HỘI KIẾN PHÁP MÔN VÔ VI 1 (Nhiên Hòa NL)

 

 

 

HỘI KIẾN PHÁP MÔN VÔ VI

 

( NHIÊN HÒA NHƯ LAI )

 

-----------------

 

Cơ Thiên đang vận chuyển căn cơ thọ hành sứ mạng Đại hồng ân kỳ ba đại xá, đó là thuyền duyên chuyến chót đưa rước nhân sanh. Trong cơ truyền nầy nó bao trùm tổng họp nhiều pháp đạo chung kết lại thành một pháp đạo tổng qui do Đức Từ Tôn Kim Mẫu ban truyền để qui nguyên, để hiệp nhứt các hàng căn cơ duyên lành sứ mạng, bởi vì mỗi thuyền đạo, thuyền pháp là một phương pháp dẫn độ chúng sanh tu hành theo hạnh giải thoát, đắc đạo cao siêu mầu nhiệm. nhưng đa số chạy theo hình thức cơ phước. Cơ phước là chỉ để tạo cho mình có được những gì tốt đẹp, tiến bộ, tiến hóa hơn cái kiếp hiện tại, nhưng tu phước vẫn còn luân hồi, vẫn còn chuyển kiếp; kiếp nầy qua kiếp khác lăn lộn chốn bể mê rừng thảm, đau khổ triền miên không có đường thoát chạy, vì nghiệp, vì duyên trong cuộc  đời nầy, cái nghiệp thì tạo rất nhiều nhưng mà cái công đức bù lại thì quá ít, cho nên càng chìm sâu nhiều kiếp nhiều đời thì càng nặng hơn, sâu hơn. Chính vì thế trăm muôn ngàn kiếp khó trở về ngôi xưa vị cũ,  lẫn quẩn, loanh quanh trong cái nghiệp lực con người, nghiệp nhân vay trả, đau khổ triền miên.

 

Ôi! biết bao nhiêu căn cơ sứ mạng duyên lành quả giác, nhưng khi xuống trần gian nầy phải trãi qua cái vòng vô minh thì quên hết mọi điều, vì khi qua cái cửa vô minh thì quên hết tiền căn duyên bổn, cái ngày sanh của mình còn không nhớ làm sao nhớ được tiền căn duyên bổn của mình. Ngôi xưa vị cũ ở đâu? đến đây để làm gì? bao giờ trở về? và trở về đâu? Những câu hỏi đó thường tình ai cũng có cái nghi vấn trong lòng nhưng rồi nó lại trở thành bình thường, trở thành không có nặng lòng lo ngại, vì câu hỏi đó không đáp, không giải, không phân định được điều gì, cho nên con người đầu hàng cho số phận, con người chấp nhận những gì nó sẽ đến, nó đau khổ, nó luân hồi như thế nào thì mặc tình. Con người chạy theo chuyện lo ăn, lo mặc, lo ở rồi cũng không giải quyết được gì ngoài ba điều đó ăn mặc ở. Hết lo chuyện ăn đến chuyện mặc đến chuyện ở. Bản thân mình lo không xong kế tiếp tạo ra cái nghiệp nặng hơn là nghiệp con, nghiệp cháu, nghiệp chắc, nghiệp chích, nghiệp vợ, nghiệp chồng.

 

Ôi! Cái nghiệp lực của con người nó như thế biết đến bao giờ mới dứt đặng. Thương thay! Thảm thay! Cho cuộc đời lẩn quẩn loanh quanh trong vòng nghiệp lực.

 

Tại sao con người ai cũng chứng kiến cái cảnh chết chốc, tai nạn, khổ đau. Hằng ngày có thể chứng kiến biết bao nhiêu những thảm cảnh nầy rồi xem thường cái chết, coi cái việc chết là việc bình thường, mặc dầu chết vẫn biết rằng là vĩnh viễn ra đi, thiên thu vĩnh biệt nhưng lại xem thường, bởi gì không có một bày giải nào khác hơn để cho mình cởi mở được cái tâm sự nầy. Những cái tâm sự của cuộc đời khó giải nhứt là tâm sự giải bày về cái chết mà mình đang nằm trong cái số phận đó.

