hộ Trì Niệm Phật, Khai Huyền Cơ Phật, Hoán Trược Tánh Phật, Đa Phúc Đức Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh TỪ HÀNG BỒ TÁT, năng du ta bà thế giái thi pháp hộ trì Vạn Linh Sanh Chúng.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tín ngã ưng đương phát nguyện nam mô TỪ HÀNG BỒ TÁT năng cứu tật bịnh, năng cứu tam tai, năng độ tận Chúng Sanh thoát ư tứ khổ, năng trừ tà ma, năng trừ nghiệp chướng, tất đắc giải thoát.

HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN hữu: Diệt Tướng Phật, Đệ Pháp Phật, Diệt Oan Phật, Sát Quái Phật, Định Quả Phật, Thánh Tâm Phật, Diệt Khổ Phật, Kiên Trì Phật, Cứu Khổ Phật, Xá tội Phật, Giải Thể Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT thưởng du ta bà thế giái độ tận Vạn Linh.

Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tín ngã ưng đương phát nguyện Nam mô CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách nghiệp chướng, năng độ Chúng Sanh quá ư Cực Lạc, tức đắc giải thoát.

-Nam mô DI LẠC VƯƠNG PHẬT

-Barahma Phật,

-Civa Phật,

-Christma Phật,

-Thanh Tịnh Trí Phật

-Diệu Minh Lý Phật

-Phục Tướng Thị Phật

-Diệt Thể Thắng Phật

-Phục Linh Tánh Phật

-Trụ Thiện Phật

-Đa Ái Sanh Phật

-Giải Thoát Khổ Phật

-Diệu Chơn Hành Phật

-Thắng Giải Ác Phật

-NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT

-Tiếp Dẫn Phật

-Phổ Tế Phật

-Tây Quy Phật

-Tuyển Kinh Phật

-Tế Pháp Phật

-Chiếu Duyên Phật

-Phong Vị Phật

-Hội Chơn Phật

-KIM BÀN PHẬT MẪU

-Quảng Sanh Phật

-Dưỡng Dục Phật

-Chưởng Hậu Phật

-Thủ Luân Phật

-Cửu Vị Nữ Phật

-TỪ HÀNG BỒ TÁT

-Đa Pháp Phật

-Tịnh Thiện Giáo Phật

-Kiến Đắc Vị Phật

-Hiển Hóa Sanh Phật

-Trục Tà Tinh Phật

-Luyện Đắc Pháp Phật

-Hộ Trì Niệm Phật

-Khai Huyền Cơ Phật

-Hoán Trược Tánh Phật

-Đa Phúc Đức Phật

-CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT

-PHỔ HIỀN BỒ TÁT

-Diệt Tướng Phật

-Đệ Pháp Phật

-Diệt Oan Phật

-Sát Quái Phật

-Định Quả Phật

-Thành Tâm Phật

-Diệt Khổ Phật

-Kiên Trì Phật

-Cứu Khổ Phật

-Xá tội Phật

-Giải Thể Phật

(Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát) (niệm 3 lần)

KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN

Vì sợ sái hoặc là không biết,

Nên mau bổ khuyết đủ kinh;

Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,

Giờ này đệ tử tất tình ăn năn.

Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,

Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;

Hoặc là sơ sót nơi lòng,

Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.

Tưởng chuyện khác cũng trong tánh ý,

Hoặc nghĩ suy rối trí gần xa;

Sẵn đây hương, quả, hoa, trà,

Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.

Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,

Những câu kinh tụng thiếu sót sơ;

Độ giùm tiêu tội kịp giờ,

Ba lần sám hối mong nhờ ân dư./.

(đọc 3 lần)

- KINH SÁM HỐI

(Giọng Nam Xuân)

KINH SÁM HỐI

Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,

Đấng Hóa Công xét kỹ ban ơn;

Lòng đừng so thiệt tính hơn,

Ngày đêm than thở dạ phiền ích chi.

Người sang cả là vì duyên trước,

Kẻ không phần luống ước cầu may;

Sang giàu chẳng khác như mây,

Khi tan, khi hiệp đổi xoay khôn thường.

Việc sanh tử như dường chớp nhoáng,

Bóng quang âm ngày tháng dập dồn;

Giữ cho trong sạch linh hồn,

Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.

Điều họa phước không may tìm tới,

Tại mình dời nên mới theo mình;

Cũng như bóng nọ tùy hình,

Dữ, lành hai lẽ công bình thưởng răn.

Khi vận thới lung lăng chẳng kể,

Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu;

Sao bằng ở phải buổi đầu,,

Thần minh chánh trực có đâu tư vì.

Người làm phước có khi mắc nạn,

Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang;

Ấy là nợ trước còn mang,

Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.

Nếu vội trách người trên thì đọa,,,

Cũng có khi tai họa trả liền;

Đó là báo ứng nhãn tiền,

Mau thì mình chịu, lâu truyền cháu con.

Lo danh vọng hao mòn thân thể,

Ham làm giàu mà để bằng non;

Một mai nhắm mắt đâu còn,

Đem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng?

Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,

Xét xem người tánh hạnh dữ hiền;

Làm lành đặng hưởng phước duyên,

Trong lòng nham hiểm lòng quyền giảm thâu.

Đừng tính kế độc sâu trong dạ,

Mà gổ ganh oán chạ thù vơ;

Trái oan nào khác mối tơ,

Rối rồi không gỡ bao giờ cho ra.

Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,

Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn;

Quấy rồi phải biết ăn năn,

Ở cho nhân hậu chế răn lòng tà.

Hãy có dạ kỉnh già thương khó,

Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền;

Xót thương đến kẻ tật nguyền,

Đỡ nâng yếu thế binh quyền mồ côi.

Làm con phải trau dồi hiếu đạo,

Trước là lo trả thảo Mẹ, Cha;

Lòng thành thương tưởng Ông, Bà,

Nước nguồn cây cội mới là tu mi.

Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,

Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu;

Ở sao đáng phận đạo dâu,

Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.

Đừng có cậy giàu sang chẳng nể,

Không kiêng chồng, khi dễ công cô;

Ấy là những gái hung đồ,

Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.

Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,

Thói lăng loàn bạc tác khinh khi;

Ngày sau đọa chốn Âm Ty,

Gông kềm khảo kẹp ích gì, rên la.

Người tai mắt đạo nhà khá giữ,

Nghĩa anh em cư xử thuận hòa;

Vẹn tròn đạo cả giềng ba,

Kính anh, mến chị thì là phận em.

Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,

Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa;

Cũng là một gốc sanh ra,

Gồm bao nâng đỡ ruột rà thương nhau.

Người trung trực lo âu nợ nước,

Hưởng lộc vua tìm chút ân ban;

Chớ làm con giặc tôi loan,

Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.

Phần làm tớ thật thà trung tín,

Với chủ nhà trọn kính, trọn ngay;

Áo cơm no ấm hằng ngày,

Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.

Đừng gặp việc câu mâu biếng nhác,

Mà quên lời phú thác dặn dò;

Trước người giả bộ siêng năng,

Sau lung gian trá so đo tấc lòng.

Phải chừa thói loài ong, tay áo,

Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà;

Gìn lòng ngay thẳng thật thà,

Nói năng minh chánh lời ra phải nhìn.

Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại,

Đừng gian mưu hãm hại người hiền;

Anh em bằng hữu kết nguyền,

Một lòng tin cậy phải kiêng, phải vì.

Chẳng thấy khó mà khi, mà thị,

Gặp người giàu mà vị, mà nâng;

Dầu khi gặp lúc gian truân,

Cũng đồng giúp ích chớ đừng mặt ngơ.

Làm người phải kỉnh thờ Thần, Thánh,

Giữ lời nguyền tâm tánh tưởng tin;

Hễ là niệm Phật tụng kinh,

Rèn lòng sửa nết khá in như nguyền.

Chừa thói xấu đảo điên trong dạ,

Muôn việc chi chẳng khá sai lời;

Dối người nào khác dối Trời,

Trời đâu dám dối ra đời ngổ ngang.

Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,

Mà dể duôi sanh biến lăng loan;

Con người có trí khôn ngoan,

Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi.

Phải cho biết kỉnh vì trên trước,

Đừng buông lời lấn lướt hồ đồ;

Thuận cùng chú bác cậu cô,

Bà con chòm xóm ra vô khiêm nhường.

Thấy già yếu hẹp đường nhường tránh,

Đừng chỗ đông buông tánh quá vui;

Cợt người ra dạ dể duôi,

Sanh điều xích mích đâu nguôi dạ hờn.

Khi tế tự chớ lờn, chớ dễ,

Việc quan, hôn, thủ lễ nghiêm trang;

Gìn lòng chẳng khá lăng loan,

Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.

Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,

Phước ấm no túc thực, túc y;

Thấy người gặp lúc tai nguy,

Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn.

Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,

Thấy trên đường miểng bát, miểng chai;

Hoặc là đinh nhọn, chông gai,

Mau tay lượm lấy đoái hoài kẻ sau.

Ấy làm phước khỏi hao, khỏi tốn,

Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền;

Bắc cầu đắp sửa đường liền,

Kẻ qua người lại bước yên gọn gang.

Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,

Rán tập thành sửa tánh từ hòa;

Việc lành chẳng khá bỏ qua,

Tuy rằng nhỏ nhít cũng là công phu.

Năng làm phải, nhựt nhu, ngoạt nhiễm,

Lâu ngày dồn tính đếm có dư;

Phước nhiều tội quá tiêu trừ,

Phép Trời thưởng phạt không tư chẳng vì.

Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,

Thường dạn làm tội lại hằng hà;

Vì chưng tựu thiểu thành đa,

Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,

Biết ăn năn xét lấy sửa lòng;

Làm người nhơn nghĩa xử xong,

Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.

Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,

Giúp cho người chớ vội khoe ra;

Việc chi cũng có chánh, tà,

Làm điều phải nghĩa lánh xa dày vò.

Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,

Liệu sức mình cho hẵn sẽ làm;

Chớ đừng thấy của dấy tham,

Giục người làm quấy ắt cam đồng tình.

Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,

Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù;

Trong đời rất hiếm võ phu,

Lường cân, tráo đấu, dối tu, cúng chùa.

Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,

Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh;

Lương tâm thường xét cho rành,

Của công phải nghĩa chớ sanh lòng tà.

Người quân tử chẳng thà chịu khổ,

Đâu làm điều nhục Tổ, hổ Tông;

Đứa ngu thấy của thì mong,

Không gìn tội lỗi phép công nước nhà.

Bày chước độc xúi ra việc quấy,

Tổn cho người mà lấy lợi riêng;

Hễ nghe khua động đồng tiền,

Sửa ngay làm vạy không kiêng chút nào.

Người nghèo khổ biết sao than kể,

Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền;

Làm quan tính kế đảo điên,

Gạt thâu gia sản đất điền của dân.

Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,

Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu;

Trong lòng mưu chước rất sâu,

Mai sau suy sụp đáo đầu ra chi.

Gái xướng kỵ, trai thì du đảng,

Phá tan hoang gia sản suy vi;

Làm người phải khá xét suy,

Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.

Còn một nỗi gian dâm đại tội,

Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh;

Tuy là Trời, Đất rộng thinh,

Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.

Lương tâm biết hỗ ngươi chừa lỗi,

Mới biệt phân sừng đội lông mang;

Việc lành việc dữ đồn vang,

Tuy là bóng khuất xương tan, tiếng còn.

Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,

Chớ học đòi mèo mả gà đồng;

Làm điều nhục nhã Tổ tong,

Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.

Trai trung hiếu sửa trau ba mối,

Đừng buông lung lầm lỗi năm hằng;

Hung hoang tội báo nghiệt căn,

Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.

Thà tiết kiệm hằng ngày no đủ,

Tánh siêng năng lam lũ làm ăn;

Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,

Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.

Lòng Trời, Đất thương đều muôn vật,

Đức háo sanh Tiên, Phật một màu;

Thượng cầm hạ thú lao xao,

Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.

Nó cũng muốn như mình đặng sống,

Nỡ lòng nào tiệt giống dứt nòi;

Bền công kinh sách xem coi,

Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.

Chớ kiếm thế ngạo ngoan xảo trá,

Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng;

Thương thay phá noãn lẫy lừng,

Tội căn báo ứng biết chừng nào an.

Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,

Cướp giựt rồi chém giết mạng người;

Đoàn năm, lũ bảy dạo chơi,

Hiếp người lương thiện phá đời hại dân.

Tua khá tưởng thương lần nòi giống,

Hãy xét vì mạng sống khó cầu;

Cũng đừng bài bạc lận nhau,

Rủ ren rù quến lấy xâu ăn đầu.

Phải hiểu biết máy xâu họa kín,

Thánh, Thần đâu tư lịnh bỏ qua;

Thường ngày tuần khắp xét tra,

Phạt người hung ác đọa sa A Tỳ.

Sống dương thế hành thì căn bịnh,

Xui tai nàn dấp dính theo mình;

Ăn năn khử ám hồi minh,

Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.

Đừng cố oán thầm lo gây họa,

Đem lòng thù hăm dọa rắp đường;

Đốt nhà, tháo cống, phá mương,

Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.

Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,

Cho người hiền chịu lỗi vương mang;

Khi hồn lìa khỏi trần gian,

Hóa ra ngạ quỷ cơ hàn khổ thân.

Đời nhiều kẻ khi Thần, thị Thánh,

Ám muội lòng tánh hạnh ngỗ ganh;

Thấy ai làm phải, làm lành,

Xiễm dèm cho đặng khoe danh của mình.

Lại còn có tánh tình hiểm độc,

Xúi phân chia thân tộc ruột rà;

Làm cho chồng vợ lìa xa,

Cả đời nghiệt báo oan gia chẳng rời.

Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quả,

Lánh kẻ tà chẳng khá nên gần;

Thí tiền, thí bạc, chuẩn bần,

Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban.

Đêm thanh vắng chớ toan mưu dối,

Xúi trẻ thơ lầm lũi ngổ ngang;

Âm đài gông trỏng sẵn sang,

Chờ khi thác xuống cổ mang hành hình.

Các thơ truyện huê tình xé hủy,

Kẻo để đời làm lụy luân thường;

Nói lời tục tĩu khôn nhường,

Tội hành cắt lưỡi trăm đường ghê thay.

Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,

Tới làm chùa, dối cậy in kinh;

Ăn gian xới bớt cho mình,

Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm Vương.

Thêm những sải giả nương cửa Phật,

Của thập phương châu cấp thê nhi;

Ngày sau đọa lạc Âm Ty,

Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.

Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,

Đốt ra tro bỏ chảy dòng sông;

Thủy triều vận tải biển đông,

Lòng hằng dường ấy, phước đồng ăn chay.

Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,

Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong;

Làm ra lúa gạo dày công,

Dầm mưa dạn nắng kẻ nông nhọc nhằn.

Nhờ Viêm Đế đức cao ân nặng,

Tìm lúa khoai người đặng no lòng;

Ngày ngày vọng niệm chớ vong,

Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.

Chớ hiểm độc dạ lang lần lựa,

Nhơn thất mùa bế vựa gắt gao;

Chờ khi lúa phát giá cao,

Khai ra bán mắc Trời nào dung cho.

Ơn trợ giúp khá lo đền báo,

Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời;

Túng cùng vay mượn của người,

Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.;

Chớ oán chạ tham lam ngược ngạo,

Bội nghĩa ân trở tráo chước sâu;

Luân hồi  thưởng phạt rất mầu;

Chuyển thân tái thế ngựa trâu công đền.

Người phú túc vun nền âm đức,

Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo;

Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,

Lời tăng quá vốn kẻ nghèo xiết than.

Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,

Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn;

Phật Trời nhơn vật đồng thương,

Có đâu hưởng của bất lương mà mời.

Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,

Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi;

Đừng lòng nham hiểm hẹp hòi,

Buông lời chửi rủa đòn roi không từ.

Tánh độc ác tội dư tích trữ,

Chốn Âm Cung luật xử nặng nề;

Đánh đòn khảo kẹp gớm ghê,

Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.

Miền âm cảnh nhiều thay hình lạ,

Cõi dương trần tội quá dẫy đầy;

Thánh hiền kinh sách dạy bày,

Lòng người ám muội lỗi gây ra hoài.

Kẻ lỗ mảng chê bai khinh dể,

Rằng thác rồi còn kể ra chi;

Nhãn tiền trả quả tức thì,

Tội dư con cháu một khi đền bồi.

Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,

Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy;

Thi hài như gỗ biết gì,

Linh hồn là chủ thông tri việc đời.

Lúc chung mạng dứt hơi, hồn xuất,

Quỉ vô thường sẵn chực đem đi;

Dắt hồn đến chốn Âm Ty,

Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.

Người lương thiện ra vào thong thả,

Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh;

Phật, Trời phép lạ hiển linh,

Hành cho tan giác hườn hình như xưa.

Con bất hiếu xay cưa đốt giã,

Mổ bụng ra phanh rã tim gan;

Chuyển thân trở lại trần gian,

Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.

Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,

Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh;

Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,

Có chồng còn lại ngoại tình với trai.

Kẻ tham lợi cột mai, cột mối,

Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon;

Dỗ dành, rù quến gái non,

Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.

Lòng lang độc vui cười hớn hở,

Chốn Diêm Đình phạt quở trừng răn;

Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,

Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.

Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,

Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê;

Giáo gươm bén nhọn tư bề,

Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.

Hành đến chết hườn hồn sống lại,

Cho đầu thai ở tại thanh lâu;

Ngày đêm đưa rước chực chầu,

Công bình Thiên Đạo phép mầu chí linh.

Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh,

Cối đạp đồng rất mạnh giã dần;

Ấy là phạt kẻ lường cân,

Đo gian, đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.

Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,

Thấy tội nhơn xúm lại phân thây;

Hình nầy phạt kẻ dại ngây,

Khinh khi Tôn giáo đọa đày thế ni.

Ao nước nóng sôi thì sục sục,

Dầm cho người rã rục thịt xương;

Cũng vì lòng dạ vô lương,

Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.

Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,

Thấy rùng mình tán đởm rất ghê;

Thây người máu chảy dầm dề,

Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.

Phạt những kẻ sửa ngay ra dại,

Tớ phản thầy, quan lại bất trung;

Hành rồi giam lại Âm Cung.

Ngày đêm đánh khảo căng cùm xiềng gong.

Hình Bào Lạc cột đồng vòi vọi,

Đốt lửa hồng ánh vọi chói lòa;

Trói người vào đó xát chà,

Vì chưng hung bạo đốt nhà, bắn săn.

Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,

Gặp tội nhơn quào quấu xé thây;

Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,

Giết người lấy của bị ngay hình nầy.

Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,

Xô người vào, lội lặn nhờm thay;

Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,

Trồi lên hụp xuống gậy cây dánh đầu.

Để hành kẻ chứa xâu, lường của;

Trù ếm người, chửi rủa Tổ tông,

Đồ dơ giặt đổ rạch sông,

Đương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.

Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,

Phơi áo quần chẳng nể Tam quan;

Buông lơi tục tĩu dâm loan,

Lâu mau nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.

Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,

Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng;

Gạo cơm hủy hoại quen chừng,

Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.

Cột trói ngược quá kinh rất lạ,

Quỉ Dạ xoa đánh vả kẹp cưa;

Vì chưng chửi gió mắng mưa,

Kêu tên Thần Thánh chẳng chừa, chẳng kiêng.

Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,

Tra tội nhơn gian giảo ngược ngang;

Hành người bế tịch, chợ hoang,

Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.

Thành uổng tử cheo leo gớm ghiếc,

Cầm hồn oan rên xiết khóc than;

Dương gian ngỗ nghịch lăng loan,

Liều mình tự vận không màng thảo ngay.

Xuống địa ngục đọa đày hành mãi,

Đúng số rồi còn phải luân hồi;

Hóa công xem xét đền bồi,

Lành siêu, dữ đọa thêm nhiều tội căn.

Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,

Tội nhơn qua óc rởn rùng mình;

Hụt chơn ván lại gập ghình,

Nhào đầu xuống đó cua kình rỉa thây.

Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,

Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người;

Gặp thây nuốt sống ăn tươi,

Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời,

Trong núi lửa bay hơi tanh khét,

Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài;

Phạt răn quến gái, dụ trai,

Bày ra thuốc độc phá thai tiệt loài.

Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,

Biết lạc lầm sám hối tội căn;

Tu tâm sửa tánh ăn năn,

Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.

