VĂN KIỆN TATB 2009
MỪNG LỄ AN VỊ BÁT QUÁI ĐÀI
VÀ TRI ÂN TIỀN BỐI LẦN THỨ 03
(10/10 KỶ SỬU. DL: 26/11/2009)
DIỄN VĂN KHAI MẠC
BAN TỔ CHỨC
Kính thưa...
Niềm hân hoan Đại Đồng tương ngộ, cuộc sum vầy Đại Đạo keo sơn. Thoáng đã giáp vòng của một năm trãi dài bao thử thách. Lễ kỷ niệm Tri Ân Chư Vị Tiền Bối lần thứ 03 lại đến, cùng mang theo những hành trang tinh thần sứ mạng tuyệt quý để kính dâng lên Thầy Mẹ, chư vị Tiền Khai Đại Đạo, Tiền Bối, Tiền Hiền Thánh Tịnh. Trong không khí trang nghiêm của giây phút Thiêng Liêng ngày đại lễ trọng thể nầy, chúng tôi rất vinh dự được đón tiếp và chân thành kính chào mừng toàn thể chư quý liệt vị lời chào mừng thắm đậm tình liên giao Đời Đạo nồng nhiệt nhất.
Tuyệt vời thay! Trong giây phút Thiêng Liêng cao cả, Chư vị Tiền Bối, Tiền Hiền tất cũng hân hoan cho trong đàng hậu sinh tiếp nối, điều đáng để cho chư vị trọn niềm tin giao phó, chính là sự nhớ ơn. Nếu mỗi chúng ta đều giữ gìn tất cả Đạo lý nhớ ơn, chính là chúng ta thể hiện đúng cái nền tảng vững chắc. Sự nhớ ơn không phân biệt Đời hay Đạo, gia đình hay ngoài xã hội.
Hằng năm mỗi khi có kỳ lễ lớn nơi Thánh Tịnh Long Thành, Ban Cai Quản chúng tôi đều có thực hiện phần nghi thức Tế Chiến Sĩ. Đó cũng là điều nằm trong ý nghĩa nhớ ơn những người đã hy sinh vì Tổ Quốc, đem máu xương để tô điểm quê hương, và đó cũng là sự nhớ ơn về mặt xã hội. Còn sự nhớ ơn về phần Đạo, từ năm 2007 Thánh Tịnh Long Thành mỗi lần được ý nguyện về phần tổ chức Lễ Tri Ân Tiền Bối lần đầu tiên. Từ đó chúng tôi luôn lấy ngày tri ân nầy làm điểm hẹn để hạnh ngộ cơ duyên, mở rộng chiều hướng tiếp giao tinh thần Liên Giao Đời Đạo, sự nhớ ơn không chỉ bằng tấm lòng, mà còn phải nổ lực thi đua lập thành tích Đạo sự và công tác xã hội từ thiện, giữ gìn và mở mang con đường Đạo đức vạch sẳn của tiền nhân, luôn phát triển vươn lên ngày thêm mạnh mẽ, đó mới là sự nhớ ơn đúng nghĩa. Toàn thể bổn đạo và nhân sanh nơi Thánh Tịnh Long Thành luôn mơ ước một ngày nào đó Thánh Tịnh sẽ được xây dựng lại đúng mức, đáp ứng đủ điều kiện để phục vụ giao lưu Đời Đạo. Vì Đời Đạo là Âm Dương, là Nguyên Lý, sự tốt Đời đẹp Đạo là mục đích tiến hóa chung của toàn nhân loại.
Từ ngày thực hiện được lễ Tri Ân Tiền Bối lần đầu tiên (2007) đến nay sự liên giao có chiều hướng phát triển mạnh mẽ. Các vị tiền Khai, các hàng Tiền Bối, Tiền Hiền chắc cũng rất hân hoan vui mừng cho sự vươn lên của Thánh Tịnh, nhứt là vị Tiền Bối đầu tiên của Thánh Tịnh Long Thành là Ngài cố Đạo trưởng Ngọc Minh Sắc đắc vị Đẳng Giác Kim Tiên, một người đã khai sơn phá thạch gầy dựng nên Thánh Tịnh Long Thành thì còn vì vui mừng hơn khi có từng lớp người hậu tấn nối tiếp làm vẽ vang sự nghiệp Đạo pháp cao cả chính là sự kế thừa lãnh đạo suốt chặng đường dài khi Thánh Tịnh đã có từ năm 1942 đến nay, càng vững niềm tin hơn là làm cho toàn thể tín đồ vô cùng phấn khởi khi Thánh Tịnh được khởi công xây dựng lại, mà khả năng thì ngoài mức tưởng tượng của mỗi người. Sự nhu cầu bức thiết của Họ Đạo Thánh Tịnh Long Thành là khi Thánh Tịnh đang xuống cấp rất nghiêm trọng, nếu không xây dựng lại kịp thời thì bổn đạo không thể nào yên tâm tu hành được.
Kính thưa quý vị! Niềm ước mơ đã trở thành hiện thực. Hôm nay Lễ kỷ niệm Tri Ân Tiền Bối lần thứ 03 cũng là ngày Đại lễ An Vị Bát Quái Đài, Khi trong năm đã được khởi xây dựng từ tháng 03 đến nay cũng đạt phần hạn mục về Bát Quái Đài. Bát Quái Đài là nơi đặt thành cung nghi Chánh điện Thờ Đức Chí Tôn và các vị Giáo Chủ. Việc thành tựu hôm nay tưởng chừng như không thể nào chúng tôi thực hiện được, dù thực hiện mới chỉ đạt được 30% công trình của Tam Đài; dù thực hiện còn tồn động một số phần khó khăn như bản phúc trình tổng kết thu xuất xây dựng Bát Quái Đài mà chúng tôi đang được kính phúc trình trước Đại lễ hôm nay, để mong sự cảm thông, chia sẽ, hổ trợ của toàn Đạo và nhân sanh.
Để dứt lời, chúng tôi xin chân thành kính chúc toàn thể chư quý vị có được một sức khỏe dồi dào và thành đạt tốt đẹp nhất trên mọi lĩnh vực..
Thay mặt Ban Tổ Chức, tôi xin tuyên bố khai mạc buổi lễ An Vị Bát Quái Đài và kỷ niệm Tri Ân Tiền Bói lần thứ 03 Thánh Tịnh Long Thành năm Kỷ Sửu 2009 hôm nay.
Xin chân trọng kính chào và tri ân toàn thể chư quý liệt vị.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
THÁNH TỊNH LONG THÀNH
TỪ NĂM 1942 ĐẾN NĂM 2009
I – VỊ TRÍ TỌA LẠC THÁNH TỊNH LONG THÀNH
Thánh Tịnh Long Thành tọa lạc tại Khu Vực Bình Yên B, Phường Long Hòa, Quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ.
Thánh Tịnh Long Thành nằm trên bờ sông Rạch Cam chạy qua trước mặt, in bóng những vườn cây ăn trái sum xuê, lại được những con lộ quan trọng có sẳn và sắp mở thêm nhiều con lộ bọc quanh, tạo nên một thắng cảnh hữu tình, trù phú, báo hiệu một= tương lai sáng lạn về văn hóa, lịch sử và kinh tế của vùng địa linh nhân kiệt sông Tiền, sông Hậu.
Thánh Tịnh Long Thành Tôn Giáo Cao Đài thuộc phái Chiếu Minh được xây dựng từ năm 1942.
Người sáng lập Thánh Tịnh là Ông Nguyễn Văn Cứ, Thánh Danh là Ngọc Minh Sắc. Ông Cứ được Ông Nguyễn Văn Kiết để cho một mẫu đất dùng để lo việc Đạo, xây dựng chùa, không sang bán gì cả.