 

Mỗi một mùa xuân qua là thâu ngắn lại cái bản án tử hình của con người, con người vẫn biết rằng mình đang nằm trong cái định luật phải chết trong thời gian trăm tuổi trở lại, nhưng mà chỉ biết trong thời gian đó chớ không biết nó lâu mau, hôm nay hay là ngày mai, hay là vài chục năm hay đến cuối cuộc đời. Có người mới ra đời rồi chết, có người giữa cuộc đời rồi chết, Cái vòng tròn trăm tuổi của buổi hạ nguơn mạc kiếp nầy như vậy.

 

Biết đặng cái thời gian định luật của mình mặc dầu chưa biết được năm tháng ngày giờ, đó cũng là điều để tự mình giác ngộ hiểu được mình. Còn đòi hỏi gì hơn nữa, tại sao xem nó là thường, xem nó là không lối giải. Muốn biết lối giải thì phải nhìn, phải nghiên cứu vòng sanh tử của mỗi con người có ai thoát được cái chết hay không? và từ ngàn xưa cho đến hôm nay có ai mà ngoài định luật cái chết nầy? Định luật thời gian quá ngắn hạn dầu 100 tuổi có thêm 1 vài tuổi nữa thì có gì là vinh hạnh đâu khi đó là cái tuổi thừa, cái tuổi mà không biết gì hết, không còn gì là tốt đẹp, không còn gì là vinh dự của của cuộc trần trong cái nghiệp lực nó bao quanh, nó làm cho con người không đường trốn chạy.

 

Tìm đạo không phải là chạy theo cái hình thức hữu vi nầy để rồi tạo thêm những công việc cho kiếp sau nó xung túc hơn, nó trí huệ hơn, nhưng còn luân hồi, còn vay trả thì làm sao đây?...

 

Ai là người giải được cái nghiệp luân hồi, giải được cái vòng tròn tiền khiên oan trái đau khổ ê chề, tất cả mọi thứ trên trần gian nầy có gì là thật, có gì là bền bỉ trường tồn đâu?

 

Cái thể mà con người đang tạm mượn rồi một ngày nào đó phải trả, trả lại cho những gì mà mình đã vay mượn, đất trả về đất là thể xác nầy, nước trả về nước là máu huyết nầy, gió trả về gió là hơi thở nầy và sức nóng trong tim trả về lửa, đất nước gió lửa trả về cho đất nước gió lửa, linh hồn bơ vơ vì không có nơi nương tựa, khi cái thể xác tạm giả nầy đã trả hết rồi. Như vậy, nếu linh hồn bơ vơ không nơi nương tựa thì về đâu, nên chỉ còn cách là kiếm chỗ để đầu thai, chuyển kiếp mà thôi.

 

Muốn không còn đầu thai chuyển kiếp thì con người khi thoát xác, phải có một Kim thân Thánh thể đó là thể xác thứ hai, thể xác vô vi. Linh hồn là vô vi mà trú ngụ trong một thể xác vô vi thì mới thật sự là thể xác của linh hồn, mới thật sự sống trong cảnh mầu diệu vô vi khác, chớ không phải linh hồn vô vi mà ở trong một cái xác phàm nầy rồi xác phàm về ở nơi cõi vô vi  mầu nhiệm khác được đâu.

 

 Muốn tạo Kim thân Thánh thể nhứt định con người phải tu theo cái hướng là chuyển pháp. Chuyển pháp là luyện Tinh Khí Thần để dụng cái Tam Bửu, Ngũ Hành xoay chuyển theo phương pháp chỉ dạy trong pháp đạo.

 

Người thọ pháp là người đã được ghi vào danh sách bảo trợ vô vi của vị Giáo chủ pháp đạo mà mình đang thọ học, nếu có chuyện gì sảy ra hoặc thời gian tuổi đời của mình đã mãn nhưng công quả chưa dầy, pháp đạo chưa đủ bởi gì mình giác ngộ quá muộn màng, nhưng khi có nằm trong danh sách bảo trợ vô vi của các vị Giáo chủ thì mình sẽ được sự hồng ân độ dẫn của vị Giáo chủ đó.

