PHÁP HOA TRANG

    (Đức Thích Ca giảng truyền)

Hởi các hàng căn cơ sứ mạng! Bài Pháp Hoa Trang hôm nay nhằm lưu lại Chơn Truyền Phật Pháp Nhiệm Mầu cho Đời Thượng Ngươn Thánh Đức, kịp thời trong cơ chuyển Đại Đồng, khi sự vận chuyển Đạo pháp của Cơ Thiên trong Càn Khôn không bao giờ dừng nghĩ, cũng như Bộ Máy Tiểu Châu Thân Con Người lúc nào những dòng mạch lưu thông của huyết quản vẫn luôn luân chuyển điều hòa, thông đồng qua từng nhịp thở của con tim. Vì lẽ đó trong Thần Điển của con người vẫn tương đồng qua Khí Điển Tiên Thiên của Trời Đất. Càng tinh ba siêu việt hơn, bước đầu là Âm Nhi, sau mới đạt thành Anh Nhi, có sức sáng tỏa ra theo các đường khai thông của huyệt đạo. Sự cao cả của Âm Nhi lúc bấy giờ chính là Anh Nhi Xá Lợi, nên việc khai thông nguồn Thần Quang Điển kết tựu Anh Nhi Xá Lợi là một Pháp Nhãn tuyệt vời của Phật Pháp, đã từng xoay Máy Điển vào trong để nhiếp phục Thần Quang.

Nhân sanh đang bước vào sự tiến hóa toàn cầu. Sự văn minh khoa học tiến bộ đã khai triển nguồn điện năng thiên nhiên làm phương tiện hữu vi, đưa con người tiến tới một Xã Hội Tin Học Toàn Diện; Cũng tương đồng sự tiến hóa của Đạo Pháp cùng một lúc khai triển Lý Pháp Đạo, có rất nhiều ấn chứng của mỗi Pháp Đạo được ban truyền, nhằm đạt đến mục đích tiến hóa cao cả, phụng sự Đại Đồng. Đó chính là những siêu lý của Phật Pháp Nhiệm Mầu được ghi vào Cẩm Nang Tuyệt Báu với tựa đề là Pháp Hoa Trang, Vậy chư thiên mạng hãy đồng tâm pháp tọa, nghe Bần Đạo giảng giải kinh báu.

Chơn như tỏa sáng diệu thường,

Hồng ân điểm hóa rạng đường huyền vi.

Trong Thần Điển Anh Nhi Xá Lợi,

Máy Càn Khôn chuyển tới cùng lui;

Vận xoay luân chuyển đúng thời,

Ngày sau mới biết cuộc đời thanh tân.

Vì trọng việc nghĩa nhân gìn giữ,

Quyết làm tròn ý tứ bài thơ;

Đường đi không thể sai giờ,

Chơn như hiển hích đợi chờ ngàn sau.

Vì khai được làu làu khiếu sáng,

Là đem lòng tỏ rạng bên trong;

Ngọc làu nhờ biết chuyên cần,

Trau tria giồi luyện tinh thần sáng ra.

Còn điểm chiếu chương tòa ẩn hiện,

Ẩn rồi khai, rồi chuyển, rồi hành.

Chuyển hành, thâu nhập quẩn quanh,

Để hầu đạt được tinh anh nhiếp hòa.

Đây Bần Đạo thi ca bài giảng,

Đường Long Hoa tỏ rạng cơ truyền;

Rõ ràng trong bổn Chân Nguyên,

Đại Thừa Chánh Giáo Chơn Truyền Tổng Quy.

Rồi còn phải ra đi trở lại,

Trở lại rồi còn phải ra đi;

Đó là đến chỗ trường thi,

Đó là rực sáng những gì Triều Nguyên.

Trong Khí Điển nào tìm tỏ rõ,

Mở Tri Huyền kết ngõ Phi Long;

Tiếp theo là dạy chữ đồng,

Chữ đồng cũng ẩn nằm trong luật trình.