Ngặt có kẻ tưởng Trời, tin Phật,

Mà trong lòng chẳng thật kính thành;

Lâm nguy nguyện vái làm lành,

Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.

Chớ thái quá đừng hòng bất cập,

Phép tu hành luyện tập nhiều ngày;

Làm lành xem phải nói ngay,

Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.

Lời kệ sám lưu truyền khuyến thiện,

Câu văn từ luận biện thật thà;

Chẳng dùng những tiếng sâu xa,

E không hiểu thấu, diễn ra ích gì?

Chớ buông tiếng thị phi khinh dễ,

Rán làm lành phước để cháu con;

Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,

Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa./.

Bài khen ngợi kinh Sám hối

Nghe lời khuyến thiện rất may,

Nguyện lòng niệm Phật, ăn chay làm lành.

Ngày ngày tập sửa tánh thành,

Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.

Một là hối ngộ tội căn,

Hai là cầu đặng siêu thăng Cửu Huyền.

Đương sanh hạnh hưởng phước duyên,

Trong già trẻ miên miên thái bình.

Sau dầu đến chốn Diêm Đình,

Linh hồn trong sạch nhẹ mình thảnh thơi.

Luân hồi trở lại trên đời,

Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.

Cầu xin trăm họ bình an,

Nước giàu dân mạnh thanh bình muôn năm./.

- KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN

Vì sợ sái hoặc là không biết,

Nên mau lo bổ khuyết đủ kinh;

Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,

Giờ nầy đệ tử tất tình ăn năn.

Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,

Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;

Hoặc là sơ sót nơi lòng,

Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.

Tưởng chuyện khác cũng tromg tánh ý,

Hoặc nghỉ suy rối trí gần xa;

Sẳn đây hương quả hoa trà,

Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.

Cầu Hộ Pháp Long Thiên  chứng chiếu,

Những câu kinh tụng thiếu sót sơ ;

Độ giùm tiêu tội kịp giờ,

Ba lần sám hối mong nhờ ơn dư./.

(đọc 3 lần)

KINH VĂN TU CHƠN THIỆP QUYẾT

NGỌC lịnh ban hành khải cửu cung,

HOÀNG môn xuân sắc tượng ung dung.

THƯỢNG hành hạ hiệu đô công quả,

ĐẾ Đạo hoằng khai chiếm thượng phong.

1. Cung Bạch Ngọc ngự lâm bửu tọa,

Thọ chư Thần triều hạ đã yên;

Thân thân giá hạnh Nam thiên,

Trước xem Tam Giáo cháu Tiên con Rồng.

2. Đã đòi kiếp dày công nhọc sức,

Dạy chúng sanh kỉnh Phật thờ Trời;

Thương thay cũng tại số người,

Ngạo lời thánh huấn, kỉnh lời quỷ vương.

3. Lòng chẳng kể cang thường là đạo,

Dạ hằng lo hung bạo làm đầu;

Thấy vầy Thầy phải nghĩ sâu,

Tam Kỳ Phổ Độ năm châu phen nầy.

4. Lời Thầy phán rẽ mây vén ngút,

Kinh Thầy ban chạm ngọc khảm vàng;

Khác nào rọi đuốc chỉ đàng,

Khuyên con tạc dạ ghi xương chớ rời.

5. Sách chép chữ “khôi khôi Thiên võng”

Đời ghi câu “lộng lộng lưới giăng”

Nhặt thưa, mau chậm cân phân,

Mựa rằng sơ sót, mắt Thần không sai.

6. Thầy đã dạy nhiều bài vàng đá,

Con nỡ đành lòng dạ sắt đinh;

Con hư Thầy phụ chẳng đành,

Con nên Thầy được phỉ tình ước ao.

7. Đời hằng nói “Trời cao có mắt”

Sách thường biên “Thái Nhứt vô hình”

Minh mông, đồ sộ, rộng thinh,

Mà soi xét đủ tình hình thế gian.

8. Đây giáng bút ít hàng vắn tắt,

Đặng trao lời vuông tấc nhiệm mầu;

Chớ rằng chẳng tiếng cao sâu,

Khuyên thường giữ dạ, mựa hầu sai ngoa.

9. Ơn cúc dục công cha nghĩa mẹ,

Đức sanh thành nuôi bé dạy khôn;

Tục rằng cây cội nước nguồn,

Cây xanh nhờ có nước luôn tư mùa.

10. Cùng bạn tác không dua không nịnh,

Với anh em đừng phỉnh đừng phờ;

Thấy người quyền quý đừng mơ,

Gặp người hoạn nạn chớ lơ lảng lòng.

11. Đạo quân tử, vợ chồng gây mối,

Mối cang thường dòng dõi trổ nên;

Một lòng một dạ vững bền,

Sớm khuya dạy bảo, nhủ khuyên ngọt ngào.

12. Tình máu mủ đồng bào cốt nhục,

Cũng rún nhau một cục xắn chia;

Đừng toan chước quỷ phân lìa,

Ở cho hòa nhã, tiếng bia danh đồn.

13. Đạo thần tử lo tròn phận sự,

Nghĩa tôi con nắm giữ thân danh;

Sao cho công toại danh thành,

Sao cho muôn thuở sử xanh tên đề.

14. Cân Tạo Hóa nhiều bề mắc mỏ,

Máy kiền khôn hiếm chỗ cam go;

Nước đời sâu chống cạn dò,

Đừng chơi biển thẳm, chớ mò lạch khơi.

15. Thần Tiên đã bày lời trung chánh,

Thánh Hiền còn thêm gánh nghĩa nhơn;

Thương đời chẳng biết công ơn,

Chê bai thấp thỏi, chờn vờn cầu cao.

16. Muốn đặng ngọc thì vào non thẳm,

Muốn tìm vàng phải ngấm biển sâu;

Muốn cho phú quý, công hầu,

Thì tua gắng chí dãi dầu tuyết sương.

17. Ai cũng muốn Tây phương lạy Phật,

Sao không lo thánh thất chầu Thầy?

Vì con Thầy mới đến đây,

Cạn phân lợi hại, tỏ bày thiệt hơn.

18. Phải tích đức, tu nhơn làm trước,

Lo tu thân, tác phước cho cần;

Trên đầu có ThánhThần,

TrờiPhật cầm cân chẳng lầm.

19. Đừng tưởng chỗ tối tăm chẳng thấy,

Chớ tưởng điều phải quấy không soi;

Có câu “khuynh phúc tài bồi”

Nước sông rông kém, máy Trời vần xây.

20. Vầng nhựt nguyệt đêm ngày soi xét,

Lẽ âm dương hàn nhiệt giao thông;

Có câu “thiên địa chí công”

Họa dâm, phước thiện, mảy lông chẳng chừa.

21. Đừng tưởng lấy vải thưa che Thánh,

Chớ tưởng rằng sức mạnh qua Trời;

Đáng thương mà cũng đáng cười,

Vì lòng kiêu ngạo dể ngươi Cao Dày.

22. Lòng bất nhẫn thêm bày ít đoạn,

Dạ từ bi phụ giảng vài bài;

Khuyên con tạc dạ, chớ sai,

Khuyên con chớ thấy dông dài bỏ qua.

23. Nên xa tránh dâm tà, sắc dục,

Hư thân danh, điếm nhục Tổ tông;

Hại nầy thiệt hại vô cùng,

Phật Trời chẳng chút thứ dung tội nầy.

24. Ví kiếp trước dẫy đầy âm chất,

Sa mê dâm, phước đức tiêu mòn;

Hại mình, hại vợ, hại con,

Hại luôn sự nghiệp, hại dồn đời sau.

25. Chước quỷ quái, lòng sâu dạ độc,

Kế tinh yêu, nước đục béo cò;

Lập mưu thả lưới giăng dò,

Hại người lương thiện, ấm no thân mình.

26. Người cậy thế, khôn lanh xảo trá,

Trời dành phương nhơn quả trả vay;

Phủi tay chẳng kíp thì chầy,

Reo cười chưa thỏa, xin mày không cơm.

27. Đành búng rãy ngày đơm tháng giỗ,

Nỡ phụ phàng chim Tổ người Tông;

Ỷ mình đủ cánh đủ lông,

Quên ơn cha mẹ, phủi công ông bà.

28. Tội bất hiếu, phui pha đâu có,

Chữ vô tư tỏ rõ phải không?

Kiếm đao địa ngục song song,

Đem vào trước dạy vỡ lòng phanh gan.

29. Chủ lường gạt, buôn gian bán lận,

Tớ gian tham, lời chận lỗ thêm;

Miếng môi chuốt ngót cho êm,

Lường công tiếc việc, dao ghim đầy lòng.

30. Phường sâu độc toan phòng ngọt mật,

Tính cưu mang nhử bắt giết ruồi;

Mưu sâu gẫm lại, than ôi!

Hồi đầu báo ứng, kêu Trời muộn thay!

31. Ngày chí tối phô bày nanh vút,

Sớm cùng trưa xúi giục kiện thưa;

Xiết bao kế lận mưu lừa,

Ôm gồm hai phía, đỏng đưa đôi đàng.

32. Cậy quyền thế tham quan ô lại,

Giả xưng hô quý phái cao môn;

Líu lo ba tấc lưỡi giòn,

Đã thâu của báu lại bòn đồ xưa.

33. Giọt thán oán như mưa thấy thảm,

Tiếng bi ai dường sấm bên tai;

Sống cho vạn ách thiên tai,

Thác cho kiếp kiếp đầu thai bồi thường.

34. Dối Thần Phật gạt lường tế độ,

Phỉnh chúng sanh tu bổ chùa chiền;

Trọng tăng kỉnh Phật thiêng liêng,

Lòng thành dưng cúng, bạc tiền sá chi.

35. Nghề đồng cốt khinh khi Tiên Bụt,

Nghiệp bóng chàng đàng đột hư vô;

Xác ông, xác cậu, xác cô,

Dưng chay cúng mặn, thế đồ, vớt vong.

36. Chẳng hiểu chữ “sắc không, không sắc”

Chẳng thông câu “không có, có không”

Giam vào vô để lao lồng,

Chờ ngày phán đoán đại đồng thế gian.

37. Kẻ bợ đỡ mua quan bán bạn,

Tánh nịnh dùa giả dạng cầu thân;

Cũng phường mọt nước sâu dân,

Phú cho địa ngục trầm luân giam cầm.

38. Phô những lũ tiềm tâm ích kỷ,

Khắp các phường tính kế hại người;

Hại người mình lại vui cười,

Hỏa khanh địa ngục đốt thời chẳng dung.

39. Răn đệ tử chớ dùng rượu thịt,

Khuyên chúng sanh rán ít chơi bời;

Sắc tài tửu khí hao hơi,

Gắng công tu niệm thờ Trời tụng kinh.

40. Lời Thầy phán phải tin phải tưởng,

Lời Thầy răn chớ cượng chớ sai;

Tu cho rạng tiếng Cao Đài,

Cha hiền con thảo, trai ngay gái lành.

41. Trối những kẻ khinh danh Đạo Cả,

Thây các phường thóa mạ, khi Thầy;

Khoe khoang, kiêu ngạo, đặt bày,

Đền xong tội thế, đến ngày gặp Ta.

42. Điều biếng nhác bởi già nghiệp chướng,

Tánh trù trì khó hưởng thanh nhàn;

Khuyên con giữ dạ bền gan,

Lòng lo tu niệm Thiên Đàng mau lên.

43. Mảng những ước thành Tiên thành Thánh,

Mà quên lo tu tánh tu tâm;

Tu cho bồi đắp thiện căn,

Tu cho trung hiếu, nghĩa nhân vẹn tuyền.

44. Tu là cứu Cửu huyền thất tổ,

Tu là cần phổ độ chúng sanh;

Cầu cho cải dữ về lành,

Cầu cho đất nước thái bình muôn năm.

45. Tu cho được Thần khâm quỷ phục,

Tu cho nên thoát tục siêu phàm;

Công danh, quyền quý, tước hàm,

Mây tan nước chảy mà ham nỗi gì.

46. Thế thường nói tu chi cho nhọc,

Để mà lo tước lộc, công hầu;

Sao không suy trước nghiệm sau,

Tiền căn hậu quả bởi sao được vầy?

47. Phân năng bón thì cây mới tốt,

Rễ thường tươi thì đọt mới xanh;

Muốn cho cả cội sung nhành,

Tu hành lo trước, sau đành thảnh thơi.

48. Thầy thương xót ngùi ngùi kẻ dại,

Muốn thành công mà lại ngao du;

Phật mang tám nạn cũng tu,

Thầy còn muôn kiếp công phu dãi dầu.

49. Ai dầu được công hầu, khanh tướng,

Mà không lo tiếp dưỡng, tài bồi;

Gốc cây sùng đục đã rồi,

Khôn trông nứt mụt nảy chồi, đơm bông.

50. Tu phước đức bền lòng cho lắm,

Tên quỷ vương hay nhắm người tu;

Mũi tên đã độc lại mau,

Ghim nhằm một mũi khó hầu gỡ ra.

51. Tên nó sắm những là rượu bọt,

Tên nó giồi: gái tốt, vàng ròng;

Muôn ngàn tên độc vô cùng,

Vương nhằm một mũi thì không còn hồn.

52. Tu thì chớ bôn chôn, nóng nảy,

Tu thì cho phải quấy phân minh;

Chánh tà, chơn ngụy được rành,

Phật Trời mới chứng cho mình rằng tu.

53. Tu cho được phụ từ tử hiếu,

Tu cho thành huynh hữu đệ cung;

Gái tu tứ đức, tam tùng,

Trai tu nhơn nghĩa, hiếu trung làm đầu.

54. Thế tưởng vậy là tu Nhơn Đạo,

Nào hay rằng Thiên Đạo bởi đây;

Chẳng lo Nhơn Đạo cho dày,

Mong thành Thiên Đạo mặc may làm gì.

55. Phật đã dạy Tam Quy, Ngũ Giới,

Đời chẳng tuân để hại Nguơn Thần;

Bởi thương nên mới phân trần,

Vì thương nên mới ân cần nhủ khuyên.

56. MỘT, khuyên phải kiền thiềng mộ đạo,

HAI, tuân lời Tam Giáo Thánh Nhơn;

Đạo là chí chánh chí chơn,

Những lời thánh huấn chạm xương ghi lòng.

57. BA, khuyên nhớ tổ tông công đức,

BỐN, lo tu đúng mực cang thường;

Cha sanh, thầy dạy kỷ cương,

Anh em bạn tác, náu nương vợ chồng.

58. NĂM, khuyên nhớ kẻ nông công khó,

SÁU, xót thương tàm phụ nhọc nhằn;

Cày sâu, cấy cạn, bón phân,

Làm nên tơ chỉ trăm phần lao đao.

59. BẢY, liên lạc đồng bào huynh đệ,

TÁM, khuyên đừng dua mị quyền môn;

Sao cho tiếng ngợi danh đồn,

Đáng trang đạo đức phải tôn phải vì.

60. CHÍN, khuyên chớ khinh khi cô quả,

MƯỜI, khuyên tua hỷ xả lỗi người;

Khuyên đừng biết giận hờn ai,

Xót người hoạn nạn, cứu nơi cơ hàn.

61. Được vậy mới gọi trang tu tánh,

Tánh tu rồi mới định tu tâm;

Càng tu càng thấy cao thâm,

Càng tu càng thấy sự lầm lạc xưa.

62. Biết lầm lỗi thì chừa cho gấp,

Đặng mau lo bồi đắp cội lành;

Như vầy mới gọi tu hành,

Như vầy mới gọi chứng minh bồ đề.

63. Khuyên con phải kiêng dè cho lắm,

Mười lời khuyên như tẩm cam lồ;

Đêm ngày dầu tụng nam mô,

Mà không noi giữ, nhành khô rễ còi.

64. Mừng con đặng có mòi tấn phát,

Rưới cho con nước mát mùi thơm;

Bốn mùa hoa nở trái đơm,

Hơi bay bát ngát, nhụy tươm ngọt ngào.

KỆ VIẾT

I. Giáng cơ chỉ rõ máy kiền khôn,

Ghi chép vài trang sách thánh ngôn.

Luân lý cang thường nền cả cội,

Nghĩa nhơn, trung hiếu vốn sâu nguồn.

Thành chơn phước bởi công vô lượng,

Đắc đạo ơn nhờ Đức Chí Tôn.

Khuyên nhủ các con tua gắng chí,

Tam Kỳ muôn thuở tiếng bia đồn.

II. Tiếng bia đồn để ức muôn năm,

Khuyên thế đừng tu độc hiểm tâm.

Thầm tối mưu gài chông lểu lểu,

Cao Xanh lưới bủa dạng tăm tăm.

Vô thường chẳng sợ tay oanh liệt,

Quỷ tốt nào kiêng bực phẩm hàm.

Thiện ác đáo đầu vay có trả,

Hoàng Thiên hữu nhãn chắc không lầm.

III. Chắc không lầm lỗi tiếng mười khuyên,

Thì được tên đề bảng Địa Tiên.

Muốn hưởng lâu dài nền hậu quả,

Phải lo bồi đắp cảnh tiền duyên.

Làm lành lánh dữ, câu thành ngữ,

Tốt đất sung nhành, lẽ tự nhiên,

Chí dốc siêu phàm lên cõi Thánh,

Phải lo vun tưới miếng tâm điền.

Các con, Thầy dạy bài Tu Chơn Thiệp Quyết nầy là chỉ đường ngay lẽ chánh cho các con đi, nẻo vạy thói tà cho các con sửa.

Trong lúc Thầy truyền đạo đây thì chư Thần Tiên ủng hộ theo Thầy, tường vân che phủ, thoại khí bao quanh; lại có Văn Xương Đế Quân ghi chép vào kim thơ ngọc sách, hầu để vào Tàng Kinh Bửu Viện.

Ba bài kệ các con phải giữ dạ nằm lòng, ngày đêm tụng niệm chớ khá bỏ qua, vì tụng kinh nầy đây thì Tứ Trị Công Tào sứ giả thảy hằng nghe mà biên chép công quả.

Thầy dạy bổn mạng Nguơn Thần của mỗi con xét coi trong lúc rảnh rang có trau giồi đạo đức như lời Thầy phán chăng. Các con hãy nghe, chớ rằng Thầy không nói trước.

Lời nào Thầy đã dỉ hơi ra,

Vàng ngọc gìn trau chớ bỏ qua.

Cung kỉnh ấy là nền đạo đức,

Kiêu căng vốn thiệt gốc yêu tà.

Nguơn Thần chiếu mạng người trung chánh,

Nghiệp chướng trì chơn đứa xảo ngoa.

Đừng tưởng Trời cao mà giả dối,

Mắt thần như chớp khó phui pha.

Các con, như có người nào ở ngoài vòng cửa mà muốn cho rõ mùi đạo lý của Thầy, thì các con cũng nên xét và dạy chúng nó bài “Thiệp Quyết” nầy.

Khuyên đời bỏ dữ đặng theo lành,

Ấy cũng là điều giúp chúng sanh.

Tiên tục thấp cao lời giác đát,

Nên hư chỉ rõ tiếng đành rành.

Thiện duyên yếu mối nên thưa thớt,

Nghiệp chướng già cây khó rắp ranh.

Vững lái êm chèo thuyền tế độ,

Đưa người đến bến mựa cành nanh

- KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN

Vì sợ sái hoặc là không biết,

Nên mau lo bổ khuyết đủ kinh;

Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,

Giờ nầy đệ tử tất tình ăn năn.

Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,

Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;

Hoặc là sơ sót nơi lòng,

Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.

Tưởng chuyện khác cũng tromg tánh ý,

Hoặc nghỉ suy rối trí gần xa;

Sẳn đây hương quả hoa trà,

Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.

Cầu Hộ Pháp Long Thiên  chứng chiếu,

Những câu kinh tụng thiếu sót sơ ;

Độ giùm tiêu tội kịp giờ,

Ba lần sám hối mong nhờ ơn dư./.