Ông Nguyễn Văn Cứ đề xướng và điều động Bổn Đao cùng nhân sanh thiện nam tín nữ nhiều nơi đóng góp công quả, xây dựng và trùng tu Thánh Tịnh qua từng đợt như sau:
Năm 1942 khởi công xây dựng, chùa lá cột cây, ngang 5m, dài 9m.
Năm 1944 tu sửa lần thứ nhất cũng bằng cây lá : ngang 9m, dài 12m
Năm 1946 tu sửa lần thứ nhì đóng vách ván, lợp mái ngói : Ngang 14m, dài 18m. Kể cả Tây và Đông lang.
Năm 1966, tu sửa lần thứ ba, xây tường gạch, mái ngói, lợp tole Thánh Tịnh được tạo thành ba gian, giữa là Chánh Điện thờ cúng, bên tả là Đông lang, dành cho phái nam, bên hữu là Tây lang dành cho phái nữ. Chánh Điện thờ ở giữa cũng được chia làm ba phần : Ngòai vào là Hiệp Thiên Đài giữa là Cửu Trùng Đài, trong là Bát Quái Đài. Cả ba phần đều đổ la phông ngăn tầng trên.
Tu sửa hòan tất thì vào ngày 10 tháng 10 năm 1969, Ông Cứ liểu đạo, đắc vị là Đẳng Giác Kim Tiên.
Ngày 29 tháng 9 năm 1989 bà Cứ là Võ thị Kiên cũng Liểu Đạo, giao lại Thánh Tịnh cho anh Phạm Hữu Lợi là cháu ngọai của bà, để kế tục lo Đạo, lo Thánh Tịnh.
Ngày 18 tháng 11 năm 1995, anh Phạm Hữu Lợi giao trách nhiệm lại cho em ruột là Phạm Trường Thọ. Phạm Trường Thọ cho bổn Đạo gìn giữ riêng phạm vi đất ngang 20m, dài 53m (kể chung phạm vi đất đã xây dựng và chưa xây dựng) và được Sở Địa Chính tỉnh Cần Thơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Thánh Tịnh Long Thành vào ngày 22 tháng 01 năm 2003, trừ đường đi còn : ngang 20m, dài 51,2m. tổng diện tích 1030,2m 2.
Đến năm 2009. vì Thánh Tịnh xây dựng theo thời chiến tranh và trãi qua thời gian khá dài, đã xuống cấp nghiêm trọng, nên được phép xây dựng của Sở Xây Dựng Thành Phố Cần Thơ số 07/GPXD đề ngày 03/03/2009. Thánh Tịnh xây dựng lại kiên cố như sau:
*Vì chu vi đất hẹp nên Thánh Tịnh xây dựng hai tầng: Ngang 13m, dài 29m. Tầng dưới làm Hội Trường Liên Giao Đời Đạo, tầng trên có đủ Tam Đài là Bát Quái Đài, Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài đúng ngôi Thánh Thể Đức Chí Tôn.
II- TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH ĐẠO
CỦA THÁNH TỊNH LONG THÀNH
ĐƯỢC THÀNH LẬP BAN CAI QUẢN VÀ BAN TRỊ SỰ
-Ban Cai Quản chăm lo việc tổ chức lễ hội, kế họach xây dựng, điều động nhân lực.
-Ban Trị Sự : chăm lo sổ sách, hành chánh, sổ bộ Đạo.
Nhiệm kỳ 1 (gồm 8 năm) 1948-1956.
Ông Lý Văn Nhãn : Chánh Hội Trửơng
Ông Nguyễn Văn Thọai : Phó Hội Trưởng
Nhiệm kỳ 2 (gồm 3 năm) 1956-1959.
Ông Lê Văn Húynh : Chánh Hội Trửơng
Ông Hùynh Văn Danh : Chánh Trị Sự
Nhiệm kỳ 3 (gồm 2 năm) 1959-1961.
Ông Lê Văn Húynh : Chánh Hội Trửơng
Ông Nguyễn Văn Trượng : Phó Hội Trửơng
Ông Lê Phát Thọai : Chánh Trị Sự
Nhiệm kỳ 4 (gồm 3 năm) 1961-1964.
Ông Lê Văn Húynh : Chánh Hội Trửơng
Ông Dương Hiếu Sen : Phó Hội Trửơng
Ông Lâm Văn Năm : Chánh Trị Sự
Ông Nguyễn Văn Tấn : Phó Trị Sự
Nhiệm kỳ 5 (gồm 3 năm) 1964-1967.
Ông Lê Văn Húynh : Chánh Hội Trửơng
Ông Dương Hiếu Sen : Phó Hội Trửơng
Ông Nguyễn Văn Giáo : Chánh Trị Sự
Ông Lâm Văn Năm : Chánh Trị Sự
Ông Nguyễn Văn Tấn : Phó Trị Sự
Nhiệm kỳ 6 (gồm 11 năm) 1967-1978.
Ông Võ Văn Dung : Chánh Hội Trửơng
Ông Đặng Thiên Kiêm : Phó Hội Trưởng
Ông Lâm Văn Năm : Chánh Trị Sự
Ông Lê Văn Thôn : Phó Trị Sự
Ông Nguyễn Văn Thông : Phó Trị Sự
Nhiệm kỳ 7 (gồm 3 năm) 1978-1981.
Ông Võ Văn Dung : Chánh Hội Trửơng
Ông Hà Tấn Việt : Chánh Trị Sự
Bà Nguyễn Thị Mười : Chánh Trị Sự nữ phái
Nhiệm kỳ 8 (gồm 6 năm) 1981-1987.
Ông Võ Văn Dung : Chánh Hội Trửơng
Ông Lê Văn Sáu : Phó Hội Trưởng
Ông Hà Tấn Việt : Chánh Trị Sự
Bà Nguyễn Thị Mười : Chánh Trị Sự nữ phái
Ông Nguyễn Ánh Thanh : Phó Trị Sự
Nhiệm kỳ 9 (gồm 3 năm) 1987-1990.
Ông Lê Văn Sáu : Chánh Hội Trửơng
Ông Đặng Hữu Cây : Phó Hội Trửơng
Nhiệm kỳ 10 (gồm 4 năm) 1990-1994.
Ông Đặng Hữu Cây : Chánh Hội Trửơng
Ông Quảng Văn Hai : Phó Hội Trửơng
Nhiệm kỳ 11 (gồm 5 năm) 1994-1999.
Ông Lâm Văn Năm : Chánh Hội Trửơng
Ông Đặng Thiên Kiêm : Phó Hội Trưởng
Ông Quảng Văn Hai : Phó Hội Trửơng
Nhiệm kỳ 12 (gồm 2 năm) 1999-2001.
Ông Quảng Văn Hai : Chánh Hội Trửơng
Ông Quảng Văn Quang : Phó Hội Trưởng
Ông Đặng Thiên Kiêm : Phó Hội Trưởng
Nhiệm kỳ 13 (gồm 5 năm) 2001-2006
Ông Quảng Văn Hai : Chánh Hội Trửơng
Nhiệm kỳ 14 (gồm 4 năm) 2006-2010.
Ông Hà Tấn Việt : Quyền Hội Trửơng
Bà Lê Thị Tám : Phó Hội Trưởng
III- THÀNH TÍCH CỦA THÁNH TỊNH LONG THÀNH
Ngoài việc chăm lo Đạo sự của Nhị Ban nói riêng, của Bổn Đạo nói chung, Thánh Tịnh Long Thành luôn cố gằng hết sức mình đóng góp rất nhiều cho cách mạng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như sau:
Thánh Tịnh Long Thành thành lập từ năm 1942 đến nay đã 67 năm. từ đó đã có Ban Cai Quản và Ban Trị Sự nối tiếp nhau làm nhiệm vụ đạo sự trong thời chiến tranh bom đạn. Trong hai cuộc kháng chiến, Thánh Tịnh Long Thành cũng là nơi nuôi dạy thanh niên trốn quân dịch, xin miễn hoãn dịch cho họ, vận động phong trào binh vận và nuôi dấu cán bộ nên trong Nhị Ban có những thành tích đáng kể được đạo ghi lưu lại như:
-Ông Đặng Thiên Kiêm, năm 1961 làm Chánh thông sự, rồi Chánh hội trưởng Long Thành, là Thanh niên tiền phong Năm 1945, rồi Ban chấp hành Cao Đài cứu quốc, gia đình liệt sĩ con Đặng Thành Sơn hy sinh 1987.