Vì tất cả tượng hình pháp thệ,

Trong tượng hình tựu thể Kim Quang;

Cho nên Thiền Định Pháp Thoàn,

Chủ truyền chuyển nhãn xoay tâm làm đầu.

Sáng chân không, một bầu vũ trụ,

Càng rực ngời hội tựu cơ duyên;

Đó là hội chỗ Ngươn Điền,

Đó là hội chỗ Khối Nguyền Đại Đồng.

Bần Đạo giảng tiếp phần thi phú,

Để biết rằng thiền tựu nơi nào;

Niềm vui chen lẫn tự hào,

Tự hào khi thấy làu làu báu châu.

Nhưng vui trong cái sầu là chẳng,

Vui trong phần phẳng lặng là hay;

Còn như chuyện chẳng giải bày,

Là điều ý nghĩa đơn sai làm phiền.

Chỉ phiền thôi cũng duyên tan vỡ,

Chỉ phiền thôi cũng lỡ công đầu;

Cho nên thiền pháp báu châu,

Gọi người vào chỗ công đầu viên dung.

Đây giảng tiếp trùng trùng tự toại,

Cho biết rằng trọng đại huyền nhiên;

Vì thương nên mới nỗi niềm,

Vì thương nên điểm pháp thiền chơn tâm.

Còn cái chuyện xa xăm hơn nữa,

Là chỗ nào chẳng sửa đổi dời;

Chỉ vì lo ngại ôi thôi!

Ngại thời điểm Động ở thời Tịnh đây.

Pháp Hoa Trang truyền khai bí yếu,

Mà ngàn xưa tiêu biểu định thiền;

Giờ đây làm sáng Chơn Truyền,

Dung Thông Đạt Ngộ ứng duyên Đại Đồng.

Để các hàng Thiền Tông Mật Quán,

Kịp chuyển hành ứng bản chơn như;

Đại Đồng chung một Khối Hư,

Hườn Nguyên Chánh Giác Đại từ, Đại bi.

Từ ý nghĩa Nhất Quy Thiên Đạo,

Đến những phần Vạn Giáo Đồng Nguyên;

Soi chung một bổn bí truyền,

Ứng trong tam cõi gắn liền xa xưa.

Đệ Nhứt Thoàn siêu thừa bí yếu,

Dùng Quyền Năng Linh Diệu của mình;

Rãi tâm bất trụ cao linh,

Nhìn trong mới thấy cái nhìn Triều Nguơn.

Đệ Nhị Thoàn tiếng đờn dồn dã,

Nơi khiếu quang tiếp Hạ Ngươn Điền;

Lần xoay khoảng rộng vô biên,

Mới hay Phật Pháp tùy duyên để cầu.

Đệ Tam Thoàn giải sầu nhân thế,

Lãnh lịnh tìm bảo vệ Pháp Thân;

Chẳng đem sanh diệt lý phân,

Bất sanh, bất diệt sáng ngần tuệ quang.

Đệ Tứ Thoàn trần gian Tiên cảnh,

Là những phần rỗi rãnh tâm trung;

Oai nghi tịch tĩnh viên dung,

Ngần soi tuệ giác ứng dùng huyền nhiên.

Đệ Ngũ Thoàn tiếp liên Tam Bửu,

Bất Thọ Tham trước sự vọng cầu;

Tinh anh soi sáng quý mầu,

Kim quang ứng bởi thượng lầu Triều Nguơn.

Đệ Lục Thoàn kết đơn chánh pháp,

Phải quán thông lục sắc thinh hương;

Trì Kinh công đức vô lường,

Niệm vô biệt niệm, diệu thường tinh anh.

Đệ Thất Thoàn năng hành, năng thuyết,

Hiệp tùy duyên minh triết hoằng dương;

Chân Nguyên là bổn diệu thường,

Cho nên chủ thể rạng đường hồng ân.