 

Người có được pháp đạo là được sự bảo trợ vô vi của vị Giáo chủ mà mình đang thọ học, mà đặc biệt mình muốn được sự bảo trợ vô vi một cách hết sức là cao cả trong kỳ ba đại ân xá nầy, đó là sự bảo trợ vô vi của Đức Từ Tôn Kim Mẫu và 4 vị Giáo chủ trong pháp đạo, đó là Di Đà, Thích Ca, Ngôi Hai, Nhị Thiên và đức Từ Tôn Kim Mẫu. Đức Từ Tôn Kim Mẫu là chưởng chấp cơ pháp tổng qui, trong đó có 4 vị Giáo chủ vâng lịnh đức từ Tôn Kim Mẫu bảo trợ cho mình trên đường tu pháp đạo đó mới gọi là tổng qui pháp.

 

Còn gì hơn khi tinh thần thọ học pháp đạo được sự bảo trợ của 4 vị Giáo chủ lớn nhất của 4 pháp đạo và đấngTừ Tôn Kim Mẫu đại diện cho khối Vô cực, đại diện cho Cơ qui nhứt để mà tiếp độ.

 

Hôm nay là một hồng ân vô cùng to lớn, một tinh thần vận chuyển vô cùng sâu rộng, tinh nhiệm quyền năng, cho nên đức Từ Tôn Kim Mẫu thúc gọi và kêu gọi những hàng giác duyên đại căn trong sứ mạng pháp đạo, thúc gọi mỗi người, mỗi căn cơ duyên lành sứ mạng phải cố gắng nhiều hơn nữa trên tinh thần pháp đạo. Tuy nhiên, dầu đức Từ Tôn Kim Mẫu quyền năng tối thượng, dầu đấng Chí Tôn quyền năng vô vi tối thượng cũng chỉ thúc gọi, nhắc nhở, động viên, chỉ dẫn chớ không bao giờ ép buộc người nào cả, vì mỗi con người đều có cái quyền năng tối thượng ngang hàng với Thượng Đế, ngang hàng với đức Từ Tôn Kim Mẫu. Cái quyền năng của mỗi con người được quyền quyết định cho mình sự tiến hóa hay thối hóa, quyết định cho mình siêu hay đọa, quyết định cho mình trên bước đường vận hành như thế nào. Như vậy mới là nguyên lý, mới là quyền năng.

 

Tại sao con người có quyền năng tối thượng như thế? Vì con người là chiết thể của đấng Tạo hóa tối cao, Đấng Tạo hóa tối cao là Đại linh quang, con người được chiết ra gọi là Tiểu linh quang, Đại linh quang và Tiểu linh quang giống nhau và khác nhau như thế nào? Khác nhau là cái khối linh quang nhỏ và  khối linh quang lớn, nhưng mà giống nhau là giống ở điển linh quang. Linh hồn của Thượng Đế là Đại linh quang, linh hồn của con người là Tiểu linh quang.

 

Hồn tượng trưng cho Thần, Thần thí dụ như một khối lửa, thì khối lửa nầy với khối lửa khác không hề khác nhau, linh hồn nầy và linh hồn khác không hề khác nhau. Nhưng không phải là khối lửa vô tri mà là khối lửa có chất sống, khối lửa hữu tri, đó mới là  khối Đại Linh quang của Tạo hóa chiết ra khối lửa Tiểu linh quang con người. Vì vậy ai cũng cần phải tạo cho mình một tinh thần pháp đạo để trở về với Đại linh quang Thượng Đế Chí Tôn, soi sáng những bước đường mà mình đang lập trình tiến hóa đạo pháp vô cùng tinh anh.

 

Ai cũng cần có một lập trường vững mạnh về mình làm thế nào noi gương những hàng Tiền bối, những hàng đại duyên đi trước nhứt là trong cơ pháp tổng qui.

 

Hôm nay có các hàng lãnh đạo pháp đạo tổng qui về dự ngày Hội Kiến Pháp Môn Vô Vi, có Thông Hòa Như Lai là Bổn Tiên đang giảng truyền mà các chư hiền đang lắng nghe, có sự chứng dự đặc biệt là Đức Từ Tôn Kim Mẫu và vâng lịnh Đức Kim Mẫu để về cùng dự có Thiên Đức Bồ Tát, Nhiên Hòa Như Lai, Nhiên Đức Bồ Tát, Nhiên Cao Bồ Tát, Nhiên Pháp như Lai, Thiên Bảo Như Lai, Trầm Ẩn Kim Tiên, Liên Quang Tiên Nữ, Thanh Liên Tiên Nữ, Nhiên Huỳnh Như Lai, Hoa Lan Tiên Nữ.