-Ông Hà Thanh Phong, năm 1964 làm Phó từ hàn rồi Chánh tử hàn Long Thành. cũng là Thanh niên tiền phong năm 1945, rồi Thanh niên cứu quốc, đến 1957 bị ngụy quyền bắt tù 3 năm.
-Ông Lâm Văn Năm, năm 1961 làm Chánh trị sự Long Thành, là Thanh niên tiền phong năm 1945, rồi cán sự Nông hội, Ban Phụ Lão Cứu Quốc, Hội đồng nhân dân, Ủy viên Mặt trận xã Long Tuyền, Vợ Huỳnh Thị Liền được nhà nước phong tặng mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình liệt sĩ con là Lâm Cẩm Xương và Lâm Văn Út thời 9 năm hy sinh năm 1963.
-Bà Nguyễn Thị Mười, năm 1967 làm Chánh trị sự nữ phái Long Thành, vừa là Ban chấp hành phụ nữ cứu quốc xã giai xuân. Khi gia đình về Long Hòa làm Phụ nữ cứu quốc, Ủy viên Mặt trận tổ quốc, Hội đồng nhân dân khóa 3 xã Long Hòa.
-Ông Quảng Văn Quang, năm 1948 làm Từ Hàn Long Thành. là Xã đội trưởng Giai Xuân năm 1975.
-Ông Lê Văn Thôn, năm 1967 làm phó Trị sự Long Thành. đã có công thời chống pháp cho mượn nhà làm cơ quan của Ban công tác thành, thị xã Cần Thơ, Tỉnh Cần Thơ.
-Ông Lê Văn Út năm 1967 làm Từ hàn Long Thành. là người có công dẫn đường trực tiếp cơ sở địa phương xã Long Hòa. đến tiếp thu 1975 làm Ban an ninh ấp Bình yên, xã Long Hòa, Ủy viên thư ký Ủy ban, Phó chủ tịch Ủy ban, Đảng Ủy viên chỉ đạo khối dân vận Long Hòa.
- Ông Lê Phát Thoại năm 1959 làm Chánh trị sự Long Thành. vừa là Chủ tịch Ủy ban xã Giai Xuân, sau làm Phó Từ Hàn Hội Thánh vừa là Tài vụ cơ quan tỉnh ủy Cần Thơ đến giải phóng.
-Ông Huỳnh Văn Danh, năm 1956 làm Chánh trị sự Long Thành. vừa là Cán bộ mật xã Thới An Đông.
-Ông Nguyễn Quốc Khánh, đương sự vào Long Thành được chủ chùa lo hầm bí mật để ẩn náo, đến 1959 là phó Bí thư xã Long Tuyền, đến 1975 Chủ tịch xã Long Tuyền.
Họ đạo có 1 mẹ Việt Nam anh hùng, nhiều gia đình liệt sĩ, nhiều gia đình có công với đất nước.
IV- KẾT LUẬN :
Thánh Tịnh Long Thành đã có sẳn chiều dầy lịch sử đáng tự hào của các bậc Tiền bối Tiền hiền vừa phụng đạo vừa phục vụ quê hương trên tinh thần yêu nước sâu sắc giữa thời chiến tranh bom đạn, Sau hòa bình Ban Qui Ước ra đời đã giúp cho Thánh Tịnh rất nhiều về luật đạo, luật đời để vươn lên và phát triển.
Suốt 67 năm qua, tổ chức hành chánh Đạo của Thánh Tịnh Long Thành vẫn giữ vững được kỷ cương chặt chẽ, có nội quy Đạo luật nghiêm minh, có phân công trách nhiệm rõ ràng, đòan kết tương trợ giữa Nhị Ban, chưa hề xảy ra bất hòa trong nội bộ hoặc bị Đạo hay nhân dân chê trách. Được như vậy là nhờ Nhị Ban cũng như tòan thể Bổn Đạo luôn luôn một lòng tuân thủ Đạo luật, chăm lo Đạo sự, đòan kết với mọi Chi Phái, Tôn Giáo. Chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương chính sách pháp luật Nhà Nước, giáo dục truyền thống bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc, làm vui Đời như lời Bác Hồ dạy.
Hằng năm Thánh Tịnh Long Thành tổ chức Đại lễ Liên Giao Đời Đạo ngày 10 tháng 10 âm lịch, cũng là Đại Lễ kỷ niệm thành lập ngôi Thánh Tịnh, kỷ niệm Khánh Thành, cũng là ngày kỷ niệm Tri Ân Tiền Bối, có mời đông đủ Chánh quyền,.Mặt Trận, Tôn giáo các cấp. Các Tôn Giáo, Hội Thánh, Cơ Quan Đạo, Thánh Thất, Thánh Tịnh, Điện, Đàn cùng đạo tâm nam nữ tham dự trên 300 vị. Tình Liên Giao Đời Đạo của Thánh Tịnh Long Thành là không phân biệt sắc màu Tôn Giáo, Đạo Đời. Hằng tháng nơi Thánh Tịnh đều có tổ chức cúng thường lệ vào ngày 14 và 29 âm lịch.Ngày cúng có bình Thánh giáo và sinh hoạt đạo.
Từ năm 1978 đến nay, Thánh Tịnh Long Thành có tổ chức chữa bệnh miễn phí giúp cho Bổn Đạo và nhân sanh, đem lại sự an vui cho bà con.
Tinh thần liên giao đời đạo, hoằng dương chánh pháp của Thánh Tịnh Long Thành ngày thêm phát triển mở rộng. Chúng tôi rất mong được sự ủng hộ nhiệt tình của các cấp chính quyền nhiều hơn nữa, cũng như sự hổ trợ của toàn đạo và nhân sanh.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu tập thể về Thánh Tịnh Long Thành, về vị trí tọa lạc, qua quá trình hình thành và phát triển, về tổ chức Hành Chánh Đạo quy mô chặt chẽ, về thành tích Đạo với Đời của Bổn Đạo Nhị Ban, về cá nhân từng thành viên nêu trên đây, chúng tôi có thể nói chắc rằng, Thánh Tịnh Long Thành là một niềm tự hào lớn, không chỉ của địa phương mà của cả nước.