Đệ Bát Thoàn điểm phân tiếp độ,

Giải thoát từ lý Phổ, Thọ, Thông;

Tròn duyên theo nghĩa Đại Đồng,

Cơ truyền bí chỉ kỳ công vững bền.

Đệ Cửu Thoàn xây nền Nguyên Lý,

Xoay vào tâm phục thỉ châu nhi;

Sắc trần hàng phục lý quy,

Rạng phần đuốc huệ hội kỳ đại ân.

Đệ Thập Thoàn trụ trong bất trụ,

Điển Nguyên Sinh thành tựu Hòa An;

Ứng linh, linh khiếu điển vàng,

Tinh tường Chơn Đạo muôn ngàn huệ linh.

Thập Nhứt Thoàn hữu tình buôn xả,

Mọi danh xưng đều trả lại trần;

Trả luôn hai chữ Pháp Thân,

Trang nghiêm cõi pháp, tự ngần cảnh quang.

Thập Nhị Thoàn niếc bàn vô sắc,

Đắc ở nơi vô đắc, vô phân;

Thoát vô, thoát hữu nguyên nhân,

Chánh Đẳng Chánh Giác sáng ngần Như Lai.

Giờ dạy việc thường hay giải luận,

Để đạt phần tiêu chuẩn cao xa;

Giữ tâm thanh tịnh sáng lòa,

Sáng nơi trí huệ nhiếp hòa hư linh.

Mượn phương tiện để nhìn chuyển pháp,

Chuyển đặng rồi trả tất tiện phương;

Nếu còn tiếc nuối vấn vương,

Làm sao đạt lý diệu thường huyền vi.

Sự mơ ước thường khi ẩn hiện,

Cũng bởi do nguồn điện chưa thông;

Điển thông thì đạt Đại Đồng,

Quyền Năng Tối Thượng khắp trong vận hành.

Trí Bát Nhã bất sanh bất diệt,

Luôn hiện bằng minh triết tự minh;

Tường xem muôn vạn chúng sinh,

Chúng sinh là ở nơi mình điểm mê.

Trí Bát Nhã chỉ về bến giác,

Nhìn chúng sanh chẳng khác sông mê;

Phật duyên quả phúc tìm về,

Hành thiền mật chỉ, thoát bề tử sanh.

Để từng bước đắc thành quả vị,

Từ hữu sanh tận chí vô sanh;

Hữu lai đến bất lai thành,

Bất lai đến chổ thường hành Như Lai.

Đây giảng về Hoằng Khai Chánh Pháp,

Phải biết phần điểm đoạt đầu tiên;

Trở về Khối Đại Chân Nguyên,

Đó là ứng với Cơ Truyền Tổng Quy.

Còn nhiều chuyện phân chi, phân cảnh,

Cũng tùy nghi điều chỉnh cho hay.

Việc chi cũng được phân bày,

Cơ truyền hiển hóa Tam Đài ứng linh.

Để kết tựu duyên lành căn phẩm,

Để lập thành tươi thắm hồng ân;

Đó là chỗ hiệp Đại Đồng,

Chớ nên sai chạy pháp công của mình.

Còn việc chung cung đình rạng rỡ,

Nguồn Đại quang muôn thuở sáng ngời;

Hôm nay Bần Đạo đôi lời,

Cho chung tất cả đừng lơi tâm thành.

Đem phần dạy cao thanh hoằng hóa,

Pháp Hoa Trang cao cả toàn chung;

Chánh truyền tâm ấn tận cùng,

Đại Đồng Nguyên Lý trùng phùng vị ngôi.