(đọc 3 lần)

NGỌC MINH KINH

LỜI GIỚI THIỆU

Vào đầu thế kỷ thứ 20, đất nước và dân tộc Việt Nam nhỏ bé nhưng tràn đầy lòng hiếu hòa đạo đức của chúng ta đã hạnh ngộ một điều đại lành, đó là được Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế chọn lựa, xuống lằn điển huệ khai minh ra nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ vào Hạ-Ngươn năm Giáp-Tý (1924), với chủ trương quy Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi về mặt tinh thần. Kể từ đó đến nay, chư Phật Tiên Thánh Thần dùng huyền diệu cơ bút ban hành vô số Kinh điển, dạy dỗ nhơn sanh đường tu luyện để trở lại cội nguồn tâm linh, hầu biến thế gian nầy thành một cõi Thiên-Đàng.

Đến năm 1934, Đấng Chí-Tôn nơi Công-Tào Ngọc-Bản đã ban cho thế gian quyển “NGỌC-MINH-KINH” như một phương tiện để cho chúng sanh tụng niệm, cầu khẩn Chư Phật, Tiên, Thánh, Thần giáng hạ cứu khổ phò nguy trong thời Hạ Ngươn mạt kiếp đầy dẫy tai biến nầy.

 NGỌC-MINH-KINH” là quyển Kinh báu quý trọng, thế gian không dễ tìm cầu, nếu muốn đọc để tìm hiểu lý sâu thì không sao, nhưng nếu đã phát tâm tụng niệm để cầu vào diệu lực tế trợ của Bề-Trên thì phải hết lòng thành kính, trai giới tinh nghiêm mới được tụng Kinh nầyNếu không y lịnh dạy thì ắt họa thân. Chúng tôi chỉ y lịnh truyền đạt lời dạy của Bề-Trên khi cho Kinh, chứ tuyệt đối không dám thêm bớt điều chi.

Kinh là vật quý trọng, xin chớ khá dể-duôi, nên để nơi tôn kính và chỉ nên đọc cho nghe, hoặc cho mượn coi, chớ khá trao luôn cho người không ham mộ, rồi bỏ rơi rớt mà mang tội với Phật Tiên.

Thi rằng:

Kinh Thần, sách Thánh, giải phân minh,

Có chí kỉnh thành đọc mới linh.

Chọn được người lành trao phép báu,

Uổng truyền kẻ vạy chẳng lòng gìn.

 Thiên Lý Bửu Tòa 

NGỌC-MINH KINH

NGỌC-CHÂU MINH-ĐẠI CHƠN-KINH,

Cứu ách cứu nạn cả sanh linh,

Kiền khôn thâu Nhựt Nguyệt,

Chuyển vận nước thanh bình.

Chuyển Nhựt Nguyệt Kiền Khôn phút động,

Máy tuần hoàn mở rộng thế gian,

Huyền Khung Thượng Đế Ngọc Hoàng,

Cao Đài độ tận linh căn phản hồi.

Ác vàng bóng cơ Trời tương khắc,

Vầng Đông, Tây, Nam, Bắc ly kỳ,

Tây Cung Kim Mẫu Diêu Trì,

Độ siêu linh đức thoát ly khổ nàn.

Miền Cực Lạc Nhiên Đăng Bồ Tát,

Oai linh thần giải thoát ách tai,

Cỏ cây đượm tược đơm đài,

Ân hồng ban thưởng tháng ngày âu ca.

Tam Giáo Đạo Di Đà Phật Tổ,

Hóa nhơn thân điều độ phàm gian,

Khỏi cơn quỉ mị khuấy loàn,

Sanh linh hối ngộ lập đàng quy y.

Ơn Thái Thượng luân di Nhựt Nguyệt,

Hóa Tam-Thanh trừ diệt mị tà,

Cứu sanh linh thoát ái hà,

Khỏi cơn tai biến lánh xa mị tà.

Chí đức cả cao xa lý rộng,

Thần oai linh Đức Khổng Thánh Nhơn,

Phò nguy tế khổn trần gian,

Sửa đời an thạnh mở mang mối giềng.

Long Hoa hội chiếu truyền Di Lặc,

Bồ Tát linh giải thoát nguyên nhân,

Cầm quyền Đại Hội Phong Thần,

Bảo tồn vạn vật khỏi cơn nạn trần.

Đức Phục Hi, Thần Nông linh hiển,

Độ vạn dân thoát biển trần vơi,

Bốn phương đồng thọ sắc Trời,

Hóa hoằng ngũ cốc độ đời ấm no.

Miền Tây Âu Gia Tô Giáo Chủ,

U hiển linh vỏ trụ oai danh,

Cứu dân thiện nguyện làm lành,

Khỏi cơn phong vỏ thoát gành biển tây.

Nguyền Đại Đế Thiên oai chuyển vận,

Ba sáu phương ngôi đấng Thiên ban,

Bảo tồn trên cõi thế gian,

Thanh bình khắp chốn an bang dân tình.

Miền Cực Lạc vạn linh Chư Phật,

Đức Tổ Sư Bồ Tát từ bi,

Sanh linh gặp lúc loạn ly,

Tổ-Sư rưới chút mầu vi độ điều.

Lòng quảng đại thương đều vạn vật,

Đức Cái Thiên Cổ Phật độ an,

Linh chơn quá khứ kinh hoàng,

Phật-Đà cứu nạn tiêu tan tai trần.

Miền Trung-Giới sắc ân Chơn Võ,

Tuần bốn phương tế độ sanh linh,

Trừ yêu sắc chỉ Thiên Đình,

Chiêu an trăm họ thái bình dân sinh.

Oai Bắc Đế anh linh u hiển,

Thọ sắc Trời vận chuyển bốn phương,

Quỉ ma chẳng dám nhiểu nhương,

Thần thông biến hóa Thần nhường quỉ kinh.

Đông Phương Trấn tà tinh khiếp sợ,

Sắc tứ ban phò trợ phàm trần,

Tam Kỳ phận sự qui Thần,

Chưởng khai bảy sắc hộ dân thoát nàn.

Tây Phương Trấn bảo toàn thế giái,

Xem xét trần thọ phái Ngọc ban,

Xót thương hạ giới mắc nàn,

Một bầu linh dược độ toàn lúc nguy.

Nam Phương Trấn hiển vi độ thế,

Phép Thần Tiên phổ tế oan khiên,

Thiên văn địa lý chủ quyền,

Cảm thương nhơn vật dạy truyền cơ sâu.

Bắc Phương Trấn phép mầu hiển hích,

Chuyển oai linh bút tích phi phong,

Bảo an thế giới đại đồng,

Khử trừ yêu quái tinh thông phép thần.

Sắc Ngọc Đế xuống trần phò khổn,

Tế độ người lành chốn khổ tai,

Năm trăm La Hán thiên oai,

Độ sanh độ tử vẹn hai đều lành.

Cầu Trực Phẩm Chơn Thanh đoái tưởng,

Dạy chơn truyền vô lượng anh linh,

Qui phong, phục thủy, nhiên bình,

Chở che tánh mạng sanh linh mọi đàng.

Công đức trọng Kim Quang La Hán,

Mười tám phương cứu nạn chúng sanh,

Một bầu Nhựt Nguyệt thuốc linh,

Cứu an lê thế ân lành biết bao!

Nguyền Trị Nhựt Công Tào sứ giả,

Chiếu luật Trời cứu cả vạn bang,

Niệm danh u hiển mọi đàng,

Chứng lòng trần tục kíp sang cõi trần.

Oai danh Đức Tinh-Quân Bắc Đẩu,

Chuyển Kiền-Khôn trình tấu Ngọc-Hoàng,

Địa cầu thay xác rõ ràng,

Xin ban Ngọc-Sắc độ an người lành.

Thiên oai bố phước thanh rưới khắp,

Đức Thiện Chơn Bồ Tát Tây Phương,

Lãnh bầu đơn dược hiển dương,

Điểm khai linh tánh thoát đường muội mê.

Chốn Thiên Cung chỉ phê rành rạnh,

Ba sáu phương Sắc Thánh cấp lai,

Án tà, ếm mị thần oai,

Đại tài, đại lực chuyển sai các Thần.

Bát Tiên Chơn xót trần nạn khổ,

Lữ Đồng Tân bảo hộ dương gian,

Xin ơn Tiên Trưởng độ an,

Sắc Trời chiếu mạng băng ngàn cứu nguy.

Lượng Tiên Thánh Tam-Kỳ đồng thọ,

Lý-Dược-Sư chiếu số độ đời,

Phong ba một cuộc rã rời,

Thuốc linh cứu bịnh nghịch thời đặng yên.

Lam Thể Tiên lòng thiền bác ái,

Phép mầu ban đảo hải di san,

Ngày nay trần thế mắc nàn,

Xin cầu phép báu trừ tan tinh tà.

Hàng Tương Công hải hà rộng lượng,

Xin đoái thương chỉ hướng dắt đàng,

Nghe lời thiện niệm vái van,

Giáng lai cõi tục diệt loàn quỉ yêu.

Lòng quảng đại độ điều thế giái,

Trương Quả Tiên phá giải tà ma,

Thần linh phép nhiệm cao xa,

Cứu dân dạo khắp ta bà bố ban.

Cuộc đau đớn nhơn gian thống khổ,

Hớn Chung Tiên xin bố huyền vi,

Giáng lai cứu độ cấp kỳ,

Chúng dân thoát khỏi cơn nguy đảo huyền.

Nguyền Tiên Trưởng từ thiền đức cả,

Tào Quốc Tiên sắc giá cao ban,

Xót thương độ dẫn dân an,

Bịnh trần lắm khổ vì đàng tà tinh.

Thuốc Tiên rưới dân tình tỉnh dậy,

Hà Tiên Nương xem thấy xót thương,

Kiếp căn chỉ rõ dạy tường,

Một bình thuốc quí lạ thường phép linh.

Nơi thanh tịnh Xích Tinh Tử động,

Sắc Ngọc Hoàng phủ tống tà ma,

Hộ đời đặng khỏi tai ba,

Chúng sanh cầu nguyện kíp ra độ đời.

Quảng Thành Công Tiên ngôi rực rỡ,

Vâng sắc Trời giáng thế ân cần,

Một kỳ Đại Hội Phong Thần,

Ra tay tế độ trọn phần sắc ban.

Vương Thiền Công pháp quang tinh tấn,

Giáng chốn trần dìu dẫn nguyên căn,

Chơn truyền máy nhiệm vô ngằn,

Dạy đời linh hiển phép thần thông tri.

Quảng Huệ Tiên từ bi giáng hạ,

Độ đời cơn tai họa đa mang,

Một lòng thành kỉnh vái van,

Chuyển xây tứ hướng truyền ban cơ mầu.

Tôn Tiên Sư truyền câu thánh niệm,

Bảo tồn thân lúc hiểm cơn nguy,

Xuân thu mở hội Tam Kỳ,

Thông thiên lảm địa, lương tri đặng tường.

Chốn động phủ là phương yên lặng,

Xót linh căn mắc nạn thế gian,

Tôn Sư Lý Tịnh oai vang,

Thần khâm, quỉ phục kinh hoàng đức cao.

Chốn trần tục ba đào sóng bủa,

Dương Soái Thần cứu chữa đặng an,

Thủy bình, phong tịnh, vân tan,

Bốn phương cảm đức khỏi cơn ly nàn.

Thông Thiên Đạo hiển vang Giáo Chủ,

Ban ơn lành khắp xứ gội nhuần,

Mở mang nhị hội Phong-Thần,

Ơn dày đức rộng cân phân chơn truyền.

Lời sanh chúng chí nguyền van vái,

Ơn Tiên chơn chỉ dạy cơ mầu,

Bắ Linh hiển hiện lý sâu,

Nghe danh Tiên sắc đâu đâu cũng tùng.

Phép Xiển Giáo chơn công thuyết lý,

Chấp chưởng khai Nguơn Thỉ Thiên Tôn,

Bản Tiên hậu thế bia đồn,

Xin ơn đức cả độ cơn mắc nàn.

Phong Thần hội Thiên Đàng mở hội,

Cảnh Phổ Đà qui lại thọ truyền,

Quan Âm Lực Sĩ đại hiền,

Từ Hàng tế thế khắp miền hạ ban.

Núi Côn Lôn Thiên Quang chưởng lập,

Đức Thiền Sư lãnh pháp hạ trần,

Tam thiên đồ đệ linh thần,

Kíp mau hạ thế thọ ân cứu đời.

Miền Cực Lạc lịnh Trời tế độ,

Hiển hích linh Kheo Tổ Tây-Phương,

Sắc phong bản tạc Thiên Đường,

Hạ Nguơn độ tận Tây Phương trở về.

Minh Quang Phật chỉ quê hương vị,

Ơn đức dày khử mị, trừ yêu,

Trần gian nhờ phước độ điều,

Lánh nơi tục thế các điều oan gia.

Tinh Tấn Phật xót xa phàm tục,

Lãnh mạng Trời cửu khúc kim ngân,

Thừa vân xuống chốn phàm trần,

Sắc truyền điểm tánh Thiên ân Tam Kỳ.

Minh Mẫn Phật truyền y Lục Tự,

Cho chúng dân biết chữ thiện tâm,

Tây Phương linh phướng tay cầm,

Giữ hồn nhơn vật khỏi lầm bàng môn.

Công Minh Phật tâm hồn phút chuyển,

Bảy chơn thần hóa hiện cứu mê,

Truyền khai bảy sắc tư bề,

Một cây linh bút chỉ phê đành rành.

Thiên Quang Phật lòng lành thương thế,

Thập phương lo vớt kẻ mê say,

Trường phong gậy báu cầm tay,

Đầu sanh đầu tử cứu loài sanh linh.

Thanh Văn Phật Thiên Đình Ngọc sắc,

Giáng cõi trần trừ tắt lửa tà,

Phép linh niệm chú mưa sa,

Sanh linh nhờ sức khỏi sa bụi trần.

Thông Minh Phật thọ ân Giáo Chủ,

Bảy hào quang hiện đủ chói lòa,

Tinh tà tiêu tán tránh xa,

Sanh linh khỏi lạc tà ma dỗ dành.

Văn Bình Phật chơn thanh u hiển,

Mười tám câu hô chuyển núi sông,

Phàm gian cầu khẩn hết lòng,

Kíp mau giáng cõi trần hồng cứu nguy.

Tỉnh Thế Phật hộ trì hạ giái,

Bảy chơn ngôn đảo hải di san,

Bồ đề mười tám kim cang,

Trừ tan yêu động khuấy loàn thiện nhơn.

Bảo Thiện Phật mười phần xót thế,

Lãnh lịnh Trời bỏ phế kim ngôi,

Trần gian giáng xuống cứu đời,

Niệm câu “Vô-Cực”, tức thời hiển linh.

Phò Nguy Phật Tam Kỳ độ tận,

Tự viên minh tiếp dẫn linh quang,

Kim đơn lãnh tại Tây Phang,

Xuống trần cứu kẻ mê man phách hồn.

Bảo tồn thế Thiên Tôn Thái Ất,

Ba báu linh cứu cấp muôn loài,

Truyền ban lịnh xuống trần ai,

Chọn người căn vị trao tay linh thần.

Đức Phổ Hiền sắc ân Bồ Tát,

Oai linh thiêng thập bát thần thông,

Độ an Nam, Bắc, Tây, Đông,

Ân cao, đức trọng trần hồng gội ơn.

Động Tiên chơn sắc thần đem chiếu,

Cù-Lưu-Tiên danh hiệu hiển oai,

Phong vân ám hại trần ai,

Ơn cao thọ lịnh ra tài độ an.

Chốn Bồng-Lai thanh nhàn Tiên Trưởng,

Vì sắc Trời dạy xuống phàm gian,

Ban truyền sắc lịnh Kim Quang,

Cứu người đau đớn đặng an tinh thần.

Bách Linh Tiên chiếu căn cứu ách,

Lòng hải hà động thạch sắc ban,

Mười hai đệ tử lịnh truyền,

Giáng lai khử mị trừ tan yêu tà.

Bách Nguơn Tiên ta bà du ngoạn,

Xót nhơn sanh khổ nạn muôn điều,

Phép Tiên cực phẩm Linh Tiêu,

Truyền ban đệ tử độ điều thiện chơn.

Thống Linh Tiên Hạ Nguơn độ thế,

Thọ sắc Trời mau lẹ giáng lâm,

Giờ nay đệ tử chí tâm,

Cầu cho thoát khỏi luân trầm âm cung.

Chưởng Huệ Tiên thọ phong rành rạnh,

Ba sáu câu kệ lãnh hạ trần,

Ngày nay trần thế não nần,

Kíp mau cứu chữa bịnh trần đặng an.

Lương Võ Tiên bảo toàn khắp xứ,

Sắc Thiên-Hoàng lãnh sự trần gian,

Bảy hai kiển tự vẻ vang,

Độ người bước kịp linh phan trở về.

Ngoạn Chơn Tiên vị quê Bồng Đảo,

Sắc Ngọc Hoàng truyền giáo thế gian,

Cho nhơn sanh khỏi tai nàn,

Công cao độ thế bảng vàng tạc ghi.

Long Kim Tiên mầu vi bí yếu,

Dạy trần gian đặng hiểu chơn truyền,

Chở che trong lúc đảo huyền,

Linh căn lánh khỏi khổ miền thế gian.

Buổi Tam Kỳ sắc ban trọng hệ,

Cầm quyền trong bốn bể sanh linh,

Kim Tinh Thái Bạch Trường Canh,

Luật Trời cứu thế quyền hành Giáo Tông.

Khương sắc phong Thái Công thọ lịnh,

Đại Phong Thần chấp chỉnh xét soi,

Cảm lòng bác ái thương đời,

Đả Thần khử mị trừ loài quỉ vương,

Quan Thánh Đế Nam-Phương thọ sắc,

Giữ mối giềng Nam, Bắc, Tây, Đông,

Bảo an con Lạc cháu Hồng,

Giáng bày ân đức Đạo thông khắp tràn.

Đức Đại Thánh oai vang bốn biển,

Lãnh quyền hành vận chuyển cơ Trời,

Trừ tà diệt mị khắp nơi,

Độ cho sanh chúng rõ lời Phật Tiên.

Quan Thế Âm gieo truyền tịnh thủy,

Một nhành dương giải mị tiêu tan,

Độ cho nhơn vật khỏi nàn,

Cơn nguy thiện niệm rõ ràng anh linh.

Đức Cửu Thiên oai danh Huyền Nữ,

Độ phàm gian vạn sự đặng an,

Lòng lành trần tục vái van,

Lượng cao đức cả sắc ban cơ huyền.

Lời chí nguyện tâm thiền niệm tụng,

Đức Hải Triều ân rộng truyền ban,

Thánh Nhân giáng tại trần gian,

Cứu nguy phàm tục khỏi nàn chúng dân.

Đức Định Phước Táo Quân phò trợ,

Bảo hộ cho trăm họ thái bình,

Từ hiền đạo đức tu hành,

Chí tâm khẩn nguyện đạt thành chơn công.

Danh Thánh Mẫu thần thông quảng đại,

Sắc ban cho nữ phái cứu đời,

Lê Sơn tiếng khắp năm nơi,

Cứu nguy sẵn có sắc Trời truyền ban.

Chốn Bồng Lai rở ràng ngôi thứ,

Sắc Diêu Trì ân tứ hạ trần,

Năm trăm Tiên-Nữ ân cần,

Bảo tồn sanh tử linh căn kiếp nầy.

Nguyền một dạ học bài Chánh Đạo,

Cầu Tổ Tiên chỉ bảo giống dòng,

Hồng Bàng tổ quốc chánh tông,

Việt-Nam u hiển con Rồng, cháu Tiên.

Cầu Bồ Tát thọ truyền Văn Thiện,

Hộ Thất Sơn vận chuyển anh linh,

Cứu dân khỏi chốn linh đinh,

Khỏi cơn tai biến, khỏi hình khổ tân.

Thất Thánh Vương mười phần hiển hích,

Độ nhơn dân dấu tích truyền ban,

Oai linh Nam Việt đồn vang,

Bảo an trăm họ đặng toàn tánh linh.

Đức Thánh Lịnh Thiên Đình thọ mạng,

Ngô Đại Tiên chưởng quản mối giềng,

Cứu đời thoát khỏi oan khiên,

Nhơn sanh nhuần gội cơ huyền lý sâu.

Oai Huệ Mạng năm châu tuần khắp,

Tam Giáo Tòa chưởng chấp giữ gìn,

Kim Tiên bản tại Tây đình,

Độ đời chiếu luật công bình giảng phân.