DANH SÁCH HÀNH HƯƠNG CÔNG QUẢ |
|||
NGÀY LỄ TRÍ THẠCH |
|||
NGÀY |
TÊN |
ĐỊA CHỈ |
TIỀN |
Lễ Trí Thạch |
TT Huệ Đông Thiên |
Bạc Liêu |
150000 |
Lễ Trí Thạch |
TT Long Phú |
Bến Lức L.A |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
TT Liên Hoa Cửu Cung |
Thủ Đức TPHCM |
300000 |
Lễ Trí Thạch |
Thiện Tri Đàn |
Ba Tri BT |
600000 |
Lễ Trí Thạch |
HT Cao Thượng Bửu Tòa |
Bạc Liêu |
2000000 |
Lễ Trí Thạch |
TT Ô Môn |
Ô Môn TPCT |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
HT Cao Đài Thượng Đế |
Cần Thơ |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
Tây Thành TT |
Cần Thơ |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
Hưng Thọ Tự |
Long Tuyền |
250000 |
Lễ Trí Thạch |
TT Thốt Nốt |
Thốt Nốt CT |
300000 |
Lễ Trí Thạch |
Nam Thành TT |
TP HCM |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
Tòa Thánh CĐVN |
Tiền Giang |
2000000 |
Lễ Trí Thạch |
Chùa Bửu Thành Tân Nhơn |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Chùa Bửu Thành (Sư Quang) |
Long Tuyền |
300000 |
Lễ Trí Thạch |
Nữ Đoàn Đại Đạo |
TP HCM |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
Tt Thiên Trước |
TPCT |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
TT Trà Nóc |
300000 |
|
Lễ Trí Thạch |
TT Hỏa Tiên |
Vị Thanh HG |
250000 |
Lễ Trí Thạch |
TT Thị Trấn Cần Giuộc |
Long An |
1800000 |
Lễ Trí Thạch |
Tt Trước Mai |
Trường Thành |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
HT Thiên Khai Huỳnh Đạo |
TP HCM |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
HT Tân Chiếu Minh |
Vĩnh Long |
190000 |
Lễ Trí Thạch |
Linh Quang Tự (Sư cô Minh) |
Hậu Giang |
300000 |
Lễ Trí Thạch |
Tt Ngọc Nữ Đài |
Trà Nóc |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Tt Chiếu Minh Ẩn Giáo |
Tân Thới |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
CQ PTGL Đại Đạo |
TP HCM |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
TT Hải Sơn Liên Giao |
Rạch Giá |
700000 |
Lễ Trí Thạch |
Tt Chiếu Minh Minh Nguyệt |
Trà Nóc |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Tt Tịnh Trường Kỳ Minh |
Phụng Hiệp |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Tt Chiếu Minh Tự |
Vĩnh Long |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Cơ sở may từ thiện |
Ô Môn |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Triệu Thanh Quyền |
Tây Ninh |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Võ Văn Đẹp |
Tây Ninh |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Hồ Phước Kế |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Văn Đàng |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Văn Tần |
Giai Xuân |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Võ Thị Kim Nhang |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Lệ Thủy |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Huỳnh Thị Giáp |
Vị Thanh |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Đổ Văn Bé |
200000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Huỳnh Thị Sau |
Vị Thanh |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Võ Thị Thu An |
Vị Thanh |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Bạch Hoàng Lâm |
Vị Thanh |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Thiện Thông Thành |
Thới Long |
1000000 |
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Kiệm |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Pt Tâm Đăng |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Pt Tâm Chơn |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Pt Hạnh Châu |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Pt Phước Tấn |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Pt Tâm Phúc |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Phạm Thị Cẩm Vân |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Cô Năm Thủy |
Định Môn |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Quách Văn Sáng |
Bạc Liêu |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Hận |
Long Hòa |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Thà |
Long Hòa |
30000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Bé Ba |
Rạch Cam |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Văn Chín |
Long Tuyền |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Lý |
Rạch Chanh |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thanh Long |
Rạch Cam |
1000000 |
Lễ Trí Thạch |
Quảng Thị Mười |
Long Hòa |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Ngô Kim Chi |
Rạch Cam |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Ngô Kim Thủy |
Rạch Cam |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Ngô Tấn Kiệt |
Rạch Cam |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Trần Đức Thảo |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Thảo Trang |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Long |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Thinh |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Quý |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Văn Hòa |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Phan Thị Hạnh |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Tuyền Đức Duy |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Nguyễn Đức Tín |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Nguyễn Bắc Bảo |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Đổ Văn Lưu |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Nga |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Ngô Thị Lời |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Tám Phước Hương |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Ngô Tú Phong |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Tăng Phục Hương |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Út |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Huỳnh Thị Huệ |
500000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Minh Chiếu Tâm |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Diệu |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Bảo Thanh Giang |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Như Hoa |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Hồng Thọ |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Đoàn nữ Thanh Trang |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Đoàn Trần Đạt |
200000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Hiệp |
300000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Phúc |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Văn Đứcf |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Hiền |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Hiếu |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Dưỡng |
40000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Cô Khiêm |
Chợ Rạch Cam |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
Hãi Yến |
Chợ Rạch Cam |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Hà Thị Tám |
Chợ Rạch Cam |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Văn Điều |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Mum |
Long Hòa |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Bạch Liên Nguyên |
Thới Thạnh |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Gđ Phú Mỹ |
Cần Thơ |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
Huỳnh Thị Sáng |
Cần Thơ |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Cô Chín Xẻo Cao |
Rạch Sỏi |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Cao Hạnh Duy |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Huỳnh Văn Còi |
50000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Lê Thị E |
Giai Xuân |
20000 |
Lễ Trí Thạch |
Trần Văn Tuôi |
Cái Răng |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Năm Hiếu |
40000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Lê Kim Hoàng |
Giai Xuân |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Hà Thị Dở |
Giai Xuân |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Muội Bỉnh |
Thới Thạnh |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Năm Huệ |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Xuân |
Rạch Gòi |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Thái Ngọc Trầm |
Thới Lai |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Đặng Thanh Tòng |
Long Tuyền |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Lê Thị Thu Hài |
Giai Xuân |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Văn Nhựt |
Long Hòa |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Cô Tư Sậu |
Long Hòa |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Lâm Kim Em |
Long Hòa |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Cô 8 Phẩm nhà máy |
Long Hòa |
80000 |
Lễ Trí Thạch |
Trần Phú Nhuận |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Lò bún |
Vàm Nhon |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Lâm Thị Hạnh |
Thới Long |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
Lê Thị Mỹ Hương |
Trường Long |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Năm |
Tây Thành TT |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Thường |
Rạch Gòi |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Châu |
Giai Xuân |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Phạm Ngọc Hưng |
Vàm Nhon |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Văn Mười Em Nhỏ |
Long Hòa |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Tạ Xuân Thái |
Cái Răng |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Năm Hiếu |