Các nguyên căn linh tử thọ Đại Hồng Ân trong thời kỳ Quy Linh Hiệp Nhứt, nên được nghe lời giảng giải Pháp Hoa Trang nhằm vận chuyển trong cơ Quy Pháp. Ở đây được chuyển về một lý pháp Tổng Quy rất cao cả, mà chỉ có những ai có thiện chí tri tầm một cách nhiệt quyết, nhứt là các hàng đã đạt ấn chứng Pháp Đạo mới hầu thấu triệt những ý mật của Thiên Điều. Vì nhìn sơ qua những điểm phần của Pháp Hoa Trang chỉ nhận thấy cái lý lẽ bày giải bên ngoài, trong khi cái lý giải đó luôn tựu trung ở phần nhứt lý, là làm thế nào cho tất cả mọi người đều đạt được sự mầu nhiệm của Cơ Thiên, vì đó là Mật Tâm Chánh Pháp, là Khẩu Khuyết Tâm Truyền, nên càng tinh tường tuyệt nhiệm ở Pháp Hoa Trang.

Sau đây là phần giảng giải về Kinh Pháp được gắn liền giữa thơ Hoàng Điểu và Thi Bài:

Như câu:
Trong Thần Điển Anh Nhi Xá Lợi,
Máy Càn Khôn chuyển tới cùng lui;

Sự vận hành của Trời Đất luôn do phần Âm Dương hiển lộ, chính vì sự hiển lộ đã nhiếp phục được ý nghĩa hiệp và tan, và kết quả của sự luân chuyển ấy là một tiến trình mới, gọi rằng Âm Nhi, cho đến Viên Thông Vị Giác thì gọi rằng Anh Nhi Xá lợi. Do luật chuyển đó nên thanh thăng trược hạ và biến ra muôn trùng Khí Điển, giai đoạn đầu là Âm Nhi hay Tinh Tử, sau kết thành Anh Nhi Xá lợi.

Nên viết:
Đại Đồng chuyển Anh Nhi Xá Lợi,
Nguyên Lý khai vạn đại Càn Khôn;

Pháp Chánh Thiên Môn,
Đại Từ chuyển vận.
Hồng quang linh động,
Ứng trụ Siêu Thiên.


Còn câu:
Vận xoay luân chuyển đúng thời,
Ngày sau mới biết cuộc đời thanh tân.

Nếu nhìn lý giải đơn thuần thì ai cũng có thể nhận rằng việc chuyển đúng thời, thì mới thấy được sự thanh tân của cuộc đời. Thanh tân là ý nói tâm thần mát mẽ, thanh tịnh tự nhiên trang nghiêm thường lạc, chỗ đó là nơi tốt đẹp nhứt của cuộc đời, mà cuộc đời đây là sự vận chuyển tâm pháp của con người thành tựu duyên giác do tự tầm nội thể thâm nhập sâu xa lý nhiệm nghĩa nhân.

Nên viết:
Lập Chánh Giáo từ bổn giác duyên,
Ngôi cửu ngũ tự tầm nội thể.

Hồng ân điểm thệ,
Lý nhiệm nghĩa nhân.
Thành tựu tinh thần,
Tàng Thơ Bửu Pháp.


Còn câu:
Vì trọng việc nghĩa nhân gìn giữ,
Quyết làm tròn ý tứ bài thơ;

Nói đến chỗ nghĩa nhân là cần phải ghi nhớ việc luân lưu của kiếp nhân để xoay chuyển Đạo người trong sự tiến hóa. Đó là cơ duyên hòa hạp trong sứ mạng con người, nên ai cũng cần phải tìm đến Tàng Thơ Bửu Pháp để mà luyện Đạo, tu tiến.

Nên viết:
Lập chánh danh căn duyên hòa hạp,
Tiếp hoàn thành sứ mạng thời lai.


Còn câu:
Đường đi không thể sai giờ,
Chơn như hiển hích đợi chờ ngàn sau.

Kiếp người ngắn ngũi, nên việc luyện Đạo tu tiến không thể chờ đợi nữa, mà hãy tự tạo cho mình đạt được sự hiển hích của chơn như.

Nên viết:
Khiếu sáng vạn khai,
Tự tầm kiến ngộ.
Thuần Dương pháp độ,
Hiệp tựu nội thân.