 

Bao giờ đường hướng vận chuyển hôm nay để đưa rước nhân sanh lập thành quả vị, có gì để chứng minh cái quả vị của mình. Không có gì hơn cái tên tuổi của mình để chứng minh quả vị của mình, kể cả những người Tiền  bối, Tiền hiền đã liểu đạo, đắc đạo, có vị khi sanh tiền đã có Thánh danh, có vị khi sanh tiền chưa có Thánh danh, đó là do cái  duyên cơ chậm trễ không có kịp trong một cái duyên để dự vào những kỳ phong, nhưng mà dù cho cái tên thường do cha mẹ trần gian  đặt cho mình mà người đời thường gọi là cái tên cúng cơm, cái tên đó nó cũng tương đồng với cái ngôi vị của mình. Gần hơn nữa là tên Thánh trong đạo, có người rất nhiều tên Thánh do làm nhiều nhiệm vụ ở nhiều nơi thì được nhiều tên Thánh ân phong, dù nhiều tên Thánh được ân phong nhưng mà sự tương ứng tương đồng của Thánh danh đó nó cũng gần với cái tên chốn ngôi xưa vị cũ của mình.

 

Quan trọng là cái tên Thánh đầu tiên được ân phong cũng như những hàng đắc vị cũng vậy, liểu đạo rồi đắc vị, đắc vị Kim Tiên hay Như Lai hay là Bồ Tát nhưng cái đắc vị đầu tiên đưa vào lịch sử để lưu truyền trong Thượng Ngươn Thánh Đức, sau đó được tăng tiến thêm trong thời gian dài từ Bồ Tát lên Như Lai hay là từ  Kim Tiên lên Đẳng Giác thì được nằm trong danh sách riêng của vô vi hiểu biết mà thôi chớ không phải lưu vào Lâm sử ngọc những cái thêm phần tăng tiến sau nầy. Quan trọng là người có Thánh danh đầu tiên và các vong linh được đắc vị đầu tiên, đều có lưu truyền trong Lâm sử ngọc. Thí dụ như Đức Quan Thánh Đế Quân mặc dù sau nầy sự tăng tiến Ngài là Già Lam Phật, nhưng mà trong Lâm sử ngọc vẫn ghi phẩm vị đắc vị đầu tiên của Ngài là Quan Thánh Đế Quân, đắc vị đầu tiên của Ngài mới vào hàng Đế Quân thôi, nhưng Ngài là Già Lam Phật, thì những vị Tiền bối, Tiền hiền liểu đạo được đắc vị là Thần sau nầy lên Tiên thì trong Lâm sử ngọc vẫn ghi Thần, còn ghi Tiên là ghi thêm nhưng trong Lâm sử ngọc là Phong thần bảng vẫn ghi phần đắc vị đầu tiên.

 

Phong thần bảng là gì, chữ Thần đây không phải là Thần Tiên Thánh Phật, mà Thần nầy là Thần cơ diệu bút, Thần nầy là Thần thông biến hóa. Trong Nho học chữ Thần cơ khác hơn chữ Thần Tiên.

 