Rạch Gòi |
40000 |
Lễ Trí Thạch |
Dương Hiếu Hạnh |
Long Hòa |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Lê Văn Huê |
Thới An Đông |
20000 |
Lễ Trí Thạch |
Hai Được |
Rạch Cam |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Tô Huệ |
Thới Long |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Ngô Thị Túy Phượng |
Trà Nóc |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Tuyết Hạnh |
Trường Xuân |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
Trần Thị Hồng Nhung |
Thới Long |
500000 |
Lễ Trí Thạch |
Cô Tư + Cô Năm |
Đông Bà Hơi |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Lê Thị Đào |
Rạch Gòi |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Phạm Văn Dương |
Rạch Gòi |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Lê Thị Tiếng |
Rạch Gòi |
50000 |
Lễ Trí Thạch |
Lê Thị Ri A |
Cần Thơ |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Cửu |
Long Hòa |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Văn Yên |
Rạch Cam Nhỏ |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Dương Thị Mỹ Dung |
100000 |
|
Lễ Trí Thạch |
Cô Sáu |
Thới Long |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Trị |
Thới An Đông |
5000000 |
Lễ Trí Thạch |
Bạch Liên Chuyển |
Thới Long |
5000000 |
Lễ Trí Thạch |
Bửu Giác Hương |
Thới Lai |
5000000 |
Lễ Trí Thạch |
Bửu Định Hương |
Thới Long |
1000000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Đức Hạnh |
TP HCM |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Ngọc Ánh Nghĩa |
Bình Thủy |
100000 |
Lễ Trí Thạch |
Bửu Tiền Hương |
Thới Long |
19000000 |
Lễ Trí Thạch |
Bạch Liên Thiền |
Long Hòa |
200000 |
Lễ Trí Thạch |
Nguyễn Thị Kỉnh |
Giai Xuân |
50000 |
Cộng |
|||
65410000 |
|||
|
- |
||
DANH SÁCH HÀNH HƯƠNG CÔNG QUẢ |
|||
SAU TRÍ THẠCH |
|||
NGÀY |
TÊN |
ĐỊA CHỈ |
TIỀN |
24 / 2 Kỷ Sửu |
Cơ Quan PTGLĐĐ |
TP HCM |
500000 |
24 / 2 Kỷ Sửu |
Chù Linh Quang (Sư cô Minh) |
Tầm Du |
1400000 |
24 / 2 Kỷ Sửu |
Thiên Nhiên Thành |
Thới Long |
10000000 |
24 / 2 Kỷ Sửu |
Bạch Liên Chuyển |
Thới Long |
5000000 |
24 / 2 Kỷ Sửu |
Nguyễn Văn Quyền |
Thới Long |
200000 |
24 / 2 Kỷ Sửu |
Nguyễn Văn Bé |
Thới Long |
800000 |
24 / 2 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Hằng |
Thới Long |
200000 |
24 / 2 Kỷ Sửu |
Trần Thị Tô Huệ |
Thới Long |
300000 |
24 / 2 Kỷ Sửu |
Trần Thị Hồng Nhung |
Thới Long |
500000 |
24 / 2 Kỷ Sửu |
Chế Hiển + Thanh |
Thới Long |
420000 |
14 / 3 Kỷ Sửu |
Phạm Thị Hoa |
Long Hòa |
420000 |
14 / 3 Kỷ Sửu |
Phạm Thị Ngọc |
Long Hòa |
10000 |
20 / 3 Kỷ Sửu |
Nhà hão tâm |
Long Hòa |
100000 |
20 / 3 Kỷ Sửu |
Khải + Long + Hưng |
Thới Long |
400000 |
20 / 3 Kỷ Sửu |
TT Tân Quý Tây |
Thới Long |
100000 |
20 / 3 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Xuân Tươi |
Vàm Nhon |
100000 |
29 / 3 Kỷ Sửu |
Lê Kim Hoàng |
Giai Xuân |
10000 |
29 / 3 Kỷ Sửu |
Hà Thị Dở |
Giai Xuân |
10000 |
12 / 4 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Bích Loan |
Vàm Nhon |
200000 |
12 / 4 Kỷ Sửu |
Hồng Huệ |
Thuốc Tây Ô Môn |
100000 |
12 / 4 Kỷ Sửu |
Nguyễn Hữu Nghĩa |
Rạch Sỏi |
350000 |
12 / 4 Kỷ Sửu |
Anh Hậu + Lê |
Nông Trường |
100000 |
12 / 4 Kỷ Sửu |
Cô Bích (chị 5 Bia) |
Ô Môn |
300000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Anh Việt + Hạnh |
Bảy Ngàn |
200000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Thiên nhiên Vạn |
Long Hòa |
10000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Phạm Thị Thủy |
Long Hòa |
50000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Phạm Thị Chín |
Long Hòa |
20000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Phạm Thị Hoa |
Long Hòa |
10000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Bửu Đức Hương |
Phong Điền |
300000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Bửu Giác Hương |
Thới Lai |
5000000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Hà Thị Thùy |
Long Tuyền |
2000000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Huynh Nghĩa |
Vĩnh Long |
3000000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Phan Ngân Hà |
Vĩnh Long |
500000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Lê Thị Vui |
Khoán Châu |
100000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Phan Ngươn Khoa |
TP HCM |
1800000 |
14 / 4 Kỷ Sửu |
Triệu Ngọc Dung |
Long Tuyền |
1800000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Dương Hiếu Hạnh |
Long Hòa |
50000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Cửu |
Long Hòa |
50000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Trần Văn Vuông |
Long Hòa |
50000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Ngô Thị Bé Hai |
Ngô Thị Bé Hai |
40000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Trần Thị Tư |
Thới An Đông |
100000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Lâm Phương Thảo |
20000 |
|
29 / 6 Kỷ Sửu |
Nguyễn Văn Trị |
50000 |
|
29 / 6 Kỷ Sửu |
Lê Thị Tám |
Long Hòa |
30000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Đặng Văn Liền |
Long Tuyền |
30000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Thanh Hương |
Long Hòa |
10000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Trần Thị Dưỡng |
20000 |
|
29 / 6 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Tư |
40000 |
|
29 / 6 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Thà |
Long Hòa |
30000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Phan Thị Hoa |
50000 |
|
29 / 6 Kỷ Sửu |
Công Văn Trực |
30000 |
|
29 / 6 Kỷ Sửu |
Khưu Ngọc Thủy |
Bình Thủy |
25000 |
29 / 6 Kỷ Sửu |
Khưu Ngọc Vinh |
Bình Thủa |
25000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Ngọc Tuyết Tiên |
Việt kiều Mỹ |
18000000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Lê V Tô + Nguyễn T Tuyết |
Cái Bè, Tiền Giang |
2000000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Thiên Nhiên Thường |
Bà Đầm |
1000000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Trần Phú Lộc |
Cần Thơ |
1000000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Trần T. Hạnh Phúc |
Bảy Ngàn |
500000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Trần Thị Tuyết Mai |
Bảy Ngàn |
500000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Hà Thị Đối |
Long Tuyền |
1100000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Quảng Thị Thanh Xuân |
Long Hòa |
500000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Ngọc Ánh Sơn |
Giai Xuân |
50000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Trần Bá Phong |
Bảy Ngàn |
5000000 |
10 / 7 Kỷ Sửu |
Trần Triết Trung |
3000000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Võ Huấn Luyện |
100000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Hồ Thị Sáu |
50000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Dì Mười |
Tân Quới |
20000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Huỳnh Văn Lê |
50000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Lê Văn Bạc |
100000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Văn Hòa |
50000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Võ Văn Tiêu |
100000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Lư Đức |
50000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Mạch Quang Siêu |
100000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Thư |
50000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Thanh Thúy |
10000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Bạch Liên Cung |
100000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Thiên Nhiên Phương |
Thới An Đông |
50000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị kỉnh |
Giai Xuân |
50000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Ngọc Ánh Long |
Long Hòa |
20000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Thà |
Long Hòa |
30000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Phạm kim Thi |
Long Hòa |
20000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Phạm Thị Hoa |
Long Hòa |
20000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Lê Thị Út Hạnh |
Trường Long |
100000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Ngô Kim Chi |
100000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Lê Kim Hoàng |
Giai Xuân |
20000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Má Be He |
Giai Xuân |
10000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Bác Ba |
Rạch Cam |
20000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Ngọc Ánh Huyền |
Giai Xuân |
50000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Dương Hiếu Hạnh |
Long Hòa |
20000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Võ Thị Sổ |
Bính Thủy |
50000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thanh Lâm (Quắn) |
Long Hòa |
50000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Kim Hai |
30000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Đoàn Thị Bảy |
200000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Lê Kim Hồng |
Thới An Đông |
1000000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Lê Thị E |
Giai Xuân |
620000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Lê Nguyễn Hải Đăng |
50000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Trần Văn Thái |
20000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Lê Thị Thêm |
20000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Út |
10000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Lâm Ngọc Châu |
10000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Tiến |