Còn câu:
Vì khai làu làu khiếu sáng,
Là đem lòng tỏ rạng bên trong;

Đó là chuyển pháp Nhất Bộ ở nội thân do sự đồng thông ngoại thể theo ý Quy Tam Hiệp Ngũ để đạt được Đại Đồng, Đại Đạo, khai sáng Khiếu Quang Huỳnh Đạo.

Nên viết:
Nhất Bộ Huyền linh chuyển khai thông,
Lập thế giới Đại Đồng, Đại Đạo.

Quy Nguyện Tam Giáo,
Hiệp Nhứt Ngũ Chi.
Ứng pháp Tổng Quy,
Vô vi chuyển chiếu.

Còn câu:
Ngọc làu nhờ biết chuyên cân,
Trau tria giồi luyện tinh thần sáng xa.

Việc luyện Đạo là chuyển theo vòng nguyên lý Hà Đồ Thiên Địa Nhân Hợp Nhứt theo lực chuyển Tiểu Châu Thân Con Người hòa cùng Đại Châu Thân Tạo Hóa, để Tiểu Châu Thân hườn chân hữu thể là một Kim Thân tinh anh ngời sáng.

Nên viết:
Linh Quang Nhi tuyệt nhiên kỳ diệu,
Cơ Hà Đồ vận chuyển châu thân;
Còn câu:
Còn điểm chiếu chương tòa ẩn hiện,
Ẩn rồi khai, rồi chuyển, rồi hành.

Từ những bí pháp được tịnh luyện tạo thành sự ngời sáng nơi trí huệ, đó là nguồn gốc Trung Ương Khiếu Quang Tòa Đạo, nên sự chuyển mỗi nơi thì nơi Trung Ương Tòa Đạo đều có sức thu hút rất là mạnh mẽ, để rồi tiếp tục ẩn hiện, chuyển khai, luân hành tiếp mãi.

Nên viết:
Thần Điển sáng ngần,
Khí Thần phối chuyển.
Linh thông đại điểm,
Khiếu điểm vạn khai.


Còn câu:
Chuyển hành, thâu nhập quẩn quanh,
Để hầu đạt được tinh anh nhiếp hòa.

Sức thu hút càng mạnh mẽ, càng đạt được nhiều Khí Điển tinh anh ngời sáng, Thần Điển hiển hích linh thông, Tinh Điển dồi dào thể lực. Đó chính là ứng chuyển Tam Hoa thông truyền Tựu Đảnh, mọi việc đều thông, máy Càn Khôn đượm nhuần, Thiên Địa tuần hườn đồng thông vạn hữu.

Nên viết:
Lập Liên Hoa điểm tựu linh đài,
Xây Cửu Phẩm hòa minh Thiên địa.

Tất vận chuyển nghĩa,
Tất hiệp điểm truyền.
Tất hóa hiển Thiên,
Tất thông chuyển Địa.


Còn câu:
Đây Bần Đạo thi ca bài giảng,
Đường Long Hoa tỏ rạng cơ truyền;
Rõ ràng trong bổn Chân Nguyên,
Đại Thừa Chánh Giáo Chơn Truyền Tổng Quy.

Cơ vận hành Pháp Đạo nhằm xây dựng một cõi đời thanh tân trong con người, đó là cuộc đỗi mới toàn diện của Tiểu Châu Thân, là kiến tạo Long Hoa Đại Hội ở chính mình chớ không đâu xa, vì tất cả là cơ mầu
nhiệm của Lý Nguyên.

Nên viết:
Bần Đạo hiện Thích Ca khai chiếu,
Cơ nhiệm huyền lập Đạo thiền môn.


Còn câu:
Rồi còn phải ra đi trở lại,
Trở lại rồi còn phải ra đi;

Việc lập Đạo để đạt được phẩm vị cao cả bằng tất cả sự chuyển cùng đi, cùng về. Chỉ có liên tục đi đi về về mới tạo thành một gạch nối liền của vòng luân chuyển. Càng Thuần Chơn Siêu Thức, càng Hiệp Nhứt Linh Quy, tinh thần càng mẫn tuyệt, ý chí càng siêu việt.