Ngày xưa cái thời Châu Vương nối tiếp thời Trụ Vương có Đại phong thần hay Phong thần thì hôm nay điều đó mới phân định rõ, vì cái thời đó là thời các hàng từ trên Thiên đình vâng linh các vị Giáo chủ lãnh đạo của mình xuống trần tiếp lo trong cơ Phong thần, khi làm nên sự việc hoàn thành trách nhiệm cho vào bảng Phong thần, đó là thời Phong thần, Thời phong thần đó là thời mà sự tiến hóa của trần gian nầy ở mức độ chưa đi vào tột đỉnh, còn hôm nay là thời cuối cùng của nguyên tử để chuyển sang thế vận chuyển lớn mạnh của nguyên sinh, gọi là thời kỳ Đại phong thần, không phải con người biến hóa cá nhân mình, mà cùng tập trung một tập thể lớn để tiến hóa, để vận hành, tất cả đều tiến về cái khoa học, tin học văn minh vô cùng lớn rộng, tất cả đều huyền biến trong một điển lực của Cơ Thiên, để tạo nên một sự phát triển của thời đại gọi là thời kỳ Đại phong thần, thì như vậy cái thời kỳ Đại phong thần các hàng căn cơ duyên lành sứ mạng hoàn thành trách nhiệm được ghi vào thì gọi là ghi vào Phong thần bảng, nó khác khác hơn thời xưa ghi vào Bảng phong thần.. Nơi đây là một nơi lập gương mẫu về cái Phong thần bảng, sau nầy sẽ được lưu truyền lại Lâm sử ngọc cho những người được đắc vị và đưa vào Phong thần bảng để các nơi triêm nghiệm và tín ngưỡng, kèm theo Phong thần bảng đó là những Thánh giáo của các vong linh đầu tiên được về đàn, và cái đàn thứ hai là đàn vong linh được đắc vị đầu tiên để lưu truyền vào Lâm Sử Ngọc. Đây không phải trong một cái cơ chuyển nhỏ nào nghiên cứu mà toàn quốc đều tìm với Lâm sử ngọc, tìm với Phong thần bảng vì danh sách Phong thần bảng đắc phong được ghi vào không riêng ở nơi đây mà những người đắc vị dù ở nơi khác, ở Hội Thánh khác, ở Tôn giáo khác nhưng được về đàn do cơ bút từ nơi đây tiếp được thì nơi đó đã có được lưu lại và vong linh đắc vị đó được lưu vào Phong thần bảng, bởi vì đó là trách nhiệm của nơi đây. Đặc biệt khi thành lập Phong thần bảng để định đoạt được những công việc tương tựa với ngôi vị của mình thì đòi hỏi nghiên cứu tìm học tấm gương của những người đắc vị, cho nên nhiệm vụ của những người làm sứ mạng trong nguyên lý đại đồng nghiên cứu lập ra cho đầy đủ từng tiểu sử của những người đã được ghi vào Phong thần bảng.

 

Hiện nay trong Phong thần bảng cũng rất nhiều những người được ghi vào, nhứt là những người đầu tiên trong sự vận chuyển nguyên lý đại đồng, vận chuyển tổng qui pháp, tiếp theo là những hàng Tiền bối, Tiền hiền đang lãnh đạo một cơ sở nguyên lý nơi đây, để sau này xem việc đưa vào Lâm sử ngọc lấy đó làm mẫu mực, rồi từ đó có bổ sung tiếp theo những vong linh đắc vị do từ các nguồn điển lực huyền quang trong cơ nguyên lý vận chuyển tiếp được thì cũng được bổ sung đưa vào, nhưng bảng mẫu vẫn thành lập kể từ ngày hôm nay trở về trước, còn từ ngày hôm nay Hội Kiến Pháp Môn trở về sau là những phần đắc vị bổ sung vào bảng mẫu đã được thành lập rồi.

 

Có những phẩm vị được phong, được thưởng hay những sự việc trừng phạt, quở răn, nó thể hiện cho một qui luật bình đẳng cho cơ nguyên lý đại đồng, có công thì thưởng, có tội thì phạt quở, đó là cái qui luật chung thôi.

 

Cho nên tất cả những ai là người nằm trong cơ vận chuyển nguyên lý thì phải cố gắng tạo cho mình những điều giải nghiệp, giải duyên để không còn lẫn quẩn trong cái sự vay trả, quở răn.

 

Có những cơ nghiệp trên đời rất lớn lao, rất trọng đại nhưng nó vô cùng mỏng manh, hôm nay như thế nầy, ngày mai đã tan mất; Có những con người hôm nay vô cùng khỏe mạnh, hôm sau trở thành tai biến, bại liệt; có những người hôm nay vô cùng tráng kiện, vô cùng xung túc tinh thần, mọi hình thức đều phát triển tốt đẹp, hôm sau đi vào cõi chết mà không có một lời trối  chăn, không một tư thế chuẩn bị, để rồi tất cả đều xem nó là xong rồi một con người không có gì để lo âu, đó là sự vô tình khi con người đã quen rồi sự sống chết mà mình không cải lại được. Tại sao không cải lại được sự sống chết, bởi vì cái lòng tự giác hướng đạo chưa đạt đến điểm tinh thuần, nhưng tất cả đều có cách hóa giải để tạo cho  mình được những điều mong muốn vậy. 