10000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Lâm Kim Em |
Long Hòa |
20000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Phan Thị Loan |
30000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Kim Chi |
20000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Quảng Văn Việt |
Thới An Đông |
20000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Bích Hộp |
30000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Quảng Thị Hoa |
Thới An Đông |
50000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Trần Thị Hồng Nhung |
Thới Long |
200000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Phan Thu Em |
100000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Phạm Trường Thọ |
Long Hòa |
10000 |
14 / 7 Kỷ Sửu |
Võ Văn Tư |
50000 |
|
14 / 7 Kỷ Sửu |
Võ Kim Loan |
100000 |
|
26 / 7 Kỷ Sửu |
Phổ Chơn |
Kiên Giang |
1000000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Bửu Chơn Hương |
Cần Thơ |
5000000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Trần Văn Thẹn |
Bến đò đu đủ |
200000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Mã Thị Láng |
Việt Kiều Mỹ |
18000000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Nonica |
Việt Kiều Mỹ |
1800000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Hồ Hoàng An |
Bạc Liêu |
200000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Kim Loan |
500000 |
|
26 / 7 Kỷ Sửu |
Lê Ngọc Hoa |
Cần Thơ |
200000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Minh Anh |
Cần Thơ |
200000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Diểm Trang |
Cần Thơ |
100000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Mã thị Ky |
Việt Kiều Mỹ |
3600000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Cô Nga |
Vĩnh Long |
1000000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Lê Văn Ri |
Cái Bè |
500000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Bửu Đức Hương |
Phong Điền |
1000000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Thích Minh Đức |
Vàm Nhon |
200000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Huynh Mười Hân |
Thới Long |
100000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Đức Hạnh |
TP HCM |
100000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Chương Thị Ten |
TP HCM |
100000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Cô Tư + Cô Năm |
TP HCM |
200000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Ngọc Ánh Long |
Long Hòa |
1000000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Chín |
Phong Điền |
200000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Cam Lai Thạch |
Việt Kiều Mỹ |
900000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Hãi Châu |
TP HCM |
3000000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Trần Thị Nguyệt |
Đất sét |
3000000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Lê Hoàng Tiến |
Bình Dương |
500000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thanh Thủy |
Bình Dương |
500000 |
26 / 7 Kỷ Sửu |
Trịnh Ngọc Long |
Việt Kiều Mỹ |
18000000 |
12 / 8 Kỷ Sửu |
La Sơn Minh |
Việt Kiều Mỹ |
18000000 |
12 / 8 Kỷ Sửu |
Việt Kiều Mỹ |
34000000 |
|
12 / 8 Kỷ Sửu |
Việt Kiều Mỹ |
12913000 |
|
15 / 8 Kỷ Sửu |
Dương Thị Sáu |
Rạch Cam |
200000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Thanh Bạch |
Xóm chài |
50000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Hoa Kim |
Tân Chiếu Minh |
200000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Phan Lương Ánh |
Cần Thơ |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Thanh Bạch |
Xóm chài |
50000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Hoa Kim |
Tân Chiếu Minh |
200000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Phan Lương Ánh |
Cần Thơ |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Ngọc Kim Duyên |
Long Hòa |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Phan Thị Nguyệt |
Cần Thơ |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Nguyễn Hữu Truyền |
Long Tuyền |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lưu Thị Khổng |
Ba Tri |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lê Văn Huy |
Cái Bè |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Hồ Thị Khuê |
Cái Bè |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lê Thị Thới |
Ba Tri |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Trần Thị Thiệt |
Ba Tri |
200000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Hiền Huynh Phan |
Châu Đốc |
50000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Vạn Sương Mai |
Mỹ Lương, Cái Bè |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Vạn Hoàng |
Mỹ Lương, Cái Bè |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lê Thị Kim Loan |
Mỹ Lương, Cái Bè |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lê Công Khanh |
Mỹ Lương, Cái Bè |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lâm Quốc Phăng |
Long Hòa |
100000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Bửu Chơn Hương +Thu Hương |
Cần Thơ |
4000000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Phụng, Thủy, Mai |
Ba Tri |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Cô Chí |
Cần Thơ |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Huynh Tỷ Út Thơ |
Cần Thơ |
3000000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lê Thị Nguyệt |
An Bình, Vĩnh Long |
1000000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lể Hoàng Lộc |
An Bình, Vĩnh Long |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Kiệm |
An Bình, Vĩnh Long |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Nguyễn Chữ Tôn |
An Bình, Vĩnh Long |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Huỳnh Ngọc Kim |
TP HCM |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Trần Văn Bùi |
Ấp 6, An Thủy, BaTri |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Phạm Thị Thẩm |
Ấp 6, An Thủy, BaTri |
200000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Ngọc Ánh Hoa |
Long Tuyền |
1300000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Ty |
Rạch Cam |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Nguyễn Thị Ty |
Rạch Cam |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Quảng Thị Hoa |
Cần Thơ |
100000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Nguyễn Quang Ngọc |
Việt Kiều Mỹ |
3600000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Trần Thị Trúc Nhã |
Long Hòa |
50000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Huynh Út Hão |
Cần Thơ |
2000000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Thiên Nhiên Hão |
Thiên Trước |
100000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Bạch Liên Cung |
Tân Quới |
100000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Võ Huấn Luyện |
Cần Thơ |
100000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lê Thị Út Hạnh |
Trường Long |
100000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Ngô Kim Chi |
100000 |
|
15 / 8 Kỷ Sửu |
Đoàn Thị Bảy |
200000 |
|
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lê Kim Hồng |
Thới An Đông |
1000000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Trần Thị Hồng Nhung |
Thới Long |
200000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Phan Thị Em |
100000 |
|
15 / 8 Kỷ Sửu |
Võ Kim Loan |
100000 |
|
15 / 8 Kỷ Sửu |
Trần Thị Tô Huệ |
100000 |
|
15 / 8 Kỷ Sửu |
Lê Thị Yên |
Giai Xuân |
100000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Thợ bạc Đăng Khoa |
Rạch Cam |
500000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Đoàn cô Hòa |
Tạp hóa hẻm 12 |
140000 |
15 / 8 Kỷ Sửu |
Người hão tâm |
300000 |
|
Cộng |
|||
230153000 |
|||
BÁO CÁO THU CHI TỪ TRÍ THẠCH ĐẾN HIỆN NAY |
|||
Ngày lễ |
thu |
Xuất |
|
Lễ Trí thạch |
65,410,000 |
||
sau Trí Thạch |
230,153,000 |
467,283,000 |
|
tổng thu |
tổng xuất |
còn nợ |
|
295,563,000 |
467,283,000 |
-171720000 |
|
THÁNH-NGÔN
(Trích TNHT, NOEL 1925 Đức Thượng Đế dạy)
Ðức Ngọc-Hoàng-Thượng-Ðế điểm tên
mười hai người môn đệ trước hết
***
Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế Viết Cao-Ðài
Tiên Ông Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Giáo Ðạo Nam Phương
Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.
Ðêm nay, 24 Décembre phải vui mầng vì là ngày của ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái-Tây (Europe).
Ta rất vui lòng mà thấy đệ-tử kính mến ta như vậy.
Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta (Nhà của M. C...). Giờ ngày gần đến, đợi lịnh nơi Ta.
Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành;
HẬU ÐỨC TẮC CƯ Thiên Ðịa cảnh.
HƯỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh.
(Mười hai chữ lớn trong ba câu trên là tên của mười hai người môn đệ trước hết là của Ðức Ngọc-Hoàng-Thượng-Ðế, còn ba chữ xiêng lớn trong câu chót là tên ba vị hầu đàn)
12 CHI PHÁI ĐẠO CAO ĐÀI
(Trích đàn Châu Minh,
10-1 năm Đại Đạo 32 Đinh Dậu, 9-2-1957, Đức Thượng Đế dạy)
Niên Đinh Dậu, ĐẠO ba hai lẻ,
THẦY thấy con còn rẽ chia nhau,
Như vầy THẦY rất lòng đau,
Bởi nên THẦY mới chuyển mau hội nầy.
Hội BÌNH LINH Thầy xây vận chuyển,
Cho các con hội diện sum vầy,
Để Thầy cạn lẽ phân bày,
Cho con lớn nhỏ đồng hay máy Trời.
Thầy nhắc lại thời kỳ khai đạo,
Buổi đầu tiên Thầy tạo Chiếu Minh,
Rồi lần sang đến Tây Ninh,
Mở Minh Chơn Đạo công trình biết bao!
Lập Tiên Thiên Thầy trao gánh nặng,
Ban Chỉnh Đạo cũng đặng vẹn toàn,
Tây Tông Vô Cực tịnh an,
Bạch Y Thầy mở liên đoàn Hậu Giang.