Nên viết:
Ý thức thông chơn,
Quy Linh Hiệp Nhứt.
Tinh thần siêu xuất,
Ý chí ngời linh.


Còn câu:
Đó là đến chỗ trường thi,
Đó là rực sáng những gì Triều Nguyên.

Càng tinh tường Pháp Đạo càng làm ngời linh bút điển, đó là sự tinh vi của nguồn máy để tiếp thu và ghi nhận đã được khai mở nơi khiếu trung gọi là máy điển Triều Ngươn do hiệp tựu Ngũ Khí mà thành.

Nên viết:
Tâm pháp ngời mẫn đạt lý minh,
Bút điển hiện tinh tường phẩm nhiệm.

Pháp do tâm hiện,
Tâm tại pháp hành.
Pháp điểm tâm sanh,
Tâm thâu pháp tướng.


Còn câu:
Trong Khí Điển nào tìm tỏ rõ,
Mở Tri Huyền kết ngõ Phi Long;
Tiếp theo là dạy chữ đồng,
Chữ đồng cũng ẩn nằm trong luật trình.

Khi tiếp thu linh điển nơi khiếu trung, cũng như sự hổn hợp đầu tiên của máy huyền tạo hóa, là nói đến chữ đồng, tức là nói chỗ hoàn thành những màu sắc hiện hữu kết tựu lại màu sắc duy nhứt gọi là “Thuần Dương điểm sắc”. Sau khi gạn đục lóng trong soi sáng trong vạn hữu, và đó cũng chính là màu Kim Thân Thánh Thể do đạt được ở ấn chứng Pháp Thoàn.

Nên viết:
Từ Pháp nhiệm huyền cơ chấp chưởng,
Lý Âm Dương hiển hiện hoằng thâm.

Bạch nhọc chi tâm,
Điểm kỳ bạch sắc.
Ngọc quang điểm Pháp,
Từ bổn giác duyên.


Còn câu:
Vì tất cả tượng hình pháp thệ,
Trong tượng hình tựu thể Kim Quang;
Cho nên Thiền Định Pháp Thoàn,
Chủ truyền chuyển nhãn xoay tâm làm đầu.

Pháp Thoàn không ngoài lý giải nội tâm của Tiểu Châu Thân Tuần Hườn Thiên Địa, là cơ trọng đại Hiệp Nhứt Quy Linh, tâm không, tùy khiếu điển. Nên vận chuyển Pháp Thoàn thiền định trước phải gìn giữ trau sữa thân tâm.

Nên viết:
Cơ chánh định vận chuyển Pháp thiền,
Không ngại sự luân phiên nguồn thái.


Còn câu:
Sáng chân không, một bầu vũ trụ,
Càng rực ngời hội tựu cơ duyên;
Đó là hội chổ Ngươn Điền,
Đó là hội chổ Khối Nguyền Đại Đồng.

Luyện Đạo chủ yếu là luyện Tâm Thanh Tịnh để hiệp nhứt với bổn chân không. Ánh sáng ở nơi chân không đã tự soi sáng hiệp tựu cơ duyên và soi sáng cả Ngươn Điền, soi sáng cả Khối Nguyên Đại Đồng, vì ánh sáng đó ở nơi chân không chớ không phải ở nơi vọng động. Cho nên muốn tầm đăng cái bổn linh vi diệu phải tìm nơi Tâm Thanh Tịnh hay tâm không, nhưng phải tùy khiếu điển, để tâm không luôn là diệu hữu thì mới tìm được Đuốc Thiên Từ Huệ là ánh sáng của chính mình tự tầm tri khai thị.

Nên viết:
Sáng chân không thị,
Ngọc bút điểm duyên.
Chủ tại Ngươn Điền,
Điển Thiên hiệp tựu.