Châu Tước Thần Ngọc ân trừ mị,

Trấn đông phương yêu quỉ kinh hoàng,

Hộ dân cho đặng bình an,

Giữ gìn trách nhiệm bảo toàn trần gian.

Huyền Võ Thần sắc ban hành sự,

Trấn tây phương trừ khử tà tinh,

Hộ sao cho đặng an bình,

Cứu người khỏi chốn hoảng kinh giựt mình.

Thanh Long Thần Thiên Đình thọ mạng,

Trấn nam phương đánh tản tà ma,

Bảo tồn phận sự lịnh ra,

Cứu người mắc nạn khỏi sa nẻo tà.

Bạch Hổ Thần Thiên tòa lãnh lịnh,

Trấn bắc phương quỉ kỉnh yêu nhường,

Sanh linh khỏi cảnh vấn vương,

Mạng Trời độ thế thoát đường tai nguy.

Lâm Sơn Thần hiển vi độ thế,

Nghe sắc Trời mau lẹ cứu nàn,

Biết cơn mạt kiếp thế gian,

Độ an những kẻ đăng san vững vàng.

Biên Hải Thần cao ban chiếu mạng,

Thấy cảnh nguy phải rán hộ trì,

Thủy sơn tràn dậy cấp kỳ,

Thì mau lãnh sắc phò nguy dân lành.

Bổn Cảnh Thần cao xanh sắc tứ,

Phải gìn theo phận sự hộ an,

Khử trừ quỉ mị rối loàn,

Kinh ban cứu nạn, cứu nàn chúng sanh.

* Nam-Mô HUYỀN-KHUNG-CAO THƯỢNG-ĐẾ NGỌC-HOÀNG ĐẠI-THIÊN-TÔN.

* Nam-Mô CHƯ PHẬT BỒ-TÁT chuyển thế THIÊN-TÔN.

* Nam-Mô CHƯ TIÊN linh cảm phổ hóa THIÊN-TÔN.

* Nam-Mô CHƯ THÁNH tỉnh thế độ nguy THIÊN-TÔN.

* Nam-Mô CHƯ THẦN thọ sắc hộ mạng THIÊN-TÔN.

- KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN

Vì sợ sái hoặc là không biết,

Nên mau lo bổ khuyết đủ kinh;

Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,

Giờ nầy đệ tử tất tình ăn năn.

Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,

Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;

Hoặc là sơ sót nơi lòng,

Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.

Tưởng chuyện khác cũng tromg tánh ý,

Hoặc nghỉ suy rối trí gần xa;

Sẳn đây hương quả hoa trà,

Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.

Cầu Hộ Pháp Long Thiên  chứng chiếu,

Những câu kinh tụng thiếu sót sơ ;

Độ giùm tiêu tội kịp giờ,

Ba lần sám hối mong nhờ ơn dư./.

(đọc 3 lần)

KINH THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG

DIỄN NGHĨA

Kiền tâm kỉnh lễ

1. Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Huyền Khung Cao Thượng Đế.

2. Tầm Thinh Phó Cảm Thái Ất, Cứu Khổ Thiên Tôn.

3. Cửu Thiên Ứng Nguơn Lôi Thinh, Phổ Hóa Thiên Tôn.

4. Huyền Thiên Thượng Đế, Kim Khuyết Hóa Thân, Đảng Ma Thiên Tôn.

5. Cửu Thiên Khai Hóa, Thất Khúc Văn Xương Tử Đồng Đế Quân Thiên Tôn.

6. Tam Giới Phục Ma Đại Đế, Thần Oai Viễn Trấn Thiên Tôn, Quan Thánh Đế Quân.

7. Ngọc Hư Sư Tướng, Kim Khuyết Tuyển Tiên, Phù Hựu Đế Quân, Diệu Đạo Thiên Tôn.

8. Tam Nguơn Tam Phẩm, Tam Quang Đại Đế, Tam Cung Cửu Phủ, Cảm Ứng Thiên Tôn.

Nam mô Thái Thượng Đạo Tổ

Nam mô Cao Đài Tiên Ông

(Mỗi câu lạy một lạy)

Tiên ông Thái Cực tặng rằng:

Nhờ nơi kinh sám đạo hằng dạy dân.

Thiên Tôn Thái Thượng hồng ân,

Truyền kinh cảm ứng độ trần một thiên.

Muốn cho rảnh nợ tiền khiên,

Mỗi ngày một biến, tụng liền tội tiêu.

Ăn năn Trời cũng dung nhiêu,

Thọ trì một tháng, phước nhiều bền yên.

Muốn cho thất tổ thăng thiên,

Trọn năm giữ vẹn, phước liền lần lên.

Mong chờ lộc cả bề trên,

Lâu ngày chẳng trễ vào nền tiên căn.

Tiên ông Thái Thượng dặn rằng:

Rủi may không cửa, níu phăng tại mình.

Đạo Trời thưởng phạt chí minh,

Dữ lành như bóng theo mình chẳng sai.

Thứ nhất minh nghĩa tỏ bày,

Ai người tỉnh ngộ lánh rày họa tai.

Thưởng răn Trời chẳng phụ ai,

Sai thần tiên chép hôm mai chẳng lầm.

Cân theo tội lỗi khinh thâm,

Giảm thâu phúc lộc cũng năm ba phần.

Khó nghèo chờ đợi trước sân,

Gặp nhiều ưu hoạn tìm lần đến thân.

Hễ là chẳng giữ nghĩa nhân,

Khiến người đều ghét, họa gần chẳng sai.

Nếu theo việc dữ gây hoài,

Điều lành xa lánh họa tai khó rời.

Khuyên đời chẳng gọi rằng chơi,

Lộc Trời đã hết lưng vơi khó nài.

Dữ lành báo ứng chẳng sai,

Có thần Bắc Đẩu Tam Thai trên đầu.

Hễ ai tính việc cơ cầu,

Biên cho đúng tội, giảm thâu số người.

Luật Trời chớ khá dễ ngươi,

Trong mình sẵn có ba người thần linh.

Ngay gian chép đủ sự tình,

Đến ngày Canh nhật thiên đình cáo tâu.

Lại còn thần Táo trên đầu,

Ba mươi mỗi tháng đều âu y lời.

Hễ là tính việc lưng vơi,

Nhẹ thời giảm toán, nặng mười hai năm.

Thần Tiên giữ sổ chẳng lầm,

Tùy làm nạêng nhẹ mỗi năm ghi vào.

Ở đời chớ tính thấp cao,

Muốn cho trường thọ chớ vào thị phi.

Thứ hai tra xét biên y,

Làm người phải biết thạnh suy theo thì.

Gìn lòng nhớ chữ tu trì,

Hai đường phải quấy lựa đi cho nhằm.

Lưới Trời tuy rộng thâm thâm,

Chớ khi nhà tối mà lầm điều ngoa.

Xét cho rõ lẽ chánh tà,

Tu bồi công đức thương qua thú cầm.

Bỏ điều độc ác hiểm tâm,

Sửa mình ngay hảo chính tâm dạy người.

Giữ bền đạo đức tốt tươi,

Thương đàn goá bụa giúp người mồ côi.

Khá lo lễ nghĩa trau dồi,

Kính người tuổi tác, thường hồi bé thơ.

Điều lành khá nỡ lấp ngơ,

Côn trùng thảo mộc đừng quơ hại nhầm.

Hễ là đứng bậc hảo tâm,

Thươngngười hung ác, mừng thầm người nhơn.

Biết câu thiên địa tuần huờn,

Giúp người nguy cấp ra ơn cứu nàn.

Gổ ganh dạ chớ cưu mang,

Thấy ngưòi đặng việc hân hoan như mình.

Cùng là học tánh háo sinh,

Thấy người thất việc như mình đồng lo.

Dặn lòng chớ khá so đo,

Đừng chê người xấu, đừng cho hơn người.

Rèn lòng đạo lý tốt tươi,

Xấu che tốt tặng việc người mới ngoan.

Ở đời cho có chánh đoan,

Chia tiền chia vật phải toan nhượng người.

Chớ lo kẻ quấy chê cười,

Nhịn người mà chẳng giận người mới hay.

Hễ là đứng bậc nhân tài,

Đặng quan yêu chuộng sợ hoài xét thân.

Giữ bền đạo đức nghĩa nhân,

Ra ơn giúp chúng mựa cần trả ân.

Muôn điều âm chất là hơn,

Cho người nhiều ít đừng cơn tiếc thầm.

Thứ ba điều luật thiện tâm,

Chứa nhiều âm chất, phước lâm khỏi tầm

Nên hư do tại chữ tâm,

Làm người đạo đức tri âm kính nhường.

Ở đời cho vẹn nghĩa phương,

Đạo Trời ủng hộ, lộc thường đến thân.

Giữ tròn đạo đức nghĩa nhân,

Tà ma xa lánh, phước Thần giúp nên.

Lòng thành thấu đến ơn trên,

Những điều làm phải ắt nên chẳng lầm.

Tu hành luyện đặng chữ tâm,

Có ngày trông cậy đặng tầm thần tiên.

Muốn cầu đặng bậc thiên tiên,

Làm cho đủ số một thiên ba hiền.

Muốn cầu đặng bậc địa tiên,

Ba trăm điều thiện lòng chuyên lo toàn.

Thứ tư điều luật nghiêm trang,

Làm lành gặp phước Trời ban rõ ràng.

Phải thông trông máy hành tàng,

Chớ tham việc quấy mà toan động lòng.

Xét suy cho rõ đục trong,

Những điều trái lẽ đừng mong dự vào.

Phải kiêng có luật Thiên tào,

Đừng làm việc dữ hùng hào khoe khoang.

Bỏ điều kế xảo mưu gian,

Giả đò nhịn nhục lòng toan hại ngầm.

Cũng đừng có việc hiểm tâm,

Bề ngoài giả lả hại ngầm thiện lương.

Làm người chẳng biết lư hương,

Khi thầm cha mẹ quân vương tội dầy.

Chẳng lo báo ứng liền tay,

Dễ dui trên trước cùng thầy dạy khuyên.

Lòng không kính mến Tổ tiên,

Phụng thờ giả dối, huỳnh tuyềnkhổ thân.

Chẳng lo họa phước xoay vần,

Gạt người dốt nát đặng phần mình hơn.

Không cần giữ nghĩa gìn nhơn,

Chê bai bạn học khoe hơn tài mình.

Còn làm nhiều việc bất minh,

Vu oan cho kẻ thiệt tình thảm thưong.

Những người dạ ở vô lương,

Bói xoi thân tộc lẽ thường tội sâu.

Chẳng kiêng thiên ốc thiềm đầu,

Hung hăng tánh nết bất câu trẻ già.

Hiền ngu cũng chẳng dung tha,

Ỷ mình mạnh bạo hiếp hà thiện nhơn.

Hằng ngày tính thiệt so hơn,

Ngay gian chẳng xét, ỷ quờn hiếp cô.

Thói quen làm sự hồ đồ,

Đua nhau chỗ quấy việc mô chẳng nhằm.

Lại thêm độc tánh hiểm tâm,

Hiếp xô kẻ dưới đặng tầm lập công.

Ấy là xử thế chẳng thông,

Dễ dui dèm siểm phép công khi thầm.

Làm người chẳng có lương tâm,

Thọ ân chẳng nhớ, oán thầm chẳng quên.

Không kiêng Thần Thánh hai bên,

Khi dân tạo hóarối trên nước nhà.

Chẳng phân hai lẽ chánh tà,

Thưởng người phi nghĩa, tội gia người lành.

Hằng ngày tính việc cạnh tranh,

Giết người lấy của hoành hành đoạt ngôi.

Chẳng lo thiên võng khôi khôi

Giết người hàng phục, tội thôi dư ngàn.

Quen theo tánh nết lăng loàn,

Biếm người chánh trực chê người nghĩa phương.

Lại thêm lòng dạ vô lương,

Mồ côi góa bụa chẳng thương, hiếp đành

Làm quan chẳng giữ chữ thanh,

Lấp che phép nước, ăn đành của dân.

Ưa làm nhiều chuyện bất nhân,

Lấy ngay làm vạy, cầm cân không bằng.

Ỷ mình là bậc tài năng,

Đem điều gian trá gọi rằng sự ngay.

Chẳng lo báo ứng liền tay,

Tội nhẹ làm nặng hại rày lương dân.

Ở đời thiếu đức thiểu nhân,

Thấy người tội thác còn phân lỗi người.

Thương đời chẳng biết hổ ngươi,

Đã làm việc quấy vui cười chẳng nao.

Ít ai xét kỹ âm hao,

Điều lành chẳng muốn đem vào trong tâm.

Cứ theo làm viêïc lỗi lầm,

Biết mình có tội còn xâm đến người.

Lại thêm có tánh móc bươi,

Gổ ganh che lấp những người tài năng.

Chẳng tuân kinh sám khuyên răn,

Chê bai thần thánh gọi rằng tài hay.

Tưởng rằng giỏi chạy cao bay,

Xâm lăng đạo đức lại bày kiêu căng.

Chẳng tin tội dữ gia tăng,

Đuổi loài thú chạy, bắn săn thượng cầm.

Còn làm nhiều chuyện ác tâm,

Phá loài bu đậu, lấp hầm lỗ hang.

Chẳng lo vướng việc trái oan,

Hai thai phá trứng lại càng tội sâu.

Hư nên báo ứng nào lâu,

Trù người mất việc, lỗi âu về mình.

Lòng hung dạ hiểm trớ trinh,

Bày mưu hủy phá công trình người ta.

Lại thêm tánh nết chẳng hòa,

Hại người hư việc đặng mà an thân.

Lòng tham, tội phước chẳng cần,

Bớt người của cải, nhập phần mình hơn.

Lòng không đặng chút từ nhơn,

Lấy điều hung ác gọi hơn sự lành.

Chẳng kiêng trên có cao xanh,

Lo điều ích kỷ, bỏ đành việc công.

Trả vay mau nhặt chí công,

Trộm nghề, cắp kiểu, tội không nhỏ gì.

Chẳng lo họa phước liền ghi,

Việc lành của chúng phân bì lấp che.

Rủi may dạ chẳng kiêng dè,

Những điều xấu bạn, đem khoe ngạo cười.

Gổ ganh lòng chẳng hổ ngươi,

Trông mong xoi bói của người việc riêng.

Không kiêng trên có Hoàng Thiên,

Làm hư nghiệp sản bạc tiền của dân.

Ở đời chẳng giữ nghĩa nhân,

Xúi cho cốt nhục rẽ phân nhà người.

Hằng lo cuộc thế móc bươi,

Thầm mưu xâm lấn của người mến yêu.

Chẳng lo thiên võng nan điều,

Mong lòng giúp chúng làm nhiều sự gian.

Ỷ mình tàn bạo nghinh ngang,

Làm oai hiếp chúng phá làng dọa dân.

Không kiêng tạo hóa cầm cân,

Dương oai, nhục chúng để phần mình hơn.

Hung hăng chẳng sợ Trời hờn,

Phá đồ công nghệ, hôn nhân của người.

Tánh ngay chẳng biết hổ ngươi,

Gặp may đặng của thị đời kiêu căng.

Người ngu chẳng biết ăn năn,

Tội tình qua khỏi chẳng răn sửa mình.

Vụng về nào biết phân minh,

Kể ơn với chúng, trừ mình lỗi xưa.

Lòng hung dạ dữ chẳng chừa,

Bán tai, gieo họa, mua bừa tiếng khen.

Hằng gây việc quấy đua chen,

Chứa lòng độc ác nhiều phen gạt lường.

Làm người chẳng dạ tư lương,

Phá cho nhuế lụt sở trường người ta.

Lại thêm tánh quỉ nết tà,

Ém điều hư dở mình mà gạt dân.

Làm người thiếu đức thiếu nhân,

Thừa oai bức hiếp ép dân thiệt thà.

Tưởng rằng Trời Phật ở xa,

Túng dung kẻ dữ đặng mà sát nhơn.

Chẳng lo quỉ giận thần hờn,

Khi không bứng gốc chặt chơn nhánh chồi.

Hung hăng tánh dữ chẳng thôi,

Sát sanh chẳng phải nhằm hồi lễ chi.

Hà Tăng chuyện cũ còn ghi,

Phá hao ngũ cốc chẳng vì tội căn.

Lòng tham tính việc lăng xăng,

Âm mưu quấy rối đạo hằng chúng sanh.

Tham lam dạ lại gổ ganh,

Phá nhà lấy vật báu lành của dân.

Chẳng kiêng trên có thánh thần,

Đốt nhà phá cảng chẳng cần sợ ai.

Không lo họa phước tương lai,

Làm cho dân sự lạc loài gia cư.

Hằng quen ghẹo kẻ nhân từ,

Khuấy đồ kiểu vỡ cho hư công người.

Lòng phàm tánh tục móc bươi,

Phá hao vật dụng của người uổng oan.

Thấy ai đang lúc vinh vang,

Cầu cho mắc việc vào đàng tân toan.

Thấy ai đang lúc giầu sang,

Cầu cho thất bát nghèo nàn tiêu hao.

Lại thêm ghẹo nguyệt trêu đào,

Thấy người sắc tốt đem vào lòng thương.

Lại thêm có tánh gạt lường,

Thiếu người tiền bạc lo phương rủa người.

Bởi lòng chẳng đặng tốt tươi,

Nguyện cầu không ứng, hổ ngươi oán hờn.

Chẳng suy xét việc tiền duơn,

Thấy người đói khổ, thừa cơn siểm dèm.

Gặp ai tướng xấu khó xem,

Chẳng lo quả báo, siểm dèm cười chê.

Thấy người tài trí chỉnh tề,

Đã không kính phục, lại chê cũng kỳ.

Thứ năm luật phạt chép ghi,

Những là tội ác biên ghi mỗi người.

Chẳng lo vay một trả mười,

Chôn bùa luyện phép ếm người mạng căn.

Không tin tội phước giáng thăng,

Dùng đồ thuốc độc giết căn cội nhành.

Tánh ưa lỗ mãng đua tranh,

Trêu gan thầy thợ, lại giành mình khôn.

Nghịch thiên thì tội dập dồn,

Xâm lăng anh chị, không tôn nghiêm đường.

Chẳng lo thiên lý chiếu chương,

Tham lam của chúng, gạt lường xin ngang.

Quen theo tánh nết bạo tàn,

Ưa điều xâm phạm giật ngang tranh giành.

Chẳng lo nhớp kiếp nhơ danh,

Làm nghề cướp giật vui đành giàu sang.

Tưởng mình là bậc khôn ngoan,

Lập mưu xảo trá cầu ban đổi dời.

Lòng còn tính việc lưng vơi,

Thưởng răn kẻ dưới chẳng lời nào công.

Ở đời đạo lý chẳng thông,

Vui chơi phí lãng, dạ không tiếc tiền.

Lại lòng chẳng sợ oan khiên,

Hiếp xô kẻ dưới, không kiêng lưới trời.

Tập tành tánh nết lộng khơi,

Dọa hăm dân chúng cậy lời mình hung.

Ngỗ ngang thần thánh khó dung,

Oán hờn trời phật, giận khùng thế gian.

Cứ quen tánh nết bạo tàn,

Chưởi mưa mắng gió tội càng thêm sâu.

Xúi mưu là tội đứng đầu,

Đua nhau kiện cáo đặng cầu mình hơn.

Làm người chẳng giữ nghĩa nhơn,

Dua theo phe đảng thiệt hơn khuấy đời.

Tánh tình dời đổi nay mơi,

Nghe theo thê thiếp, bỏ lời mẹ cha.

Chẳng suy xét việc gần xa,

Dùng điều mới, tính bỏ qua việc rồi.

Chẳng lo thiên võng khôi khôi,

Lòng ưa việc quấy, miệng lời ngọt ngon.

Chẳng lo phước đức hao mòn,

Tham lam vô yếm, càng bòn của dân.

Làm người chẳng biết tứ ân,

Dễ duôi phép nước gạt lần bề trên.

Không tin báo ứng hư nên,

Dùng lời độc ác, dựa bên miệng hoai.

Chẳng lo tránh việc họa tai,

Siểm dèm, kích bác, chê bai kẻ thường.

Chẳng thông hữu xạ nhiên hương,

Chỉ người chỗ vạy, khoe đường mình hay.