 

Dù cho nghiệp lực đã trãi qua nhiều kiếp nhiều đời thì muốn trả phải trãi qua nhiều kiếp nhiều đời mới trả dứt, nhưng hôm nay là thời kỳ đại ân xá, tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời, chỉ cần có lòng giác ngộ là đáp lại những qui luật ân xá của Cơ Thiên rồi, sẽ được đắc đạo, sẽ được giải thoát khi hướng tâm tầm đạo, tầm pháp để thọ hành.

 

Có người sinh từ nhỏ đến khi tới tuổi trung niên rồi mới giác ngộ, có người tới tuổi về hưu thì mới giác ngộ được đạo pháp, tất cả đều có nguyên do từ tiền kiếp, nhưng mà điều đó còn đòi hỏi bị trễ chầy hay không, còn lai kiếp luân hồi hay không là đòi hỏi mình phải tranh thủ thời gian giác ngộ tầm đạo, tầm pháp ngay trong lúc nầy.

 

Người lớn tuổi thời thọ học pháp đạo Tịnh tâm, người nhỏ tuổi thì thọ Thuần dương, Đại tịnh để độ được nhiều người khác. Cái quan trọng là tạo được nhiều người khác trở thành những giáo sư để truyền pháp thì con thuyền độ rước nhân sanh mới kịp thời vận chuyển sắp tới đây.

 

Điều quan trọng mà Bổn Tiên muốn nói là cũng có nơi có đủ điều kiện độc lập, không lệ thuộc vào một Hội Thánh nào, kể cả những cái qui luật nào khác, vậy mà không tạo độc lập cho mình một cái phương pháp để hướng dẫn pháp đạo tổng qui theo những đường hướng mà  Bổn Tiên đã truyền để lại.

 

Có những đội ngũ hùng mạnh là một đội ngũ trẻ cũng khá nhiều người thọ Thuần dương bí chỉ, nhưng mà cái lòng hy sinh chưa thật sự hết mình, còn luyến tiết cái cuộc đời ân ái và những danh lợi bạc tiền. Tại sao mình có được hạnh phúc trong gia đình, tại sao có được cái danh lợi bạc tiền mà mình làm được, đó là những phước đức mình đang thọ hưởng của các bậc ông bà để lại cái đức lớn cho mình, nhưng chưa đủ, bởi vì chưa đáp lại cái điều mong muốn của bề trên Tiền bối của mình. Có người thậm chí cầu hồng ân cho mượn cái phương tiện, đó là cái phương tiện cuộc sống. Nhưng kỷ thuật cuộc sống không phải là cái kỷ thuật buộc mình phải sát sanh hại vật, một ngày sát 1 sinh mạng, hay 10 sinh mạng, 100 sinh mạng, dù rằng con vật đó quá nhỏ nhưng cũng là cái mạng sống cho mình mượn để mình có cái cơ sở, phương tiện, nhưng một ngày nào đó không đáp lại lòng mơ ước của Tiền bối đã hướng dẫn mình, lập phương tiện cho mình thì điều đó có xứng đáng hay không, điều đó có bê trễ hay không?...

 

 Phương tiện để sống của người tu hành là làm thế nào vừa đủ: đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và đi hành đạo đó đây theo cái thuận lợi chớ không phải tạo ra những công việc toàn là cái nghiệp lực để níu trì mà mình không tháo gở được. Một ngày nào đó mình còn bù lại biết bao nhiêu cái công việc mà mình đã mượn nó, nếu mượn thì phải trả, mượn nghiệp sát sanh thì phải trả nghiệp sát sanh, mượn nghiệp lực vợ chồng con cái thì phải trả cái nghiệp lực vợ chồng con cái. Cái chuyện con lo chưa xong thì chuẩn bị cho cái nghiệp trả tới hàng cháu chích thì làm sao mình giải thoát được.

 

Tại sao mình không thể hy sinh cái hạnh phúc của mình để đổi lại  biết bao cái hạnh phúc an nhiên tự toại, giải thoát cái mình đây, đó mới là điều mà Ơn Trên đang cần, đang mong mõi, đang kêu gọi.

 

Tinh thần quyết định là một điều quan trọng nhứt của mình. Nhờ nó làm gươm lòng sắt bén để tự mình giải quyết được những công việc chặt phá những gì còn vướng mắc.