Còn câu:
Bần Đạo giảng tiếp phần thi phú,
Để biết rằng thiền tựu nơi nào;
Niềm vui chen lẫn tự hào,
Tự hào khi thấy làu làu báu châu.

Niềm hân hoan tiếp đón linh thông Điển thường nhiên hiển hóa, đó là do Đuốc Thiên Từ Huệ hằng chuyển nhiệm mầu, như thấy mình nơi cội phúc xuân thơ, hay đáng hướng nguồn duyên cảnh lạc, vì tâm pháp rạng ngời cảnh pháp.

Nên viết:
Linh Thông Điển thường nhiên giáng ngự,
Hồng Huệ Từ phúc lạc Thiền Cơ.

Cội phúc xuân thơ,
Nguồn duyên cảnh lạc.
Thọ truyền Chơn Pháp,
Ứng ngộ điển linh.


Còn câu:
Nhưng vui trong cái sầu là chẳng,
Vui trong phần phẳng lặng là hay;
Còn như chuyện chẳng giải bày,
Là điều ý nghĩa đơn sai làm phiền.

Dầu tâm thanh ở trong thể trược nhưng không chấp vì động trược, mới thật là niềm hân hoan, hân hoan từ nguồn thương Nguyên Lý, cội nhớ Đại Đồng, lưu lọc tinh tường tâm ý, giải thoát mọi sự phiền thì mới là hân
hoan thật sự .

Nên viết:
Cảnh thiên nhiên Nhựt Nguyệt Hòa Minh,,
Cơ Thiên Đạo Âm Dương Vận Thái..

Quy nguồn nhân ái,
Hiệp bổn yêu thương.
Khử trược tinh tường,
Lưu thanh hiển hiện.


Còn câu:
Chỉ phiền thôi cũng duyên tan vỡ,
Chỉ phiền thôi cũng lỡ công đầu;
Cho nên thiền pháp báu châu,
Gọi người vào chỗ công đầu viên dung.

Hãy gạn đục lóng trong ở tâm ý, vì có nhiều cặn bã, đó là cái động trược nặng nề như tất cả sự phiền là trược, lo âu là trược, suy nghĩ cho việc danh lợi ảo huyền để làm nô lệ bận bịu kiếp nhân là trược, buồn vui thương tiếc là trược, v.v… Vì thế, chỉ phiền thôi cũng duyên tan vỡ, chỉ phiền thôi cũng lỡ công đầu. Tất cả sự phiền đều là trược cả. Cho nên thiền pháp báu châu, gọi người dứt hẳn sự phiền thì mới vào chỗ công đầu viên dung. Khi lắng được điểm trược thì trở về với viên dung thanh tịnh sáng suốt tự nhiên.

Nên viết:
Bổn tinh thanh tịnh duyên, tịch chuyển,
Cơ diệu huyền hiệp tuyển, lợi trinh.

Còn câu:
Đây giảng tiếp trùng trùng tự toại,
Cho biết rằng trọng đại huyền nhiên;
Vì thương nên mới nỗi niềm,
Vì thương nên điểm pháp thiền chơn tâm.

Dầu ở trong thể trược nhưng có được tâm chơn ý chánh mới thật là tự toại, đó là việc tịnh trong động. Khi soi rọi đúng mức ở tâm chơn ý chánh thì tự gợi nhớ tận nguồn linh hay bổn giác, nơi ấy là khối tình thương bất diệt, vô tận, hay chính là Khối Nguyên, Thiên ân vạn đại.

Nên viết:
Linh tự siêu linh,
Trùng trùng điệp điệp.
Huyền nhiên chuyển tiếp,
Vạn đại Thiên ân.


Còn câu:
Còn cái chuyện xa xăm hơn nữa,
Là chỗ nào chẳng sửa đổi dời;
Chỉ vì lo ngại ôi thôi!
Ngại thời điểm Động ở thời Tịnh đây.

Còn việc Động trong Tịnh thì mới đáng ngại như người đang ngồi tịnh mà vọng tâm khởi loạn thì cần phải sửa đổi.