Trung Hòa Phái khó toan tiến bộ,
Tịch Cốc thi hành lố Thiên Cơ,
Mở Minh Chơn Lý kịp giờ,
Liên Hoa Tổng Hội thời cơ anh tài.
Rồi lần đến Cao Đài Hội Giáo,
Mười hai chi Thầy tạo đủ rồi,
Cao Đài Thống Nhứt ra đời,
Thầy giao con hiệp coi thời ra sao?
Trải bao năm phong trào sôi nổi,
Để tự con trao đổi ý nhau,
Thời gian im bặt qua mau,
Nay Thầy xem lại vẫn màu rẽ chia!
Sự rẽ chia tại lìa căn bản,
Thầy phân qua, chẳng hãn tường tri,
Thầy dạy con hiệp, con qui,
Hiệp là không nghịch, qui y chơn truyền.
Bề hình thức tư riêng mỗi phái,
Là ý Thầy muốn dạy các con,
Giao tay lãnh đạo hành tròn,
Dìu đường sanh chúng, phận con làm đầu.
Mười hai phái do đâu mà có?
Gốc Cao Đài tách ngõ phân ra,
Cũng như Thầy tạo cái nhà,
Có mười hai cửa vào ra tự lòng.
Nhưng làm Chủ Nhơn Ông có một,
Lại tỉ như giống tốt Thầy gieo,
Mười hai thứ giống tùy theo,
Con nào muốn cấy giống nào cũng xong.
Vỏ tuy khác mà trong vẫn gạo,
Nấu chín rồi vẫn bảo là cơm,
Dầu phân gạo nhỏ, gạo thơm,
Gạo nào thì cũng nuôi con no lòng.
Đạo cũng thế, Thầy mong con trẻ,
Dầu phái nào, chớ tẻ tách nhau,
Dầu cho khác sắc, khác màu,
Chơn truyền có một, không cao thấp gì.
Đâu cũng gọi TAM KỲ PHỔ ĐỘ,
Đâu cũng THẦY, danh ngã CAO ĐÀI,
Dầu cho đấy dở, đó hay,
Đỡ nưng mới phải, đừng bài bác nhau.
ĐẮC NHỨT
CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ, Tuất thời, Rằm tháng 3 Tân-Hợi (10-4-1971)
* * *
NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ Kim Viết CAO-ĐÀI Giáo Đạo Nam Phương, Thầy các con, Thầy mừng các con nam nữ.
Thi:
Con ôi! Thầy đến lúc đầu canh,
Thông thấu thần quang cõi trọn lành,
Gió núi sóng cồn chưa ổn định,
Sương mai nắng hạ vẫn xoay quanh.
Càn Khôn trẻ muốn chung cư thất,
Thiên Địa con toan động tác thành,
Ngưỡng cửa viên dung là chữ NHỨT,
Không tìm sao thấy ở hình danh.
Giờ nầy hôm nay Thầy giáng trần nơi đây để ban ơn chung cho các con phận sự.
Nầy các con! Trong thế tam tài, Trời mà được Một thì đàng Đạo yên ổn trong lành, soi sáng nuôi dưỡng muôn loài vạn vật không giây phút ngừng nghỉ, từ thỉ tới chung. Đất khi được Một thì vạn vật mới sinh tồn nhờ bởi sự ổn định luôn luôn, nếu không ổn định bình yên thì con người, thì vạn loại bị sự tiêu diệt bởi sụp đổ nghiêng chinh.
Còn nhơn tức con người được Một thì con người trở nên thông suốt sáng láng, hiểu được mọi sự mọi vật, từ gần tới xa, từ đã qua tới việc sẽ đến. Đối với người thì gây được tình thương, tạo được thế giới quân bình thạnh trị. Đại để là như vậy.
Các con ơi! Sự Đắc Nhứt đối với người tu theo ĐẠI-ĐẠO của Thầy là một then chốt quan trọng ở mục tiêu, vì mục tiêu là điểm rốt ráo. Nếu các con không nhìn nhận và nắm được lẽ Một ấy, cứ quanh quẩn bên ngoài, thì không bao giờ đến chỗ. Nếu không được Một, chẳng những các con cứ quanh quẩn bên ngoài vòng Đạo lý, mà phải chịu trong sự vô minh nê chấp riêng rẽ ở quan niệm cá nhân hay đoàn thể tông phái của mình.
Con hãy nhìn ra trường đời thì thấy thiên hạ ai ai cũng đề cao, cũng vụ ở cái mộng Đắc Nhứt. Nhờ sự Đắc Nhứt mà con người đã đạt tới một trình độ tiến bộ về khoa học, về đời sống vật chất khá cao, tức là đúng với người xưa nói: “Nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh” là vậy.
Đó là về phần hữu hình vật chất. Còn Thầy khai Đạo, muốn cho con Đắc Nhứt, chẳng những về phương diện hữu thể mà thôi, cả về phương diện siêu thể tinh thần là phần chính yếu vậy.
Các con! Trước khi các con gọi rằng được Một, thì các con đã được nhiều lắm rồi. Được nhiều đến nổi các con không làm sao chứa đựng hết, khiến cho lòng con luôn luôn bận rộn, khiến cho trí não các con luôn luôn căng đầy, khiến cho thân thể các con triền miên gian khổ. Rồi từ cái được nhiều như vậy, các con nếu biết phương pháp để đạt tới sự Đắc Nhứt là chìa khóa mở cửa Đạo, hiệp với Đạo, tức hiệp với Thầy vậy. Nhưng các con nên cẩn thận khi dùng chữ Đắc Nhứt, vì không có tiếng nào để chỉ cho một nguyên lý tuyệt đối tối thượng ấy mới tạm gọi như vậy. Tiếng tạm gọi nầy là tiếng mượn ở tương đối. Hễ tương đối thì các con dễ ngộ nhận nếu không cẩn mật khi học Đạo tu hành.
Đắc Nhứt không có nghĩa là con chỉ tôn thờ một Tôn Giáo, một lý tưởng cao đẹp nào đó. Đắc Nhứtkhông có nghĩa là các con chỉ dự một nhiệm vụ làm cho tới ngày cổi bỏ xác phàm. Đắc Nhứt cũng không phải các con chỉ có một lòng một dạ yêu Thầy mến Đạo, tỏ ra rất thuần thành.Nếu các con xét thấy mình chỉ được ngần ấy thì chưa đủ được Đạo hay Đắc Nhứt đó con. Vì nếu con cứ một lòng bảo vệ tôn chỉ, lý tưởng của mình cho tới cùng, không một trở lực nào ngăn cản, nếu bị kẻ khác xâm phạm danh dự hay quyền lợi thì tỏ thái độ đối kháng, ấy là chưa được Đắc Nhứt quá lắm vậy!
Thế thì các con cũng cứ lập trường một tôn chỉ, một con đường đã chọn đi. Các con cứ nhứt tâm vì Thầy vì Đạo đi, các con cứ một việc làm mà hằng tiến đi, và trên những con đường, những phương hướng ấy mà các con làm vì Đạo không vụ ở lợi cho mình. Hễ đi tới là quay về trước mặt, không ngó lại mà tiếc rẻ những vật chung quanh, tức là các con mạnh dạn cởi bỏ những phàm tánh vọng ý còn đeo đẳng lòng con, mặc dù phàm tánh vọng ý ấy chỉ được dùng cho sự luyện Đạo thành Tiên tác Phật. Vì những thứ ấy là những lượn ba đào trên mặt trùng dương biển cả. Nếu biển cả cứ nổi dậy những sóng to dồn dập thì nó sẽ ở vào trạng thái đa diện, không còn nhứt diện phẳng lì nữa.
Khi lòng con như lượn sóng luôn luôn khơi dậy, thì khi ấy chưa được sự Đắc Nhứt.