Không lo báo ứng liền tay,

Xưng mình chánh trực, mắng rày thần linh.

Vạy ngay chẳng xét phân minh,

Bỏ thuận theo nghịch không gìn lễ nghi.

Dữ lành trời phạt thưởng y,

Người ngoài khắng khít, chẳng vì người trong.

Liều thân thề thốt như giông,

Chỉ trời đất nguyện chứng lòng xấu xa.

Nghinh ngang ưa thói xiên tà,

Cầu thần xem xét những là điều nhơ.

Mua khen thiệt dạ chẳng ngờ,

Thí cho kẻ đói còn mơ ước hoài.

Tánh tham, dạ xấu không phai,

Dối lòng mượn của, để hoài giả quên.

Chẳng suy xét việc hư nên,

Cầu điều vô ích xin trên chứng nguyền.

Thạnh suy bĩ thới chẳng kiêng,

Ăn xài quá mức coi tiền như rơm.

Làm người chẳng giữ danh thơm,

Dục dâm quá độ, bệnh hờmmột bên.

Nhiều người chẳng sợ oai trên,

Bề ngoài giả dối, gươm tên chứa lòng.

Chẳng suy xét việc đục trong,

Lấy đồ dơ uế ép lòng người ăn.

Xưng mình tả đạo tài năng,

Phép phù gạt chúng, xưng mình hiển linh.

Bán buôn tính việc trọng khinh,

Thước non đo thiếu phạm tình tham gian.

Chác lòng những việc hổ hang,

Giạ non gạt hụt làm đàng sai ngoa.

Lại thêm ưa việc vạy tà,

Dùng hư trộn thật đặng mà lợi riêng.

Chẳng lo quả báo nhãn tiền,

Lượm đồ gian giảo tội truyền cháu con.

Không tin tội chứa phước mòn,

Ém điều lành tốt đổi lòn điều hư.

Trớ trinh dạ chẳng nhơn từ,

Gạt người khờ dại tội dư muôn ngàn.

Hằng lo kết việc trái oan,

Tham lam phải chịu tai nàn ngày sau.

Rủi may thiên võng nan đào,

Dối trù nguyện thấu thiên tào cầu ngay.

Lòng phàm tánh tục dại ngây,

Say sưa quá độ, sanh rầy đệ huynh.

Đạo nhà xử chẳng phân minh,

Trai không hiếu thảo, gái sinh ngang tàng.

Chẳng gìn tứ đức tam cang,

Không hoà gia thất, ngỗ ngang với chồng.

Làm người tánh nết chẳng thông,

Khoe khoang tài giỏi lòng không kiêng dè.

Công dung ngôn hạnh vắng hoe,

Cố điều ghen ghét, chẳng nghe lời chồng.

Làm trai xử phận chẳng thông,

Ở ăn không hạnh, nặng lòng thê nhi.

Chẳng tròn phận gái vu qui,

Lỗi cùng cha mẹ, tôn ti bên chồng.

Chẳng kiêng trên có thiên công,

Vong linh trên trước lòng không kiêng vì.

Làm con chẳng giữ lễ nghi,

Nghịch lời cha mẹ, không vìbỏ qua.

Chẳng suy xét việc gần xa,

Làm điều trái lẽ lại hoà ý riêng.

Lẽ trời báo ứng chẳng kiêng,

Giả đò rủa phận, tự nhiên rủa người.

Chẳng ham học tánh tốt tươi,

Ghét thương vô độ, làm người chẳng công.

Rủi may chẳng lọt mảy lông,

Bước ngang lò giếng, không phòng tội sau.

Nào hay tội phước là đâu,

Bước ngang vật thực, trên đầu người ta.

Chẳng lo đọa xuống diêm la.

Hại thai phá trứng tội đà dư muôn.

Trả vay tội phước in khuôn,

Làm điều khuất lấp ra tuồng gian nhơn.

Oai linh thần thánh đã lờn,

Ba mươi, mồng một hát hờn rầy la.

Tánh tình ăn ở xông pha,

Day qua hướng bắc đái, và khạc dơ.

Lại thêm lòng chẳng kính thờ,

Day vô bếp núc ngâm thơ rủa trù.

Ở ăn theo thói phàm phu,

Đốt hương trong bếp, giảm lu phước nhàn.

Cùng người tánh chẳng kỹ càng,

Củi dơ nấu nướng ăng càng mùi tanh.

Chẳng phân chỗ trược, chỗ thanh,

Ban đêm lõa lộ, chẳng gìn vóc thân.

Luông tuồng chẳng biết xét phân,

Hành hình tám tiết bội phần chẳng nao.

Không lo tội phước âm hao,

Nhổ phun sao giá, biết bao lỗi lầm.

Ngỗ ngang taánh ở phạm xâm,

Lấy tay chỉ mống như hăm dọa trời.

Chẳng lo hồn phách lưng vơi,

Chỉ ba ánh sáng buông lời khinh khi.

Dễ ngươi trời phật từ bi,

Ngó lâu nhật nguyệt cũng khi lỗi lầm.

Ham vui tập thói hung tâm,

Mùa xuân săn bắn đốt lầm rừng hoang.

Ở ăn tánh nết bạo tàn,

Day qua hướng bắc mắng ngang rủa bừa.

Sát sanh hại mạng chẳng chừa,

Khi không đập rắn, giết bừa rùa qui.

Thứ sáu điều luật chép ghi,

Những là tội dữ biên y mỗi kỳ.

Trọng khinh các tội đều ghi,

Táo thần tra xét giảm kỳ số căn.

Đạo trời lành thưởng, dữ răn,

Chẳng cần đợi số, dứt căn nguyên người.

Luật trời khuyên chớ dễ ngươi,

Tội dư dồn lại cho người đời sau.

Trả vay thiên võng nan đào,

Tai ương các tội biên vào cháu con.

Cũng như cối đá hao mòn,

Cướp người của cải, vợ con tội đồng.

Trả vay chẳng lọt mảy lông,

Phạt lây gia quyến cũng trong luật điều.

Nếu không đổi tánh khoan nhiêu,

Phạt cho đến thác chưa tiêu tội trần.

Nếu mà chưa tới căn phần,

Thủy hỏa đạo tặc lần lần đến xâm.

Hung tinh bịnh hoạn đến tầm,

Mất đồ, khẩu thiệt cũng thâm nhập mình.

Lẽ trời báo ứng rất minh,

Phạt cho vừa tội ỷ mình giật ngang.

Lại còn những kẻ bạo tàn,

Sát nhân hại mạng lại càng tội sâu.

Trớ trinh là tội đứng đầu,

Mượn tay đổi giáo ngõ hầu giết nhau.

Tham lam phước đức mòn hao,

Dụng tài phi nghĩa lẽ nào bền lâu.

Xét suy nghĩ rõ cạn sâu,

Cũng như thịt độc ăn hầu đỡ lao.

Rượu ngâm chim trấm uống vào,

Đã không đỡ khát lại hao tinh thần.

Làm người chẳng biết xét phân,

Dầu cho quỉ quyệt cũng phần tử sinh.

Đạo trời báo ứng chí minh,

Nhằm điều thứ bảy phạt hình trả vay.

Nếu lòng muốn khởi thiện tai,

Lành chưa làm tới, phước lai chẳng lầm.

Còn lòng muốn khởi ác tâm,

Ác tuy chưa khởi họa xâm đến mình.

Kiết hung hai lẽ phân minh,

Là điều thứ tám sửa mình thiện lương.

Nên hư báo ứng tỏ tường,

Ai người tỉnh ngộ còn phương chuộc trừ.

Dầu mà làm lỡ ác dư,

Ăn năn chừa lỗi cũng trừ đặng cho.

Trong khi rảnh việc sánh so,

Những điều độc ác chớ cho vướng nhầm.

Việc lành chất để vào tâm,

Lâu lâu ắt gặp phước lâm môn đình.

Lành ban, dữ phạt phân minh,

Mới rằng đổi hoạ cho mình phước lai.

Thứ chín tội phước đều cai,

Ăn năn sám hối tiêu tai nạn trừ.

Cho nên những kẻ nhân từ,

Lời lành, làm phải, xem chư việc lành.

Tánh tình vẹn giữ trong xanh,

Một ngày đều đặng ba lành vào tâm.

Xét thân mỗi bữa chẳng lầm,

Ba năm trời thưởng, phước cầm bền lâu.

Còn người có dạ hiểm sâu,

Lời ngang, xem quấy, ác âu lo làm.

Bởi lòng chứa quấy bạo tham,

Một ngày ba ác đều cam vào lòng.

Cứ điều độc ác cố mong,

Ba năm trời phạt, khó hòng nài kêu.

Dữ lành tội phước đều nêu,

Sao mà chẳng bỏ những điều hiểm sâu?

Trăm năm trong cuộc biển dâu,

Lỗi lầm mau khá hồi đầu lánh tai.

Thứ mười luật định chẳng sai,

Khuyên trong già trẻ gái trai sửa mình.

- KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN

Vì sợ sái hoặc là không biết,

Nên mau lo bổ khuyết đủ kinh;

Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,

Giờ nầy đệ tử tất tình ăn năn.

Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,

Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;

Hoặc là sơ sót nơi lòng,

Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.

Tưởng chuyện khác cũng tromg tánh ý,

Hoặc nghỉ suy rối trí gần xa;

Sẳn đây hương quả hoa trà,

Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.

Cầu Hộ Pháp Long Thiên  chứng chiếu,

Những câu kinh tụng thiếu sót sơ ;

Độ giùm tiêu tội kịp giờ,

Ba lần sám hối mong nhờ ơn dư./.

(đọc 3 lần)

KINH CHÚC CẦU GIA TÔ GIÁO CHỦ

Lạy cầu con một Chúa Cha,

Gia Tô cứu thế xót xa tôi cùng,

Cũng vì nơi tội Tổ Tông,

Ngôi Hai phải dưng máu hồng rửa tan,

Chúng con chơn giáo mơ màng,

Cho nên ngày trước daajo vàng lãng lơ.

Xa xôi khác cõi cách bờ,

Đông Dương một cõi Thiên thơ chưa tường.

Cúi xin chỉ lối đưa đường,

Nước Cha chầu chực xót thương trao lời.

Chúa Cha chín ngự ngôi Trời,

Chúa con ngai hữu đồ đời hiển vang.

Bởi nơi chúa thác rõ ràng,

Mà sao sống lại được ban ân lành.

Chúng con muôn tội cam đành,

Vi chưng tối mắt chưa nhìn biết Cha.

Cả kêu một tiếng lạy Cha,

Chúng con biết tọi xin tha con mà.

Lạy cầu con một Chúa Cha,

Gia Tô cứu thế xót xa tôi cùng.

KINH CHÚC TỤNG ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN

Lòng thành kính khấn cầu minh đức,

Ngô Đại Tiên vào bực Thiêng liêng;

Ngày nay đệ tử khẩn nguyền,

Chí tâm đảo cáo lòng thiền niệm hương.

Ơn chí cả tô đường từ thiện,

Nghĩa soi truyền dạy luyện linh đơn;

Ghi xương tạc dạ chi sờn,

Dễ đâu dám phụ cái ơn dắt dìu.

Thầy xuống thế trăm điều cay đắng,

Chịu thai phàm mà chẳng nhiễm tâm;

Miệng không gậm sửa xác phàm,

Treo gương tạc để nêu làm sử xanh.

Còn thọ đủ nhọc nhằn lao khổ,

Nhờ siêng năng báo bổ cù lao;

Cà sa chẳng đổi sắc màu,

Trọn niềm chung thủy đổi trao bạn hiền.

Thầy vĩnh trấn Hà Tiên Tầm đạo,

Đức Chí Tôn dạy bảo huyền vi;

Mở mang Đại Đạo Tam Kỳ,

Chúng sanh tu niệm kịp kỳ Long Hoa.

Người lương thiện trẻ già sùng bái,

Kẻ từ tâm kính lạy chơn linh;

Xin thương chút phận thật tình,

Dắt dìu cho đặng hồn linh khỏi phiền.

Ngày mùng bảy tháng giêng sanh nhựt,

Năm Mậu Dần hiện xuất Thánh Nhơn;

Tháng ba, giờ Ngọ, Nhâm Thân,

Mười ba Thầy đã quy thần Cửu Long.

Người lương thiện tồn vong ghi để,

Ngày hôm nay kẻ thế mến yêu;

Dụng trong tam bửu ít nhiều,

Có thương về chứng dắt dìu chúng anh.

KINH DI ĐÀ

LƯ HƯƠNG TÁN

Lư hương đốt khói hòa ngút toả,

Mùi thơm bay khắp cả thành tâm;

Các vì Phật ở biển Nam,

Thấy mùi thơm ấy dương trần thành tâm.

Vì mùi hương tốc trầm thành thật,

Các chư Tiên cùng Phật khinh thanh;

Chứng lòng thế sự tâm thành,

Đằng vân xuống chốn dương trần chứng minh.

PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ

Phật ra lời dạy kinh nầy,

Tụng kinh Tam Bảo phải dày lương tâm.

Dầu cho tụng niệm mãn năm,

Bụng không cố tưởng như cầm mà chơi.

Kinh Di Đà

Thích ca mới sang qua Xá Vệ,

Cội Bồ Đề thành lễ thi ân;

Dạy cho dân biết sự lành,

Nước này lại có một thành mồ côi.

Ngàn đồ đệ ra đời thành Phật,

Lại hai trăm năm chục lòng thành;

Mấy vì La Hán có danh,

Di Đà coi hết cho rành thiệt hơn.

Xá Lợi chỉ nguồn cơn Trưởng Lão,

Hiểu cho tường Tôn giáo trung lương;

Từ đây qua tới Tây Phương,

Mười muôn ức cảnh Phật đường đến nơi.

Chốn cực lạc thảnh thơi phép lạ,

Tánh từ nhiên khỏi hoạ như đời;

Nước nầy thiên hạ rạng ngời,

Hưởng bề vui toại ăn chơi cả đời.

Di Đà Phật hiệu thời chánh giáo,

Người còn đương giảng đạo nhơn sanh;

Dân thành Xá Vệ làm lành,

Không điều cực khổ nhọc nhành tấm thân.

Xá Lợi lóng nghe phân cho thạo,

Cực lạc là cảnh báo Tây Phang;

Hàng rào bảy lớp lan can,

Cả đều bao lưới bảy hàng cội xanh.

Cây đại thọ báu lành các nhánh,

Nhìn xem thôi thắng cảnh nguy nga;

Nhắm xem vui đẹp lắm mà,

Thế gian nào có được toà thiên nhiên.

Xá Lợi rõ căn duyên Phật đạo,

Chốn Tây phang cảnh báu xiết bao;

Cảnh này có một cái ao,

Tên là Thất Bửu, báu châu thiếu gì.

Châu mả não, lưu ly, xích phát,

Vàng tốt cao lộn cát thềm ao;

Trong ao tám thứ báu mầu,

Ngày đêm tỏ rạng, có cầu quyền oai.

Trên ao có lầu đài kim cổ,

Xa cừ, san, cẩn đổ bốn bên;

Trong ao nhiều thứ bông sen,

Hình như cái bánh xe đèn rất to.

Hơi bay khắp thơm tho các xứ,

Chiếu hào quang nhiều thứ lạ thường;

Vàng, xanh, trắng, đỏ sắc hường,

Hào quang lại chiếu âm dương chập chồng.

Chiếu dọi bốn thứ bông phưởng phất,

Chốn Bồng lai Tây vức thiệt vui;

Xá Lợi Trưởng Lão ngài ôi!.

Cực lạc chốn ấy đủ thời báu châu.

Thiệt phước đức nhiệm mầu rộng rãi,

Thiệt trang nghiêm quảng đại cao sâu;

Trưởng lão phải rõ cơ cầu,

Chốn ấy nghe tiếng nhạc âu khua hoài.

Vàng dưới đất động thay văng vẳng,

Giọng thấp cao dài vắn êm tai;

Thật vui nơi cảnh Tây đài,

Ước cho trần thế gặp ngày hậu lai.

Đêm có sáu giờ ngoài bông rụng,

Mạng Đà La bay xuống như mưa;

Người người nước ấy sớm trưa,

Sáng ra đi lượm đem đưa người dùng.

Ăn bông thể như cơm chẳng khác,

Chốn Tây Phang Cực Lạc độ đời;

Đến trưa về mới tới nơi,

Thường ngày tế độ cho người dùng ăn.

Cho Xá Lợi rõ căn lịch sử,

Chim Tây Phương nhiều thứ biết kêu;

Giống như hạt trắng rất nhiều,

Chim công, anh võ tiếng kêu khác thường.

Xá Lợi rõ thấy thương cộng mạng,

Lăng Tần Đà được hản đông tây;

Giọng cao lảnh lót ghê thay,

Giọng trầm như nhặt nào khuây tất lòng.

Kêu như biết luật thông giảng đạo,

Vọng từ ngằn thiện bảo rất hay;

Khi dân nghe tiếng chim này,

Bâng khuâng tưởng Phật, nhớ Thầy đòi cơm.

Xá Lợi tưởng thiệt hơn chưa rõ,

Tưởng chim kia gốc nọ luân hồi;

Đầu thai chốn ấy đền bồi,

Vì căn kiếp trước chưa rồi trả vay.

Tưởng vầy ắt lầm sai đó hẳn,

Bởi nơi đây thật chẳng lỗi lầm;

Từ nhiên giữ trọn đức âm,

Làm lành lánh dữ, đừng ham tranh đời.

Giữ ba điều được rồi không khó,

Mà tại sao chim có líu lăng;

Di Đà người hoá chim sang,

Đặng cho cả nước biết đàng từ bi.

Xá Lợi rõ lời ni thành Phật,

Gió cây đưa phưởng phất bảy vòng;

Lớp thì bao lưới phủ giăng,

Tiếng kêu trầm nhặt đau lòng thiệt hơn.

Lưới cây tợ giọng đờn rỉ rã,

Dân đồng nghe hòa nhã nào khuây;

Bổng liền nhớ Phật nhớ Thầy,

Nhớ trong kinh kệ luận đầy trang nghiêm.

Xá Lợi rõ căn duyên tiêm tất,

A Di Đà hiệu Phật cớ sao;

Bởi người có phép tài cao,

Thần thông quảng đại soi vào mười phương.

Gồm thế giới tỏ tường hiện thấy,

Nên người xưng hiệu ấy độ đời;

Than rằng Xá Lợi Ngài ôi !

Người bên cực lạc sống đời nguy nga.

Cũng như Phật Di Đà tan hiệp,

Người tử sanh mười kiếp thiêng liêng;

Xá Lợi nge rõ phỉ nguyền,

Bởi vì đệ tử khó biên tất lời.

Hằng hà rõ độ đời một dạ,

Đồng xét ra công quả cao xa;

Những người đệ tử Di Đà,

Thành tâm tu niệm gọi là thiêng liêng.

Đồng một ý kiền thiền tưởng Phật,

Đồng nhứt tâm âm chất công miên;

Số dân nước ấy uyên thiên,

Gọi là vô lượng, vô biên hằng hà.

Xá Lợi rõ người mà tin tưởng,

Vì hồn ai cũng muốn sang đây;

Cầu xin Trời Phật đầu thai,

Xá Lợi sau rõ hồn ai sở nguyền.

Hồn muốn dựa thiêng liêng cho khoẻ,

Đặng cầu gần với kẻ tu tâm;

Tránh nơi thế tục lạc lầm,

Thiên đường Phước đức muôn năm khỏi tầm.

Xá Lợi nghĩ suy thầm biết được,

Người không duyên ít phước dễ sao?

Muốn qua cực lạc được nào,

Xá Lợi nghe rõ âm hao thì rành.

Thế nam nữ trọn lành bổn tánh,

Nghe từ bi đức hạnh xót xa;

Mến thương đức Phật Di Đà,

Giữ lòng tín ngưỡng gọi là thảo ngay.

Niệm thầm dạ để hoài biến lấy,

Một ngày cho tới bảy thành tâm;

Chẳng nên nhớ việc khác lầm,

Làm lành lánh dữ đừng ham gây thù.

Rán bòn mót công phu cho rạng,

Đến ngày sau chung mạng chẳng xa;

Đệ tử cùng Đức Di Đà,

Lại gần trước mặt khuyến mà hồn yên.