 

Làm việc gì mà không có tinh thần quyết định thì còn bê trễ, còn kéo dài, mất biết bao thời gian, cơ hội. Cơ hội là điều  quan trọng của người tu hành không nên bỏ lở cơ hội một nhân duyên nào cả.

 

Vậy mà 1 năm, 2 năm , 4 năm, 6 năm trãi qua, những  hàng lực lượng tuổi trẻ của Phước Tạnh Tự Tân Chiếu Minh bỏ lở rất nhiều cơ hội, đã làm cho những sự kêu gọi nhắc nhở là một cực kỳ khó khăn, vì phẩm Như Lai không thể nhắc nhở cá nhân gia đình, nhắc nhở cá nhân từng thành viên trong phái đạo mình, mà nhiệm vụ của Bổn Tiên là nhắc nhở toàn thể các cơ đạo, nhắc nhở chung cho mỗi nhân sanh. Còn trong gia đình, người thân hay là bổn đạo riêng của mình thì nó cũng bằng nhau với tất cả mọi người, mọi chúng sanh mà thôi.

 

Hãy tin tưởng vào cái quyền lực của mình đi, hãy làm hết tất cả những quyền năng, quyền lực của mình đang có thì không mất uổng cơ hội ngàn vàng mà  mình đang thọ hưởng. Mỗi người đều có cái quyền năng, quyền lực tại mình phung phí không chịu đem ra để sử dụng, đã bỏ phí biết bao công việc của mình. Tinh thần pháp đạo là một tinh thần vô cùng đặc biệt đối với bộ phận của cơ vận chuyển Tân Chiếu Minh Phước Thạnh Tự, quyết định phải hoàn thành trong năm 2016 không kéo dài thêm nữa, hãy tạo cho được những công việc nầy, nếu bê trễ thì sẽ bị trừng phạt theo những qui định của Bổn Tiên. Hãy xem đây là một bài học mẫu mực cho mỗi bước hành trình. Con người ai cũng cần có đều hòa âm dương thì mới khỏe mạnh, mà cơ đạo của mình cơ Thế thì vận chuyển rất mạnh nhưng cơ Pháp thì rất yếu, chưa đủ điều kiện để mà phổ biến rộng rãi về pháp đạo cho tòan thể bổn đạo của mình.

 

Nơi đây đòi hỏi tất cả bổn đạo cũng như những nơi khác đều có thọ hành  phương pháp Tịnh tâm tâm tối thượng vô vi. Người truyền pháp là người giáo sư đã trãi qua đại tịnh, người trãi qua đại tịnh rồi thì phải gìn giữ pháp đạo của mình cho thật kỷ càng không được bê tha, như vậy mới xứng đáng là người giáo sư gương mẫu.

 

Có người đã trãi qua đai tịnh nhưng mà đã làm mờ đi pháp đạo không chui rèn, không tinh tấn, thì như vậy đã làm cho cái sự vực dậy của vô vi, nên vô vi hối thúc mình bằng cách nầy, có khí hối thúc mình bằng các khác để cho mình tỉnh ngộ để tìm lại cái chánh vị của mình, cái chánh vị của mình là tu giải thóat để trở về ngôi xưa vị cũ.

 

Bổn Tiên vui mừng hôm nay đã hoàn thành một khóa học, một khóa tịnh cấp tóc có 5 vị Sĩ Nguyên làm xung túc được cơ pháp trong năm mới, đây cũng là hồng ân rất lớn trong cơ pháp nơi đây và cũng là một sự động viên cho nhiều nơi khác. Tấm gương nầy tất cả những hàng giáo sư pháp đạo phải cố gắng nhiều hơn nữa. Kể từ hôm nay tất cả động viên với nhau, mỗi giáo sư phải cố gắng tìm thâu nhiều người Thuần dương, nhiều người Tịnh tâm, mỗi người đã thọ Thuần dương thì phải cố gắng nếu kéo, tìm thâu nhiều người Tịnh tâm, vì Tịnh tâm là động tác rất bổn tâm, rất hòa nhập tùy duyên nhứt trong cơ vận chuyển đại ân xá nầy.