Các con rường cột cũng nên thể hiện rốt ráo điều đó để làm tấm gương chung. Khi mà các con xứng đáng một trong thế Tam Tài, thì các con với sự Đắc Nhứt, sẽ dùng quyền lực tạo được bởi tinh thần để phổ độ, để phụng sự nhân sinh, cũng như Trời Đất đang hành vận trong lẽ thuần nhứt đó vậy.
Và còn một điểm để phụ vào cái Đắc Nhứt của con người rằng cổ nhân của các con có câu: “Thần đắc nhứt dĩ linh”. Thường thường các con hiểu Thần là một vị cai quản một địa phận ở cõi vô hình nào đó, chẳng hạn Thần núi, Thần sông, Thần làng. Nhưng nếu hiểu như vậy cũng không có chi đáng nói.
Thầy muốn cho các con hiểu Thần đây là Chơn-Thần, là Nguơn-Thần trường cửu hằng tại tự bản tự căn ở mỗi các con. Khi con chi phối tinh thần trăm mưu ngàn kế ở đầu óc các con, hay con nghĩ vẩn vơ những nhơn tình thế sự, thì cái Thần, cái Chơn Thần của các con không còn linh diệu nữa, tất nó phải bị ly tan tản mác, hay hơn nữa, nó bị chìm sâu dưới bức màn vô minh dày cợm!
Như vậy, khi các con đề cập đến sự đạt Đạo, thành Đạo, thì các con nên nhớ mà gìn giữ Nguơn-Thần cho linh diệu, cho tinh anh, để được minh mẫn mà trở về Đạo gốc.
Thi
Một là tất cả đó con ôi!
Tất cả biết gom một lẽ Trời,
Mới ứng dụng vào trong thế sự,
Không là những chuyện nói đùa chơi.
Thôi! Thầy chỉ mong các con lớn nhỏ nghe lời Thầy, chỉ ngần ấy để Thầy vui mừng mà đến với các con luôn luôn trong tâm Đạo, trong lẽ Thiên nhơn tương hiệp...
Việt Nam tài nguyên thiên phú
Ngọc Ánh Hộ
Ánh sáng tương lai thắm đượm ngàn,
Hướng về đất nước dựng nên trang.
Việt Nam thiên phú, nhiều kho báu,
Tổ Quốc hùng cường, rực điện quang.
Hội đủ nhân tài tô gấm vốc,
Đồng chung sự nghiệp điểm giang san.
Vui Đời đẹp Đạo hồn dân tộc,
Truyền thống đấu tranh đậm sử vàng.
Nguồn xuân hạnh phúc
Ngọc Ánh Hộ
Xuân ngời mai nở rực kỳ công,
Xuân tỏa hương thơm những tấm lòng.
Xuân ở tâm hồn luôn sáng đẹp,
Xuân trong ý chí mãi tươi hồng.
Xuân về, mang lại tình nguyên Lý,
Xuân đến, truyền đi nghĩa Đại Đồng.
Xuân vẫn sang trang từng yếu nhiệm,
Xuân nguồn hạnh phúc khắp non sông.
CẢM NHẬN
Thiện-Ngộ
Đời đạo vẫn chung ở cõi trần
Bao đời quyến thuộc những sơ thân
Cũng duyên ,cũng nợ, đời điên đảo
Cũng học, cũng tu ,đạo giải lần
Hiện kiếp cưu mang vô lượng kiếp
Hóa thân ứng hiện biết bao thân !
Chẳng mong tịnh-độ nơi nào khác
Phật ở thân này , ấy pháp thân.
Pháp-thân động dụng ý tình sanh
Mê giác chia hai lý đã đành
Kẻ lại sông mê vì muốn giác
Người cầu về giác vọng sao thành !
Đường đời không tránh duyên dầu gặp
Nẻo đạo chẳng mong quả sớm thành
Thanh tịnh pháp thân ,thường ,ngã ,lạc.
Vô cầu , vô dục , ý vô sanh.
Bổn-tánh khởi chi chút bụi mờ?
Mang thân tứ-đại giữa bơ-vơ !
Luân hồi sáu nẻo nơi duyên nghiệp
Nhân quả theo nhau mãi đến giờ !
Đến giờ tỏ ngộ được chơn-tâm
Muôn kiếp trôi lăn chỗ tối-tăm
Chìm đắm kiếp người nơi bể khổ
Quay về tu học vẫn mê-lầm
Mê-lầm sắc sắc với không không
Năm uẫn xét ra cũng lý đồng
Trí đã tỏ tường đâu có trí
Dầu thêm hay bớt cũng như không !
Vọng cổ ĐẠI ĐẠO HOẰNG KHAI
ST : Ngọc Ánh Hộ
Lý Con sáo
Ngôi Chí Tôn là đấng Cha Trời tối cao, của muôn vạn sanh linh. đã chọn nơi Thánh địa Lạc Hồng, là đất nước Tiên Rồng. Khai mở Đạo Trời kỳ ba xá ân, Tân pháp truyền ban sáng soi ngàn phương. Đại Đạo Tam Kỳ hoằng khai phổ chúng, Tam Giáo Qui Nguyên ứng nơi tình thương.
Vọng cổ câu 1
Cao thượng nguyên chân sáng ngần dân chủ mục, Đài tiền thành kính bằng tất cả ý thức của toàn dân chung cộng hưởng tự do…quyền.
Đại Đạo sáng danh hai chữ Cao Đài.
Dân chủ mục hay thần quang chủ tể, tự do quyền hay đại đồng chung. Đạo Thầy truyền kết họp tinh hoa, bằng nguyên lý qui Tam hiệp Ngũ. Con số Ngũ cũng là âm dương tam bửu, tam bửu của Người của Trời của Đất.
Câu 2
Buổi đầu tiên Thầy tạo Chiếu Minh, để đồng thông cơ pháp với Thiên đình.
Rồi lần đến Tây Ninh để lo cơ phổ độ hữu hình
Minh Chơn Đạo, Tiên Thiên, Ban Chỉnh, chuyển Tây Tông rồi định Bạch Y. Chuyển Liên Hòa Phái kịp kỳ, Tịch Cốc thì ẩn Minh Chơn Lý thì lại khai. Liên Hòa Tổng Hội trình bày, Cao Đài Hội Giáo đủ rày mười hai Chi.
Nói lối
Mười hai Phái do đâu mà có,
Gốc Cao Đài tách ngõ mà ra.
Mỗi Phái Chi đều thơ thới trổ thêm hoa,
Nền Đại Đạo hoằng khai vạn đại.
Câu 5
Nhìn chiết áo dài trắng xinh xắn tươi nguyên truyền thống Việt, dù đến nơi đâu vẫn nhớ về nguồn cội nước non…nhà.
Màu trắng cũng tượng trưng sự trong sạch hiền hòa.
Tất cả đều con chung của Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, nên gọi nhau bằng tỷ muội đệ huynh. Thầy còn hạ mình xưng bậc Tiên Ông, dạy con trẻ lớn làm anh chị nhỏ là em út. Chỉ cách xưng hô và màu đạo phục, cũng thắm thiết câu cốt nhục thâm tình.
Câu 6
Chỉ có đấng tạo hóa tối cao, là đức Chí Tôn cha chung của muôn loại. mới kết họp đồng đều giữa sắc màu Giáo Phái, gôm tinh hoa mà ban rãi cho chung. Thầy là đấng tối thượng quyền năng, cũng như mỗi các con đều có quyền năng tối thượng. lời tâm pháp cao siêu Thầy dạy, Thầy là các con các con lại là Thầy.
Con đường Đại Đạo hoằng khai,
Đại đồng tuyệt khổ do thầy điểm công.
Lời Thầy con giữ nơi trong,
Cao Đài ứng hóa theo lòng của chúngng sanh.