Dặn hồn chớ đảo điên bồ bặc,

thường đâu dám bắt đem đi;

Từ nhiên hồn đặng hồi qui,

Về nơi đất Phật một khi thanh nhàn.

Đó là chốn Tây phang phước đức,

Đó là tâm tưởng Phật thiêng liêng;

Xá Lợi nghe rõ xứ Tiên,

Bởi vì, sự quý nên khuyên cho đời.

Nam nữ có nghe lời cầu phước,

Thì ngày sau về được Tây phang;

Đặng làm dân Phật ở an,

Phải nghe lời dạy bảo toàn vẹn thân.

Xá Lợi rõ lời phân chơn thật,

Nảy giờ đây tích Phật kể ra;

Ta khen Đức Phật Di Đà,

Phật là tài cả cao xa tỏ tường.

Nay ta kể sáu phương cao thấp,

Cho hiểu rành lục thập vân vi;

Hướng Đông Phật A Súc Tì,

Tu Di Tướng Phật tên thì của ông.

Đại Tu Di nhìn vong thương xót,

Tu Di Quang đức Phật độ dân;

Diệu Âm Phật ân cần,

Hằng hà Phật nhỏ muôn phần dày công.

Đều có phép thần thông quảng đại,

Khắp ba ngàn thế giới tuần coi;

Thốt lời chơn chánh hẳn hoi,

Các người rán niệm Phật Trời cứu cho.

Lời dạy biểu đắn đo khó nhớ,

Ngài xót thương ủng hộ vẹn toàn;

Khuyên người trong cõi thế gian,

Rán mà tu niệm biết đàn pháp tăng.

Phương Nam Nhựt Nguyệt Đăng âm chất,

Đức Danh Văn Quang Phật từ bi;

Đại Diệm Kiên Phật rộng suy,

Tu Di Đăng Phật Ngài thì ra ân.

Vô lượng Phật chuyên cần tế độ,

Phật hằng hà sa số thiếu chi;

Hết lòng niệm chữ A Di,

Thần thông quảng đại thua gì phương Đông.

Phương Tây Lương Thọ Ông tánh chất,

Vô Lương Đài Tướng Phật siêu thăng;

Lại có Vô Lượng Phật Tràng,

Đại Quang Minh đức cận hàng Tịnh Quang.

Bửu Tướng đức Phật toan độ dẫn,

Thế lâm nàn cầu khẩn được qua;

Các hàng chư Phật hằng hà,

Ba ngàn thế giới gọi là tư lương.

Phương Bắccó Diệm Vương đại đức,

Tối Thắng Âm thành Phật độ đời;

Nan Thơ cùng Phật độ người,

Võng MinhPhật gần thì Nhựt Sanh.

Hằng hà Phật đức lành hà hải,

Xem ba ngàn thế giái quản cai;

Dặn lòng trần thế chớ sai,

Rán mà tu niệm có ngày siêu thăng.

Phương Dưới có Danh Văn Sư Tử,

Phật Danh Quang công cứ độ nàn;

Đạt Ma với Phật Pháp Tràng,

Cùng là Trì Pháp Tây phang thanh nhàn.

Hằng hà Phật khó toan kể lại,

Coi ba ngàn thế giái được an;

Như ai tin tưởng vái van,

Từ bi theo Phật được toàn linh tâm.

Phương Trên có Phạm Âm thành Phật,

Túc Vương cùng đức Phật Thượng Hương;

Thương đời nên mới lo lường,

Đại Diệm Kiên Phật chung đường Hương Quang.

Tạp Sắc Bửu Hoa toan cầu phước,

Nghiêm Thân, Ta La Phật Thọ Vương;

Bửu Hoa Đức Phật tỏ tường,

Kiến Nhứt Thiết Nghĩa chung đường từ bi.

Như Tu Di rộng suy quảng đại,

Coi ba ngàn thế giái công minh;

Chúng sanh có dạ tu hành,

Trọn đời thong thả, hồn linh nhẹ nhàng.

Xá Lợi luận người toan tưởng Phật,

Sau Phật dùng âm chất độ cho;

Trẻ già trai gái biết lo,

Niệm kinh lòng tưởng rủi ro có Ngài;

Dặn lòng chớ đơn sai tín ngưỡng,

Dạ từ bi tín ngưỡng hồn linh;

Mảng đời có chí làm lành,

Sau về chánh quả nhập thành Nhuỵ châu.

Ai phát nguyện lòng tu tập luyện,

Hoặc là gần phát nguyện sở nguyền;

Về nơi cực lạc ở yên,

Xin đừng xao lảng sở nguyền đừng quyên.

Thành chánh quả vững bền được đắc,

Nắm Phật tâm gắn chặt thiêng liêng;

Đầu thai qua đó khỏi phiền,

Bởi lời nguyện trước dạ thiền ước mơ.

Kẻ sanh sau đợi chờ nào trễ,

Rồi đến sau đâu để mất phần;

Nếu mà nam nữ hiền nhân,

Có lòng sở nguyện được phần siêu thăng.

Nếu giờ kể Thiên đàng phước đức,

Ta đáng khen chư Phật cao sâu;

Thiệt là tài cả nhiệm mầu,

Từ Bi quảng đại ai hầu dám đương.

Phận ta nghĩ mà thương cho phận,

Đắc quả thành lận đận hiểm nguy;

Quý danh Thích Ca Mâu Ni,

Nhọc nhành rất khó xiết chi buộc ràng.

Ta thường dạo Thiên đàng trông thấy,

Nhìn trần gian thế giái luân hồi;

Năm điều uế trược ôi thôi,

Tai nghe mắt thấy, gẫm thời trược ô.

Đông người trược biết mô tránh được,

Mạng ở gần cũng trược biết bao;

Thảm phiền cũng trược dễ nào,

Thể nào trược cả thấp cao năm điều.

Rán sửa tánh dắt dìu tu niệm,

Rán thành tâm đặng kiếm công phu;

Soi lòng vẹt ngút mây mù,

Khác nào bóng nguyệt đêm thu rõ ràng.

Trong cõi trược khó toan tu luyện,

Mà lòng chuyên thiện nguyện mới thành;

Về lòng của thế chúng sanh,

Giảng điều công quả dạ đành không tin.

Thế ít chịu nghe kinh cải hoá,

Ta được thành đắc quả thạm nan;

Giảng lành cho chúng tỏ tàng,

Thật là rất khó không màng không tin.

Khuyên bá tánh giữ gìn bổn tánh,

Đặng ngày sau đức hạnh công minh;

Phật ngồi giải nghĩa chơn tình,

Với ông Xá Lợi bổn kinh vẹn toàn.

Các chư Phật luận bàn tập luyện,

Vui lòng theo tình nguyện tu hành;

Cúi đầu làm lễ Tiên sanh,

Di Đà giải nghĩa phân rành trước sau./.

CHÚ VÃNG SANH

Nam Mô A Di Đà bà dạ, Đa tha già đa dạ, đa điệc dạ tha. A Di rị đô bà tì, A Di rị đa, tất đam bà tì. A Di rị đa tì ca lang đế, A Di rị đa tì ca lang đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.

(đọc 3 lần)

KHEN PHẬT A DI ĐÀ

Tây phương Giáo chủ Phật Di Đà,

Tịnh độ, Năng nhân tạo hóa ra.

Bốn tám nguyện xưa hằng độ chúng,

Lời thề rộng lớn thật sâu xa.

Thượng phẩm Thượng sanh đều tế khắp,

Đồng lên chín phẩm Bửu liên tòa.

KÍNH LỄ MƯỜI HAI HIỆU NHƯ LAI

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Vô Lượng Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Vô Biên Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Vô Ngại Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Vô Đối Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Diệm Vương Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Thanh Tịnh Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Hoan Hĩ Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Trí Tuệ Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Nan Tư Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Bất Đoạn Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Vô Xưng Quang Như Lai.

Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Siêu Nhựt Nguyệt Quang Như Lai./.

BỔ KHUYẾT

Bổ khuyết tâm kinh đời cải hóa,

Tiếng Ba La Bát Nhã Mật Đa;

Khuyên người hiểu chỗ chánh tà,

Nơi mình mơ ước Phật ma ở lòng.

Vị Bồ Tát ước mong thì đặng,

Chớ trù trì dùn thẳng hư tâm;

Có khi sa hố, sụp hầm,

Có khi còn phải lạc lầm Bàng Môn.

Thời chiếu kiến giai không ngũ uẩn,

Phải tập rèn cho xứng Thánh minh;

Lỗ tai con mắt công bình,

Cái miệng, lỗ mũi, thân hình là năm.

Tai đừng lóng giọng phàm phân giải,

Mắt đừng xem sự quấy sắc tà;

Miệng đừng vọng ngữ kêu ca,

Tránh điều thất đức giục hòa tục ngôn.

Mũi chớ hửi mùi thơm hương sạ,

Đừng dục ưa thịt cá là ngon;

Cái thân tránh khỏi quyền môn,

Năm điều giữ đặng bảo tồn Phật thân.

Lánh ách nạn chớ gần hung dữ,

Hiểu chăng Xá Lợi Tử là chi?

Đó là lòng Phật Mâu ni,

Trọng tâm cho lớn việc chi chẳng màng.

Đời dầu có muôn ngàn đâu ắt,

Mãnh hồng trần chưa chắc còn không.

Huống chi của cải mênh mông,

Để cho trong sạch, tâm không Đại đồng.

Thấy việc có tưởng không, không đó,

Thấy việc không tưởng có, có đâu;

Đắm say trần lụy sang giàu,

Thân mình còn mất chừng nào đâu hay.

Xá Lợi Tử tâm này quả quyết;

Không sanh ra, không chết, không ngờ;

Không hư, không sạch, không dơ,

Không thêm, không bớt, như tờ tự nhiên.

Nên hồn ở Trung thiên không sắc

Không quấy tham con mắt lỗ tai;

Miệng cùng cái mũi chân mày,

Cái mình, cái ý hình hài lục căn.

Đừng động tới, đừng phăng quyến tưởng,

Còn lục trần chớ vướng vụ thần;

Thinh hương vị xúc sắc thân,

Tốt lành để lóng giọng đờn êm tai.

Mùi ngon ngọt giọng dài tư tưởng,

Giục thần hồn ảnh hưởng mê tân;

Mắt không nên ngó sắc trần,

Tai không nghe lóng lời phân tiếng cười.

không hửi nơi mùi thơm ngọt,

Miệng không thèm chuốc ngót ước ao;

Ý không giai động sắc màu,

Ý mình chớ tưởng thấp cao pháp tà.

Mắt không ngó lòng ta không động,

Lửa vào lòng ắt nóng tối đen;

Mệt thần sanh dữ thấp hèn,

Tưới cho tắt đặng nhúm nhen tinh thần.

Không hờn giận tấm thân mát mẻ,

Thanh tịnh hoài được khỏe tâm cang;

Không sanh bịnh hoạn khốn nàn,

Không già, không chết đạo tràng bửu minh.

Chớ tính kế mà sinh sợ hãi,

Đừng âm mưu nghi ngại nơi tâm;

Luyện thần tránh chỗ lo thầm,

Lòng đừng tráo trở lạc lầm khó toan.

Suy nghĩ hội Niết Bàn mồng tám,

Trong tháng mười xúc cảm Mâu Ni;

Thích Ca giảng đạo vô vi,

Truyền bá chữ mặc một khi đắc thành.

Đạo Tiên dạy làm thinh lặng lẽ,

Dưỡng khí Thần mát mẻ nơi tâm;

Tâm kinh dạy bảo kiếm tầm,

Dạy đời cho hiểu chữ Tâm mà lần.

Tam thế Phật tưởng trần khó nghĩ,

Phật Di Đà, Thế Chí, Quan Âm;

Ba đời chư Phật không lầm,

Chơn kinh giữ đặng tu nhằm Phật xưa.

Dạy những kẻ Thượng thừa, Trung, Hạ,

Noi theo lo công quả mà tu;

Thiên đàng bền vững ngàn thu,

Chí tâm sửa tánh công phu lọc lừa.

Tầm đặng đến Thượng thừa quả vị,

Tam diệu Tam địa chỉ Bồ Đề;

Này là thần chú giác mê,

Trừ phiền khổ não chẳng hề đơn sai.

Ở được vậy thường hoài là Phật,

Bát Nhã Ba La Mật Thị Đa;

Lời khuyên trai, gái, trẻ, già,

Tâm kinh bổ khuyết diễn ca cạn lời./.

-KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN

Vì sợ sái hoặc là không biết,

Nên mau bổ khuyết đủ kinh;

Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,

Giờ này đệ tử tất tình ăn năn.

Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,

Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;

Hoặc là sơ sót nơi lòng,

Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.

Tưởng chuyện khác cũng trong tánh ý,

Hoặc nghĩ suy rối trí gần xa;

Sẵn đây hương, quả, hoa, trà,

Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.

Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,

Những câu kinh tụng thiếu sót sơ;

Độ giùm tiêu tội kịp giờ,

Ba lần sám hối mong nhờ ân dư.

(đọc 3 lần)

KINH VU LAN

LƯ HƯƠNG TÂN

Lư hương đốt khói hòa ngút tỏa,

Mùi thơm bay khắp cả thành tâm;

Các vị Phật ở biển Nam,

Thấy mùi thơm ấy dương trần thành tâm.

Vị mùi hương tốc trầm thành thật

Các chư Tiên vùng Phật khinh thanh;

Chứng lòng thế sự tâm thành,

Đằng vân xuống chốn dương trần chứng minh.

KHAI KINH

Vô thượng thậm thâm huyền diệu pháp,

Trăm ngàn muôn kiếp khác gặp kinh;

Ta nay thấy rõ tất tình,

Giải quyền thiệt rõ chơn tình như lai.

Phật ra lời dạy kinh này,

Tụng kinh Tam bảo phải dày lương tâm.

Dầu cho tụng niệm mãn năm,

Bụng không cố tưởng như cầm mà chơi.

Kinh vu Lan Bồn

Nghe cho rõ một giờ cõi Phật,

Xá vệ thành chỉ thật căn nguyên;

Phật ngồi giải nghĩa chơn truyền,

Nơi vườn cô độc thọ viện phỉ nguyền.

Thuở ấy có mục Liên thành Phật,

Mắt Thánh xem rõ bậc chánh tà;

Dục lòng tu độ mẹ cha,

Thảm thương từ mẫu Diêm La tội tình.

Làm ngạ quỉ cơ hàn đói khát,

Mình da xương tóc bạc nhiễu nhương;

Khóc than mẹ chịu đoạn trường,

Phận làm con thảo tầm phương lo lường.

Mục liên thấy thảm thương đổ lệ,

Hóa bát cơm liệng kế từ thân;

Mẹ người thấy bát cơm gần,

Liền kề lượm lấy để ăn no lòng.

Tay trái sè che vong chẳng thấy,

Tay mặt cầm cơm lấy bóc ăn;

Đưa vào lửa đổ lăng quằng,

Lửa phừng trong miệng nào ăn được gì.

Mục liên nỗi lâm ly khóc lớn,

Xót tâm bào về tấu phật đàng;

Thưa rằng xưa mẹ thế gian,

Nhiều điều thất đức mới mang tội tình.

Rằng thiên địa chí minh hành tội,

Mà người toan lụy xối thảm thay;

Một mình người khó liệu rày,

Người tu đại hiếu đất trời rõ thông.

Thiên thần địa kỳ vong ngoại đạo,

Đạo thiên vương khó bảo oai thần;

Dễ đâu thấy lực thiên ân,

Làm sao cứu đặng từ thân thoát vòng.

Ta nay chỉ đục trong thuyết cứu,

Tế cấp người bị tội nạn to;

Minh Tâm nhứt thiết lần dò,

Có tâm cứu mẹ cơ đồ Diêm la.

Chỉ Mục Liên thật thà nhứt đức,

Ở mười phương nhờ lực tăng sư;

Ngày rằm tháng bảy tâm từ,

Là ngày ân xá thiên tư vong nhờ.

Rằng trẻ biết lo cho người thế,

Mẹ cha còn cúng tế đại tiền;

Tai bai họa gởi từ nhiên,

Phù sanh được khỏi nợ tiền duyên xưa.

Hội trăm món lo lừa lòng thảo,

Năm thứ cây quí báu chung mâm;

Nhang đèn chong đốt nguyện thầm,

Cúng dường đãi các tăng tâm đức dày.

Cùng ngày ấu phô bày thiết cúng,

Thảy một lòng thánh chúng núi sông;

Dặn lòng cho chặt với lòng,

Hoặc là tu niệm rõ hằng tụng kinh.

Hoặc lục thông giả hình giáo hóa,

Bực thinh văn duyên giác dạy tu;

Hoặc là Thập Điện vẹt mù,

Dạy người biết tánh lòng tu đức nhiều.

Tỳ khưu ở theo chìu lòng thế,

Đại đồng trong đồng để một tâm;

Chịu hòa cơm lạc niệm thầm,

Thánh tâm tịnh giái đức âm rộng càng.

Hiệp đức chủ tựu cùng đàn tự,

Bốn tăng sư độ dẫn chánh tâm;

Mẹ cha còn tại khỏi lầm,

Khỏi điều tai nạn cơ thâm hiểm nghèo.

Trong sáu chứ y theo quyền thuộc,

Khỏi tam-đồ vào cuộc khổ thân;

Giờ linh giải thoát nợ trần,

Bằng cha với mẹ cõi trần bằng an.

Phước vui vẻ trăm năm tự toại,

Bằng bảy đời sao lại đào sanh;

Qua nơi thế giới khác lành,

Nhờ nơi chư Phật sẵn dành hiếu tâm.

Liền Phật xuống mười phương tăng chúng,

Chỉ dạy cùng hiệp chủng đồng tâm;

Mục Liên đại hiếu chí tâm,

Cầu vì từ mẫu ân thâm tội càng.

Phiền tăng chúng lo toan định ý,

Ý định rồi mới quí nơi tâm;

Vào đàng khuyên chớ lạc lầm,

Chủ tâm dọn bữa chớ cầm trước ăn.

Để bụng đói đặng dằn phàm tục,

Tụng cho rồi phút chút ăn sau;

Bằng ăn lỡ trước ban đầu,

Phải ngồi tưởng Phật cho lâu tại tiền.

Mục Liên luống ưu phiền vì mẹ,

Các tỳ kheo nhặm lệ vui mừng;

Cùng nhau định ý trùng phùng,

Tụng cầu người tội âm cung siêu liền.

Mẹ của Đức Mục Liên giải thoát,

Ra khỏi hình đầu bạc phơi phơi;

Nhứt thời giải thoát được rồi,

Lánh vòng ngạ quỉ khỏi nơi tội tình.

Mục Liên mới bạch trình Đức Phật,

Đệ tử nhờ công đức tăng sư;

Mang ơn tam bửu phước dư,

Vu lan cứu độ mẫu từ đệ đây.

Mà chẳng rõ sau này người thế,

Còn ai chăng hai có một tôi;

Vào thưa cùng Phật cạn lời,

Thế gian nhiều tội đời đời thảm thay.

Phật mới thốt khen hay thiện tánh,

Ta muốn bày đức hạnh đời sau;

Mà chưa kịp thốt cơ mầu,

Người liền trước hỏi buổi đầu thiện tâm.

Rằng nam nữ đức âm chư Phật,

Cùng các quan tước lộc vạn dân;

Thứ nhơn biết nghĩa thọ ân,

Hiếu tình con thảo lo tròn phận trai.

Điều trước chỉ đầu bái xin nhớ,

Cha mẹ còn đương ở thế gian;

Làm chay y dạy hưởng nhàn,

Bảy đời mắc đọa ân ban siêu liền.

Nội tháng bảy tâm thiền thiện tánh,

Ngày mười lăm tự tĩnh vong tiên;

Bồn ngày ân xá tội tiền,

Dùng cơm trăm món con thuyển quảy đơm.

Sao cho rạng danh thơm đạo đức,

Sao gọi rằng tích đức dài lâu;

Bâng khuâng nhớ cảnh dãi dầu,

Nhớ người hóa vãng chan sầu sớm hôm.

Nhơn khi tụng cúng lan bồn,

Một mân lễ hiến khôn cùng phận trai.

Mười phượng chư chúng đức tài,

Tăng sư đồng niệm là ngày siêu thăng.