 

Có những người đồng tử đã trãi qua nhiều tâm quyết hiến dâng thời gian cho đạo, cho Thầy. Hôm nay trong kỳ vận chuyển rộng lớn của cơ sở đạo nầy cũng là cơ nguyên lý rộng lớn, cần phải khôi phục lại pháp đạo mà ngày xưa mình tiếp thọ được điển lành, và khôi phục lại những công việc trình tự Tam thừa để từng bước Hạ, Trung và Thượng  thừa và tiến cao 7 nữa.

 

Nơi đây là một tấm gương để chuyển gương mẫu trong cơ chuyển Tam thừa, Tam thừa tùy duyên trong một cái phương pháp Tịnh tâm tối thượng. Nếu ai chưa thọ pháp thì tiến vào thọ Tịnh tâm, dù trẻ hay già, dù đạo hay đời, dù Tôn giáo nào, dù đang thọ pháp nào hãy tiến thêm bước Tịnh tâm để được sự trợ duyên của Đức Diêu Trì  Kim Mẫu, sự trợ duyên của các vị Giáo chủ lớn của pháp đạo.

 

Đến thời buổi hôm nay mà người tu hành chưa có pháp đạo nơi mình tức là quá bê trễ rồi, bê trễ cái điều mà tuổi đời của mình không biết còn bao lâu nữa để rồi phải ra đi. Tinh thần học đạo nhất định là một tinh thần Hoằng dương chánh pháp cao cả. Hãy khai sáng lại tinh thần ý chí của mình để truyền đạt, truyền thông, tiếp thọ, để minh định lập trường của mình về công việc căn cơ sứ mạng. Muốn minh định điều đó thì hãy nhìn lại cái cơ thân của mình rồi tự hiểu chính mình là những người có căn cơ sứ mạng, bởi vì mình là người được sự chỉ dẫn 1 mà hiểu được nhiều tới 3, 4 thậm chí tới 5, 7 mặc dầu học 1 chưa hiểu được 10, nhưng mà học 1 hiểu được 3, 4 là hàng Nguyên nhân rồi, nó cao hơn cái hàng Hóa nhân, Hóa nhân là hàng thú cầm mới tiến hóa lên con người.

 

Hàng Nguyên nhân là hàng đã trãi qua nhiều kiếp không còn thú tánh trong người, nó trở thành rất là cao quí trong điểm đạt của mình đã có. Còn Hóa nhân học 1 không biết, học 5, 7 mới biết 1 vì hàng Hóa nhân thì rất còn thấp kém; Hàng Nguyên nhân là học 1 biết 5, 7; Hàng Chân nhân là học 1 biết 10; Hàng Siêu nhân là không học mà vẫn biết.

 

Cái hàng Chân nhân hiện giờ cũng có, nhưng chưa lộ tướng hoặc còn ẩn trong cơ chuyển để mà định đoạt trong sứ mạng nguyên lý kỳ ba. Vậy tự nhận thức biết được mình là người có căn cơ sứ mạng rồi thì còn gì để mà lo âu, để mà phiền muộn, hãy hăng say, hãy tiến hóa, hãy lập thành bước chuyển kỳ công cao cả nầy.

 

Nơi đây một tinh thần giác ngộ, một tinh thần được chuyển hóa cũng còn rất nhiều cơ hội, duyên lành. Bổn Tiên kêu gọi tất cả phải nghiên cứu phần Thánh giáo hôm nay để hoàn thành được những công việc kế tiếp làm sáng rộng nền tảng vững chắc về pháp đạo trong cơ truyền rộng lớn sắp tới, và kêu gọi tất cả mọi nơi hãy cùng đường hướng vận chuyển pháp đạo mỗi người đều phải thọ học. nhiệm vụ của các giáo sư gương mẫu, nhiệm vụ của những người Thuần Dương thọ học phải động viên nhiều hơn nữa, đông hơn nữa, cái tinh thần thọ học Tịnh tâm để được sự bảo trợ của 4 vị Giáo chủ Di Đà, Thích ca, ngôi Hai, Nhị Thiên đó là tinh thần tổng qui để không kịp, không còn kịp.

 

Bổn Tiên vô cùng vui mừng hôm nay được sự hạnh ngộ của toàn thể căn cơ sứ mạng cũng như sự hội tựu của bổn đạo, gia đình, Bổn Tiên từ giả chung tất cả.

 

Thăng./

 

 

 

 

 

Home Thư viện 1 HỘI KIẾN PHÁP MÔN VÔ VI 1 (Nhiên Hòa NL)