Nguyện sau hiền đức tăng cha mẹ,

Được mạng tồn tợ thể thái sơn;

Trăm năm không bệnh chớ hờn,

Muôn điều cả thảy thiệt hơn vui vầy.

Khỏi lao khổ khỏi gầy hoạn nạn,

Được nhơ lòng mới hản phép công;

Bữa rằm nhớ chẳng đổi lòng,

Yên tâm lễ cúng ngô ông đạo đồng.

Còn bảy lớp dầu không biết mặt,

Mắc tội tình bờ bặc hiểm thâm;

Đành cam ngạ quỉ luân trầm,

Cháu con mà biết tưởng tầm tổ tiên.

Đồng tâm tăng chúng siêu liền,

Về nơi cực lạc tây thiên hưởng nhàn.

Dạy đệ tử tu an hiếu thuận,

Miệng niệm thường Phật chứng độ nhơn;

Mẹ cha bảy lớp cửu huyền,

Mỗi năn tháng bảy ngày rằm hiếu thân.

Làm con thần tỉnh mộ khan,

Đền ơn cúc dục bảo tồn cù lao.

Vu Lan bồn lời trao lẽ dạy,

Đáp ơn đền lẽ phải dưỡng nuôi;

Cám ơn trưởng dưỡng ngậm ngùi,

Biết ơn mới phải là người lập tu.

Giải hết cuốn vẹt mù mây ngút,

Giải lương tâm phút chút hiếu thân;

Mục Liên bốn lạy ân cần,

Vui mừng mẹ khỏi vương trần lao lung.

KỆ

Vu Lan lẻ chánh giải trần,

Mục Liên ai khẩn từ thân khỏi nàn.

Biết rằng thần lực huệ quang,

Thoát vòng lao khổ toàn thân danh truyền.

Cầu cho hậu thế chép biên,

Ai người chi hiếu được tiên linh thiền.

Bút cơ giải nghĩa chơn truyền,

Lòng thành tu niệm cửu huyền siêu thăng.

BỔ KHUYẾT

Bổ khuyết tâm kinh đời cải hóa,

Tiếng Ba La Bát Nhã Mật Đa;

Khuyên người hiểu chỗ chánh tà,

Nơi mình mơ ước Phật ma ở lòng.

Vị Bồ Tát ước mong thì đặng,

Chớ trù trì dùn thẳng hư tâm;

Có khi sa hố, sụp hầm,

Có khi còn phải lạc lầm Bàng Môn.

Thời chiếu kiến giai không ngũ uẩn,

Phải tập rèn cho xứng Thánh minh;

Lỗ tai con mắt công bình,

Cái miệng, lỗ mũi, thân hình là năm.

Tai đừng lóng giọng phàm phân giải,

Mắt đừng xem sự quấy sắc tà;

Miệng đừng vọng ngữ kêu ca,

Tránh điều thất đức giục hòa tục ngôn.

Mũi chớ hửi mùi thơm hương sạ,

Đừng dục ưa thịt cá là ngon;

Cái thân tránh khỏi quyền môn,

Năm điều giữ đặng bảo tồn Phật thân.

Lánh ách nạn chớ gần hung dữ,

Hiểu chăng Xá Lợi Tử là chi?

Đó là lòng Phật Mâu ni,

Trọng tâm cho lớn việc chi chẳng màng.

Đời dầu có muôn ngàn đâu ắt,

Mãnh hồng trần chưa chắc còn không.

Huống chi của cải mênh mông,

Để cho trong sạch, tâm không Đại đồng.

Thấy việc có tưởng không, không đó,

Thấy việc không tưởng có, có đâu;

Đắm say trần lụy sang giàu,

Thân mình còn mất chừng nào đâu hay.

Xá Lợi Tử tâm này quả quyết;

Không sanh ra, không chết, không ngờ;

Không hư, không sạch, không dơ,

Không thêm, không bớt, như tờ tự nhiên.

Nên hồn ở Trung thiên không sắc

Không quấy tham con mắt lỗ tai;

Miệng cùng cái mũi chân mày,

Cái mình, cái ý hình hài lục căn.

Đừng động tới, đừng phăng quyến tưởng,

Còn lục trần chớ vướng vụ thần;

Thinh hương vị xúc sắc thân,

Tốt lành để lóng giọng đờn êm tai.

Mùi ngon ngọt giọng dài tư tưởng,

Giục thần hồn ảnh hưởng mê tân;

Mắt không nên ngó sắc trần,

Tai không nghe lóng lời phân tiếng cười.

Mũi không hửi nơi mùi thơm ngọt,

Miệng không thèm chuốc ngót ước ao;

Ý không giai động sắc màu,

Ý mình chớ tưởng thấp cao pháp tà.

Mắt không ngó lòng ta không động,

Lửa vào lòng ắt nóng tối đen;

Mệt thần sanh dữ thấp hèn,

Tưới cho tắt đặng nhúm nhen tinh thần.

Không hờn giận tấm thân mát mẻ,

Thanh tịnh hoài được khỏe tâm cang;

Không sanh bịnh hoạn khốn nàn,

Không già, không chết đạo tràng bửu minh.

Chớ tính kế mà sinh sợ hãi,

Đừng âm mưu nghi ngại nơi tâm;

Luyện thần tránh chỗ lo thầm,

Lòng đừng tráo trở lạc lầm khó toan.

Suy nghĩ hội Niết Bàn mồng tám,

Trong tháng mười xúc cảm Mâu Ni;

Thích Ca giảng đạo vô vi,

Truyền bá chữ mặc một khi đắc thành.

Đạo Tiên dạy làm thinh lặng lẽ,

Dưỡng khí Thần mát mẻ nơi tâm;

Tâm kinh dạy bảo kiếm tầm,

Dạy đời cho hiểu chữ Tâm mà lần.

Tam thế Phật tưởng trần khó nghĩ,

Phật Di Đà, Thế Chí, Quan Âm;

Ba đời chư Phật không lầm,

Chơn kinh giữ đặng tu nhằm Phật xưa.

Dạy những kẻ Thượng thừa, Trung, Hạ,

Noi theo lo công quả mà tu;

Thiên đàng bền vững ngàn thu,

Chí tâm sửa tánh công phu lọc lừa.

Tầm đặng đến Thượng thừa quả vị,

Tam diệu Tam địa chỉ Bồ Đề;

Này là thần chú giác mê,

Trừ phiền khổ não chẳng hề đơn sai.

Ở được vậy thường hoài là Phật,

Bát Nhã Ba La Mật Thị Đa;

Lời khuyên trai, gái, trẻ, già,

Tâm kinh bổ khuyết diễn ca cạn lời./.

KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN

Vì sợ sái hoặc là không biết,

Nên mau bổ khuyết đủ kinh;

Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,

Giờ này đệ tử tất tình ăn năn.

Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,

Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;

Hoặc là sơ sót nơi lòng,

Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.

Tưởng chuyện khác cũng trong tánh ý,

Hoặc nghĩ suy rối trí gần xa;

Sẵn đây hương, quả, hoa, trà,

Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.

Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,

Những câu kinh tụng thiếu sót sơ;

Độ giùm tiêu tội kịp giờ,

Ba lần sám hối mong nhờ ân dư./.

(đọc 3 lần)

KINH PHỔ MÔN

Lư Hương Tán

Lư hương đốt khói hòa ngút tỏa,

Mùi thơm bay khắp cả thành tâm:

Các vì Phật ở biển nam,

Thấy mùi thơm ấy dương trần thành tâm.

Vì mùi hương tóc trầm thành thật,

Các chư Tiên cùng Phật khinh thanh;

Chứng lòng thế sự tâm thành,

Đằng vân xuống chốn dương trần chứng minh.

Khai Kinh Kệ

Vô thượng thậm thâm huyền diệu pháp.

Trăm ngàn muôn kiếp khác gặp kinh;

Ta nay thấy nghĩa tất tình.

Giải quyền thiệt rõ chơn tình Như Lai.

Phật thuyết A Di Đà

Phật ra lời dạy kinh này,

Tụng kinh Tam Bảo phải dày lương tâm;

Dầu cho tụng niệm mãn năm,

Bụng không cố tưởng như cầm mà chơi.

Kinh Phổ Môn

Kinh mầu nhiệm thậm thâm huyền bí,

Vườn hoa sen rất quý chi hơn;

Đó là kinh báu Phổ Môn,

Quan Âm Bồ Tát Thiên Tôn độ đời.

Phật Bồ Tát hiện thời Tận Ý.

Ngồi đang chầu một vị Thích Ca.

Áo tràng vai hữu bày ra,

Dường như có tội ngó mà Thích Ca.

Ngài thủ lễ, bạch ra thành thật,

Hiểu sao gọi Phật Thế Âm;

Thấp hèn chưa thấy chỗ tầm,

Sao rằng xưng Phật Thế Âm làm gì.

Thích Ca mới khen hay Thiện Sĩ,

Thiệt trai lành hỏi kỷ lời ni;

Bởi vì ức vạn lâm nguy,

Chúng sanh khổ não xiết chi chan dầm.

Mà nhớ đến Thế Âm cầu nguyện,

Quan Thế Âm nghe tiếng xiết than;

Tức thì cứu khổ khỏi nàn,

Lòng thành niệm tưởng Tây phang thấu liền.

Người ở thế tâm thiền thờ phượng,

Rủi ro thay té vướng lửa trần;

Có vì phò hộ xác thân,

Khỏi thiêu vào ngọn lửa trần lao lung.

Bằng vắp té xuống sông nước ngập,

Niệm Thế Âm Bồ Tát độ nàn;

Được vào chỗ cạn thân an,

Vì lòng triêm ngưỡng bảo toàn khỏi lâm.

Bằng như có ức trăm muôn vạn,

Ra biển khơi mấy đoạn thương tâm;

Kim ngân mã não quyết tầm,

San hô hổ phách đang trầm biển sâu.

Xa cừ với trân châu vật báu,

Ước lưu ly thuyền đảo vòng xanh;

Vì lòng tham muốn nhọc nhành,

Rủi thay bảo tố đã đành thuyền trôi.

Trong biển khổ giữa vời nguy ngặt,

Thuyền tấp qua La Sát Quỷ Vương;

Nơi thuyền không thế lo lường,

Một người định tỉnh tầm phương niệm thầm.

Niệm Bồ Tát Quan Âm cứu vớt,

Thuyền khiến xui khỏi nước Quỷ vương;

Lạc lầm Bồ Tát chỉ đường,

Nên xưng Quan Thế vì thương kẻ trần.

Nghe lời nguyện ân cần triêm ngưỡng,

Những hung hoang chẳng lượng từ bi;

Gặp đạo những kẻ vô nghì,

Niệm cầu cứu khổ tức thì được an.

Bằng thế giái ba ngàn các nước,

Nước Mãng Trùng bày trước hung hoang;

Dạ xoa đáy biển lăng loàn,

Cùng là La Sát lòng toan hại lành.

Người lành thấy, tâm thành cầu nguyện,

Quan Thế Âm xui khiến kẻ hung;

Mắt không dám ngó tận cùng,

Có đâu dám hại vì hung đổi lòng.

Nói cùng kẻ trong vòng tội lỗi,

Hoặc là oan bị nỗi xiềng gông;

Ăn năn niệm tưởng nơi lòng,

Quan Âm cứu khổ khỏi vòng trái oan.

Ba ngàn thế giái, ngàn thế giái,

Giặc thù vơ kẻ quấy đón ngăn;

Chủ thoàn thương mãi kinh hoàng,

Những người buốn bán đi ngang hải hùng.

Vì vật báu chở trong thuyền nội,

E rủi ro, e nổi lụy thân;

Gặp người định tĩnh tinh thần,

Dạy cầu cứu khổ toàn thân khỏi liền.

Người lâm nạn các thoàn liền niệm,

Quan Thế Âm trợ hiểm cứu nguy;

Các thoàn khỏi họa tức thì,

Bao nhiêu tai nạn gặp khi vui vầy.

Vô tận ý lời nầy thật quả,

Vì huyền vi độ cả tu tâm;

Nên xưng hiệu Phật Thế Âm,

Cứu nguy trợ khốn, ân thâm muôn đời.

Bằng thế sự sa nơi dâm dục.

Mà hư thân, phút chút khổ thân;

Muốn lìa khỏi hại, niệm thầm,

Nguyện cầu Bồ Tát Thế Âm giải liền.

Kẻ hờn giận đảo điên chẳng dứt,

Khá thành tâm niệm đức Quan âm;

Từ nhiên tránh chỗ lạc lầm,

Giận hờn phiền não khổ tâm được liền.

Người khờ dại quen đàng ngu xuẩn,

Cầu Thế Âm độ vững kẻ mê;

Oai linh huyền diệu tràn trề,

Quan Âm Bồ Tát độ lê dân lành.

Đàn bà bởi chưa sanh trai nối.

Nguyện Thế Âm sớm tối kế truyền;

Trai lành sanh đặng hữu duyên,

Đoạn trong tướng mạo phước liền về sau.

Muốn cầu đặng âm hao sanh gái.

Thì tự nhiên nguyện toại lòng thành;

Nữ nhi tướng diện tốt lành,

Nối đàng nhơn đức chúng sanh yêu vì.

Vô Tận Ý lời ni nghe thấu.

Quan Thế Âm đức hậu lực oai;

Chúng sanh cung kỉnh lạy Ngài,

Phước nhiều không mất lâu dài thảnh thơi.

Nếu thế sự kỉnh lời thường nhắn.

Quan Thế Âm Bồ Tát hiệu danh;

Vái họ chí nguyện đắc thành,

Lâm nguy để dạ, tâm lành được an.

Vô Tận Ý tỏ tàng cao thượng.

Cả thế gian thờ phượng gần xa;

Sáu mươi hai ức hằng hà,

Họa hình chư Phật gọi là kỉnh phô.

Lòng chí dốc sắm đồ y phục.

Sắm đồ ăn cụ túc thuốc thang;

Tốn hao mà chẳng phàn nàn,

Nếu trần được vậy phước ban thế nào?

Vô Tận Ý âm hao biện bạch.

Kẻ thế trần khí phách tưởng tin;

Tốn hao mà dạ được thình,

Thiệt là phước đức hiển vinh cả đời.

Phật mởi thốt đôi lời bày giải.

Vã như người kỉnh lạy Quan Âm;

Một giờ có dạ ân thâm,

Bằng người thờ Phật lâu năm khác nào.

Dầu muôn ức kiếp sau chẳng hết.

Vô Tận nghe rõ rệt nơi tâm;

Ân cần thờ kỉnh Quan Âm,

Phước sau lợi cả ân thâm biển bùng.

Vô Tận Ý khôn cùng bạch Phật.

Bạch Thế Tôn thành thật phân minh;

Cớ nào Quan Thế đăng trình,

Ta bà khắp xứ giảng kinh độ đời.

Bày phương pháp các nơi cải ác,

Có ích chi Bồ Tát hay không?

Thế Tôn lượng cả vui lòng,

Phân minh đồ đệ hiểu trong lời này.

Phật Thế Tôn khen hay Tận Ý.

Thiệt trai lành hỏi kỹ lời ni;

Bởi vì Bồ Tát từ bi,

Xót thương sanh chúng lâm nguy tâm bào.

Hễ nghe nói nước nào mộ Phật.

Thì hóa thân tánh chất giảng kinh;

Tùy theo trình độ hóa hình,

Giảng lành cho thế quyên sinh tu hành.

Tùy theo ý chúng sanh ưa chuộng.

Muốn Thích Chi hiện xuống Thích Chi;

Dạy đời hiểu nẽo từ bi,

Giảng lành cho thế biết khi đạo hằng.

Đời lại muốn Thinh Văn xuống thế.

Quan Thế Âm hiện thể Thinh Văn;

Dạy dân hiểu nẽo biết đàng,

Xem kinh tỉnh thức độ an luân thường.

Đời lại muốn Phạm Vương xuống thế,

Quan Thế Âm hiện thể Phạm Vương;

Độ đời biết nẽo hiền lương,

Dạy đời cho rõ tầm phương tu hành.

Lòng của kẻ chúng sanh ưa muốn.

Đế Thích thân người chuộng giảng kinh;

Quan Âm liền hiện giả hình,

Giống in Đế Thích thân tình độ dân.

Vị Tự Toại Thiên thân ham muốn.

Quan Thế Âm hiện xuống hóa y;

Dạy lành cho thế kịp kỳ,

Giảng kinh thuyết pháp làm y bửu truyền.

Đại Thiên Thân từ nhiên đại tưởng.

Quan Thế Âm hiện xuống đâu sai;

Theo lòng nơi thế trần ai,

Muốn cho đời hiểu Thiên thai trở về.

Tì Sa muốn Liên Đề trưởng giả.

Tiểu Thiên Vương độ thá Tể quan

Muốn sao cư sĩ lâm đàn,

Diễn kinh Thuyết pháp độ an dân lành.

Bà La Môn chúng sanh ưa chuộng.

Quan Thế Âm hiện xuống hóa y;

Các vì Bà Tắc Ưu Di,

Tì khưu chư Phật Bà Di độ đời.

Nơi thế sự dụng lời đồng nữ,

Hoặc đồng nam thuyết sự giảng lành;

Tại lòng phàm tục chúng sanh,

Cầu sao hóa vậy, lòng thành mà ra.

Đời lại muốn Dạ Xoa, Càn Thoát.

A Tu La mẫu đạt Thiên Long;

Cẩn Na các vị chư đồng,

Quan Âm Bồ Tát hiện trong sở nguyền.

Chấp Kim Cang y truyền giáng thế.

Vì đời ưa tiếp lễ Kim Cang;

Quan Âm hiệu hóa toàn thân,

Diễn cho đời biết thiên ân điểm lành.

Vô Tận Ý hiểu rành thật quả.

Quan Thế Âm ngài đã gia tâm;

Vân du các nước sưu tầm,

Thiệt là đức hạnh thậm thâm khó tường.

Khuyên Tận Ý lo lường thờ phượng.

Quan Thế Âm tin tưởng nơi lòng;

Thần thông quảng đại khôn cùng,

Độ người trong lúc hãi hùng yên thân.

Bởi cớ ấy người trần thế giái.

Đều phục khâm lực đại thần thông;

Giúp người đang sợ vạn lòng,

Thí tâm Vô úy giải vòng lao lung.

Vô Tận Ý thung dung bạch Phật.

Rằng tôi nay thành thật tưởng tâm;

Chịu thờ đức Phật Quan Âm,

Bửu châu chuổi hột tay cầm dưng lên.

Của nầy đáng trăm thiên lượng giá.

Vàng tụi tòng chứa đã lâu nay;

Xả thân phủi sạch hằng ngày,

Lễ dưng cho Phật gọi rày thảo tâm.

Khi ấy Phật Thế Âm không lãnh,

Tận Ý bèn ngôn hạnh nỉ non;

Phật dùm chứng lễ vuông tròn,

Xin thương chút phận cỏn con chìu lòng.

Phật Thích Ca rõ lòng Tận Ý.

Khuyên Thế Âm xét kỹ giùm thâu;

Thiên Long Càn Thát A Tu,

Cẩn Na các vị hiệp âu nhập vào.

Thời Bồ Tát trước sau y dạy.

Chia làm hai lẽ phải phân qua;

Một phần phụng hiển Thích Ca,

Một phần Đa Bửu Phật gia trợ đời.

Phật Bồ Tát khắp nơi tự toại.

Dạo ta bà thế giái tri tâm;

Nên xưng Bồ Tát Quan Âm,

Thần thông gồm đủ sưu tầm chưa minh.

Phật Thích Ca chơn tình đáp lại.

Người khá nghe lẽ phải Quan Âm;

Rộng sâu hơn biển ai tầm,

Lịch lai mấy kiếp, mấy năm ai tường.

Thật nhiều Phật tầm phương ngàn ức.

Phật nguyện tu tỉnh thức khinh thanh;

Nói sơ cho rõ ngọn nghành,

Nghe tên hoặc đã thấy hình đồng tin.

Hay trừ chỗ chúng sanh ngộ nạn.

Giả như ai kết oán hại mình;

Xô vào hầm lửa thêu hình,

Niệm cầu Bồ Tát tầm thinh cứu nàn.

Hầm lửa nóng hóa tan nước nguội.

Hoặc ghe trôi ra tới biển xanh;

Sợ loài sấu cá quỉ nanh,

Niệm cầu Bồ Tát từ bi cứu nàn.

Sóng gió thổi chìm thoàn chết đuối.

Hoặc trèo cao như núi Tu Di;

Bị người xô té hiểm nguy,

Niệm cầu Bồ Tát từ bi cứu đời.

Không té xuống giữa vời sừng sựng.

Như mặt trời lững đững mây xanh;

Hoặc là kẻ dữ tung hoành,

Xô vào trong núi chỉ mành Kim Cang.

Niệm Bồ Tát cứu an nguy ngặt.

Khỏi hại thân, khỏi mất một lông;

Hoặc người oán vặt nơi lòng,

Cầm dao muốn chém mạng vong Huỳnh tuyền.

Niệm Bồ Tát kiền thiền tế độ.

Tức thì trong kẻ đó thành tâm;

Hoặc là những kẻ xuông nhằm,

Hành hình gần chết hiểm thâm tuổi thầm.

Niệm Bồ Tát Quan Âm khỏi nạn,

Liền ngọn dao từ đoạn gãy phân;

Hoặc là gông trống xiềng trăng,

Tay chơn bị trói thương thân khốn nàn.

Niệm Bồ Tát Quan Âm giải thoát.

Trù yếu bùa, thuốc độc hại thân;

Niệm cầu Bồ Tát Quan Âm,

Họa kia trở lại hại thầm cừu nhân.

Hoặc rủi gặp khổ thân quá ác.

Cù Long Ngư, La Sát quỉ hung;

Chắc là mạng tuyệt không cùng,

Niệm cầu Bồ Tát mạng chung khỏi liền.

Hung độc ấy từ nhiên biển thẩm.

Thú dữ hung hằng ám vút nanh;

Niệm cầu Bồ Tát đắc thành,

Các loài thú dữ bôn hành chạy tiêu.

Rắn, rít độc biết nhiều lửa khí.

Niệm Quan Âm loài mị tránh dang;

Thật là cứu độ tai nàn,

Niệm cầu Bồ Tát Quan Âm khỏi nào.

Mây vần vũ chớp vang sấm sét.

Bão, dông to, mưa quét đá rơi;

Quan Âm Bồ Tát cứu đời,

Ứng giờ cứu độ trong trời được tan.

Chúng sanh khổ tai nguy ách nạn.

Không lường suy khó hản cho thân;

Quan Âm diệu chí pháp thần,

Cứu người sanh chúng cõi trần lao lung.

Ngài đủ phép thần thông nghị duợt.

Giúp mười phương các nước yên bình;

Chổ nào mà chẳng hiện hình,

Dẫy đầy tội lỗi chúng sanh tràn trề.

Làm Ngạ quỉ não nề thiểu đức.

Đọa Âm ty Địa ngục súc sanh;

Kìa trong tứ khổ nhọc nhành,

Sanh lão, bệnh tử chúng sanh buộc ràng.

Ngài lần cứu cho tan bớt tội.

Am thật thà lại với tịnh thanh;

Rộng sâu trí huệ hương lành,

Các am lành ấy nêu danh thờ Ngài.

Không nhơ bợn, sáng ngoài thanh tịnh.

Như mặt trời chơn định Quan Âm;

Rọi soi sáng chỗ tối thầm,

Cái gương trí huệ muôn năm còn hoài.

Hai cái trị nạn tai gió lửa.

Sự sáng lòa gọi tủa thế gian;

Thương đời, đời dữ khuyên răn,

Ý Ngài lồng lộng, ví bằng luồng mây.

Cam lồ rưới của Ngài mưa phép.

Chốn não phiền trừ dẹp được an;

Tranh giành thưa kiện đến quan,

Bị điều giặc giả tràn lan hãi hùng.

Niệm Bồ Tát điều hung tan hết.

Niệm chơn ngôn thành kết biển sông;

Niệm mà tin tưởng nơi lòng,

Hơn là thế sự niệm không thường tình.

Nếu những kẻ tụng kinh hằng tưởng.

Niệm vào lòng chớ cượng sanh nghi;

Quan Âm thanh tịnh từ bi,

Trừ phiền khổ não tay nguy nhờ Ngài.

Mắt Ngài thật là tài hiền đức.

Phước Ngài hay tỉnh thức kẻ mê;

Công sâu hơn biển tràn trề,

Nên đời cung kỉnh thôn quê đồng thờ.

Thuở ấy cũng trong giờ tưởng Phật.

Trì Địa là Bồ Tát ngồi nghe;

Tức thì đứng dậy chỉnh tề,

Bạch cùng Phật Tổ xin nghe lời này.

Chúng sanh thấu kinh đây tự toại.

Quan Thế Âm thích giải Phổ Môn;

Diệu huyền thần lực trường tồn,

Nếu mà tin tưởng thì công phu nhiều.

Phật thích giải đủ điều nghĩa lý.

Kinh Phổ Môn đã chĩ rõ căn;

Tám muôn lại với bốn ngàn,

Chúng sanh tỉnh thức ăn năn làm lành.

Đồng một ý hy sanh ba bực.

Tu bòn công Tây vức hầu sang;

Liên hoa diệu pháp dẫn đàng,

Phổ Môn chơn tự Quan Âm lời rằng./.

NHỨT ĐẠI THỆ

Tối lòng nhờ biết tưởng tin,

Sáng lòng nhờ biết xem kinh tập rèn.

Nhiều lần sửa tánh được quen,

Phật tâm ta biết, tiếng khen chớ mang.

Định thần nhìn rõ Thiên đàng,

Định thần biết thấu Niết Bàn lần sang.

Trẻ thơ vừa thấy thế gian,

Chào đời bằng tiếng khóc than nhắc đời.

Chơn ngôn Tây Vức cạn lời,

Pháp Môn độ dẫn con người trần gian.

Phổ Môn thiệt hóa hình người,

Độ đời tầm tiếng khắp nơi khẩn nguyền.

Hiền lành pháp độ chơn truyền,

Mê tâm Ngài cứu khỏi miền U Minh.

Tưởng tin như bóng theo hình,

Khắp trong bốn biển hữu tình độ an.

Tám điều nạn lớn thế gian,

Giặc cùng trộm cướp đói chan lửa hồng.

Khó khăn như nước đến trôn,

Sợ điều truyền nhiễm dịch ôn khổ thầm.

Nhớ câu nạn vỉnh vô xâm,

Sợ điều họa vấy tưởng tâm khỏi liền.

Nam mô danh hiệu Như Lai,

Quan Âm Bồ Tát cứu loài trần gian.

Nam mô danh hiệu Quan Âm,

Từ bi thương xót biển nam Phổ Đà.

Nam mô dạo khắp ta bà,

U Minh cảnh giới xót xa khổ nàn.

Nam mô nhờ đức Quan Âm,

Trừ tà yêu quái cao thâm cứu loài.

Nam mô Phật Tổ Như Lai,

Cam lồ nhành liễu hôm mai rưới lòng.

Nam mô nhờ đức thần thông,

Lòng thành tế độ thung dung công bình.

Nam mô biến hóa muôn hình,

Tuần du dạo khắp giảng kinh cứu đời.

Nam mô nam hướng theo thời,

Tù lao trăng trói khỏi nơi lao tù.

Nam mô thuyền pháp công phu,

Vớt người vực thẳm ngàn thu đợi thoàn.

Nam mô trước có tràng phang,

Sau tàng bửu cái tây phang rước hồn.

Nam mô đức Phật Thế Tôn,

Mến nơi cực lạc linh hồn bền giai.

Nam mô Phật Tổ Như Lai,

Trang nghiêm phước đức mười hai câu nguyền./.

-BỔ KHUYẾT

Bổ khuyết tâm kinh đời cải hóa,

Tiếng Ba La Bát Nhã Mật Đa;

Khuyên người hiểu chỗ chánh tà,

Nơi mình mơ ước Phật ma ở lòng.

Vị Bồ Tát ước mong thì đặng,

Chớ trù trì dùn thẳng hư tâm;

Có khi sa hố, sụp hầm,

Có khi còn phải lạc lầm Bàng Môn.

Thời chiếu kiến giai không ngũ uẩn,

Phải tập rèn cho xứng Thánh minh;

Lỗ tai con mắt công bình,

Cái miệng, lỗ mũi, thân hình là năm.

Tai đừng lóng giọng phàm phân giải,

Mắt đừng xem sự quấy sắc tà;

Miệng đừng vọng ngữ kêu ca,

Tránh điều thất đức giục hòa tục ngôn.

Mũi chớ hửi mùi thơm hương sạ,

Đừng dục ưa thịt cá là ngon;

Cái thân tránh khỏi quyền môn,

Năm điều giữ đặng bảo tồn Phật thân.

Lánh ách nạn chớ gần hung dữ,

Hiểu chăng Xá Lợi Tử là chi?

Đó là lòng Phật Mâu ni,

Trọng tâm cho lớn việc chi chẳng màng.

Đời dầu có muôn ngàn đâu ắt,

Mãnh hồng trần chưa chắc còn không.

Huống chi của cải mênh mông,

Để cho trong sạch, tâm không Đại đồng.

Thấy việc có tưởng không, không đó,

Thấy việc không tưởng có, có đâu;

Đắm say trần lụy sang giàu,

Thân mình còn mất chừng nào đâu hay.

Xá Lợi Tử tâm này quả quyết;

Không sanh ra, không chết, không ngờ;

Không hư, không sạch, không dơ,

Không thêm, không bớt, như tờ tự nhiên.

Nên hồn ở Trung thiên không sắc

Không quấy tham con mắt lỗ tai;

Miệng cùng cái mũi chân mày,

Cái mình, cái ý hình hài lục căn.

Đừng động tới, đừng phăng quyến tưởng,

Còn lục trần chớ vướng vụ thần;

Thinh hương vị xúc sắc thân,

Tốt lành để lóng giọng đờn êm tai.

Mùi ngon ngọt giọng dài tư tưởng,

Giục thần hồn ảnh hưởng mê tân;

Mắt không nên ngó sắc trần,

Tai không nghe lóng lời phân tiếng cười.

Mũi không hửi nơi mùi thơm ngọt,

Miệng không thèm chuốc ngót ước ao;

Ý không giai động sắc màu,

Ý mình chớ tưởng thấp cao pháp tà.

Mắt không ngó lòng ta không động,

Lửa vào lòng ắt nóng tối đen;

Mệt thần sanh dữ thấp hèn,

Tưới cho tắt đặng nhúm nhen tinh thần.

Không hờn giận tấm thân mát mẻ,

Thanh tịnh hoài được khỏe tâm cang;

Không sanh bịnh hoạn khốn nàn,

Không già, không chết đạo tràng bửu minh.

Chớ tính kế mà sinh sợ hãi,

Đừng âm mưu nghi ngại nơi tâm;

Luyện thần tránh chỗ lo thầm,

Lòng đừng tráo trở lạc lầm khó toan.

Suy nghĩ hội Niết Bàn mồng tám,

Trong tháng mười xúc cảm Mâu Ni;

Thích Ca giảng đạo vô vi,

Truyền bá chữ mặc một khi đắc thành.

Đạo Tiên dạy làm thinh lặng lẽ,

Dưỡng khí Thần mát mẻ nơi tâm;

Tâm kinh dạy bảo kiếm tầm,

Dạy đời cho hiểu chữ Tâm mà lần.

Tam thế Phật tưởng trần khó nghĩ,

Phật Di Đà, Thế Chí, Quan Âm;

Ba đời chư Phật không lầm,

Chơn kinh giữ đặng tu nhằm Phật xưa.

Dạy những kẻ Thượng thừa, Trung, Hạ,

Noi theo lo công quả mà tu;

Thiên đàng bền vững ngàn thu,

Chí tâm sửa tánh công phu lọc lừa.

Tầm đặng đến Thượng thừa quả vị,

Tam diệu Tam địa chỉ Bồ Đề;

Này là thần chú giác mê,

Trừ phiền khổ não chẳng hề đơn sai.

Ở được vậy thường hoài là Phật,

Bát Nhã Ba La Mật Thị Đa;

Lời khuyên trai, gái, trẻ, già,

Tâm kinh bổ khuyết diễn ca cạn lời.

-KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN

Vì sợ sái hoặc là không biết,

Nên mau bổ khuyết đủ kinh;

Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,

Giờ này đệ tử tất tình ăn năn.

Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,

Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;

Hoặc là sơ sót nơi lòng,

Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.

Tưởng chuyện khác cũng trong tánh ý,

Hoặc nghĩ suy rối trí gần xa;

Sẵn đây hương, quả, hoa, trà,

Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.

Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,

Những câu kinh tụng thiếu sót sơ;

Độ giùm tiêu tội kịp giờ,

Ba lần sám hối mong nhờ ân dư./.

(đọc 3 lần)

NGHI LỄ HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

PHẦN PHỤ THÊM

- NGŨ GIỚI CẤM

1. NHỨT BẤT SÁT SANH:

Là chẳng nên sát hại sanh vật, là chẳng nên giết chết và cũng không nên đánh đập làm cho đau đớn rên siết, chẳng những người và cầm thú mà thôi, lần lần cũng phải giữ đừng sát hại vô ích tới côn trùng và thảo mộc nữa.

2. NHÌ BẤT DU THIẾT:

Là cấm trộm cướp, lấy ngang lường gạt của người, hoặc mượn vay không trả, hoặc chứa đồ gian, hoặc lượm lấy của rơi, hoặc sanh lòng tham của quấy, để ý hại người mà lợi cho mình, cờ bạc gian lận.

3. TAM BẤT TÀ DÂM:

Là cấm lấy vợ, chồng người, thả theo đàng điếm, xúi giục người làm loạn luân thường, hoặc thấy sắc dậy lòng tà, hoặc lấy lời gieo tình huê nguyệt

4. TỨ BẤT TỬU NHỤC:

Là cấm say sưa rượu thịt, ăn uống quá độ rối loạn tâm thần, làm cho náo động xóm làng, hoặc miệng ước rượu ngon, bụng mơ đồ mỹ vị.

5. NGŨ BẤT VỌNG NGỮ:

Là cấm xảo trá, láo xược gạt gẫm người, khoe mình bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mảng thô tục, chửi rủa người, phỉ báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa.

- TỨ ĐẠI ĐIỀU QUI

ĐIỀU 1: Phải tuân lời dạy của bề trên, chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.

ĐIỀU 2: Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên mình làm nên cho người, giúp người nên đạo. Đừng nhớ cừu riêng, chớ che lấp người hiền.

ĐIỀU 3:  Bạc tiền xuất, nhập phân minh. Đừng mượn vay không trả. Đối với trên dưới đừng lờn để, trên dạy dưới lấy lễ, dưới giáng trên đừng thất khiêm cung.

ĐIỀU 4: Trước mặt, sau lưng cũng đồng một bực, đừng kính trước rồi lại khi sau. Đừng thấy đồng đạo tranh đua ngồi mà xem không để lời hòa giải. Đừng lấy chung mà làm riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung. Pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng mà trái trên dễ dưới. Đừng cậy quyền mà yểm tài người.

- SỰ THƯƠNG YÊU

THẦY là Cha Cả sự thương yêu. Do bởi sự thương yêu mới tạo thành thế giới và sinh sản các con. Vậy các con sản xuất nơi sự thương yêu là cơ thể của sự thương yêu đó.

Sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới. Bởi thương yêu mà vạn loại hòa bình, càn khôn an tịnh, đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, không thù nghịch lẫn nhau mới không tàn hại lẫn nhau, không tàn hại lẫn nhau mới giữ bền cơ sanh hóa.

Kẻ nghịch của cơ sanh hóa là Quỉ Vương là tay diệt hóa, cũng như có sống của Thầy ắt có chết của Quỉ Vương.

Quỉ Vương giục sự ghét mà tàn hại các con, vì ghét nhau mà vạn loại mới khi nhau, vì ghét nhau mà vạn loại mới nghịch lẫn nhau. Vì ghét nhau mà vạn loại mới tàn hại lẫn nhau. Mà tàn hại lẫn nhau thì là cơ diệt thế.

Vậy Thầy cấm các con từ đây ví không đủ sức thương yêu nhau thì cũng chẳng đặng phép ghét nhau, nghe à!!!

- TRAI GIỚI

Nhập môn rồi phải tập trai giới, ban đầu ít nữa phải giữ lục trai, lần lần tập đến thập trai, như trường chai được lại càng tốt.

LỤC TRAI (6 ngày chay) Người mới nhập môn vào đạo phải giữ Lục Trai, mỗi tháng ăn chay từ 6 ngày trở lên vào các ngày: 01 - 08 - 14 - 15 - 23 - 30 (nếu tháng thiếu ăn luôn ngày 29).

THẬP TRAI (10 ngày chay) Từng bước tiến lên từ Lục Trai lên Thập Trai vào các ngày 01 - 08 - 14 - 15 - 18 - 23 - 24 - 28 - 29 - 30 (nếu tháng thiếu ăn luôn ngày 27).

THIÊN NGUƠN (16 ngày chay)

Thiên Nguơn gồm các ngày chay như sau: 01 - 04 - 06 - 08 - 09 - 14 - 15 - 16 - 18 - 19 - 23 - 24 - 25 - 29 - 30 (nếu tháng thiếu ăn luôn ngày 27).

Vị nào giữ được thập trai đổ lên thì sau khi qui liễu, được Hội Thánh đến làm phép xác, y như lời Thầy đã tiên tri: '' Ai giữ trai kỳ từ 10 ngày sắp lên, được thọ truyền bửu pháp.''

CÁC NGÀY LỄ THƯỜNG LỆ HÀNG NĂM TẠI TÒA THÁNH

TT

NGÀY

TÊN NGÀY LỄ

LỄ

1

01/1

Lễ rước Chư Thánh

Trung đàn

2

09/1

Đại lễ Đức Chí Tôn

Đại đàn

3

15/1

Đại lễ Thượng Nguơn

Đại đàn

4

15/2

Vía Đức Thái Thượng Đạo Tổ

Đại đàn

5

13/3

Đại lễ kỷ niệm ngày đăng Tiên của Đức Ngôi Hai Giáo Chủ

Đại đàn

6

15/4

Vía Đức Phật Thích Ca

Đại đàn

7

15/4

Kỷ niệm ngày quy Thần của Đức Thần Bá Giám, thế danh Lê Minh Giác

Trung đàn

8

05/5

Đại lễ kỷ niệm ngày đăng Tiên của Đức Nhị Thiên Giáo Chủ

Đại đàn

9

15/5

Kỷ niệm ngày thành lập Hội Thánh và Tri ân Chư vị Tiền Bối quá vãng

Trung đàn

10

19/6

Vía Đức Quan Âm Như Lai

Đại đàn

11

24/6

Vía Đức Quan Thánh Đế Quân

Đại đàn

12

15/7

Đại lễ Trung Nguơn Thắng Hội

Đại đàn

13

24/7

Kỷ niệm ngày quy Tiên Vị của Đức Phổ đức Chơn Nhơn

Trung đàn

14

27/7

Kỷ niệm ngày quy Tiên Vị của Anh lớn Chưởng Quản HTĐ - Ngọc Minh Khai và Quý Thời Quân HTĐ

Trung đàn

15

01/8

Kỷ niệm ngày quy Tiên Vị của Anh lớn Chưởng Quản   CTĐ - Thiên Huyền Tâm và quý hàng Thánh nam nữ

Trung đàn

16

15/8

Đại lễ Hội Yến Bàn Đào Diêu Trì Cung

Đại đàn

17

18/8

Đại lễ Đức Lý Giáo Tông ĐĐTKPĐ

Đại đàn

18

27/8

Vía Đức Khổng Thánh

Đại đàn

19

15/10

Đại lễ Hạ Nguơn kỷ niệm Khai Minh Đại Đạo

Đại đàn

20

25/12

DL: Đại lễ Đức Da Tô Giáo Chủ

Trung đàn

21

24/12

Lễ tiễn Chư Thánh Triều Thiên

Trung đàn

21

Hằng tháng cúng mùng 01 Tiểu đàn, ngày rằm Trung đàn

Tiểu, Trung

21

Họp Tam Cá Nguyệt ngày 13/01, 13/04, 13/07, 13/10  

3 th 1 lần