Nên viết:
Khai Nhất Bộ điểm tại phục hườn,
Luyện Động Tịnh thuần chơn tuyệt kỹ.


Còn câu:
Pháp Hoa Trang truyền khai bí yếu,
Mà ngàn xưa tiêu biểu định thiền;
Giờ đây làm sáng Chơn Truyền,
Dung Thông Đạt Ngộ ứng duyên Đại Đồng.
Để các hàng Thiền Tông Mật Quán,
Kịp chuyển hành ứng bản chơn như;
Đại Đồng chung một Khối Hư,
Hườn nguyên Chánh Giác Đại từ, Đại bi.
Từ ý nghĩa Nhất Quy Thiên Đạo,
Đến những phần Vạn Giáo Đồng Nguyên;
Soi chung một bổn bí truyền,
Ứng trong tam cõi gắn liền xa xưa.

Bí yếu của thiền định khi đạt Chơn Truyền là nhờ lấy chỗ động làm chất liệu để nung nấu luyện rèn, ấy gọi là “Dung Thông Đạt Ngộ” cũng là điểm đặc biệt của “Thiền Tông Mật Quán”, dầu ở cơ cuộc như thế nào vẫn luôn làm chủ bản thân chớ không hề trốn chạy những điểm động khi biết đó là phương tiện giúp ta có chỗ để luyện, vì động hay tịnh cũng như Âm với Dương, phải biết “Dung Thông Đạt Ngộ” mới hiệp duyên cùng Trời Đất đặng, nên lúc nào cũng phải trau giồi bí yếu.

Nên viết:
Chuyển thành tứ quý,
Thống hiệp Âm Dương.
Vận chuyển Càn Khôn,
Hiệp duyên huyền bút.


Còn câu:
Đệ nhứt Thoàn siêu thừa bí yếu,
Dùng Quyền Năng Linh Diệu của mình;
Rãi tâm bất trụ cao linh,
Nhìn trong mới thấy cái nhìn Triều Ngươn.

Đệ nhứt Thoàn nói đến chổ trau giồi bí yếu là trau giồi cái Quyền Năng Linh Diệu của mình tự có, vì trong sự Quyền Năng Linh Diệu chính là Quyền Năng Tối Thượng của con người, mỗi mỗi đều có tánh linh của “Thượng Đế” do Tiểu Linh Quang chiết từ Khối Đại, nên mỗi người đều thể hiện được cái ý nghĩa siêu thừa đang là điểm tựu của châu thân, cũng vì có châu thân, nên ai cũng có Quyền Năng Tối Thượng như nhau do tự mình tìm hiểu mới hầu thông suốt đặng. Thành Đạo hay chăng cũng là nhờ sức vận chuyển những Quyền Năng Tối Thượng của mình được hòa kết với Quyền Năng Tối Thượng thường nhiên trong thiên nhiên hằng hữu, thì mới có đặng cái nhìn Triều Ngươn. Đó là ý nghĩa quan trọng về quyền lợi tối cao của mình sẳn có, để biết dụng nó mà bảo vệ Kim Thân chuyển thành Thánh Thể. Khi có đặng cái nhìn Triều Ngươn, tức là gom được Ngũ Khí Châu ở phần Tri Huyền Quang động tác Thuần Dương số 1, tương ứng với Pháp Thoàn ở phần Đệ Nhứt, chuyên luyện tích tựu Thần Điển tại Huỳnh Đình.

Nên viết:
Đệ Nhứt Thoàn trung thanh ẩn tục,
Tịnh lạc phân tương ứng kỳ duyên.

Ngũ Khí Triều Nguyên,
Thần Quang hiệp nhứt.
Trụ quy ý thức,
Điểm tại Huỳnh Đình.


Còn câu:
Đệ nhị thoàn tiếng đờn dồn dã,
Nơi khiếu quang tiếp hạ ngươn điền;

Nói đến Ngũ Châu là điểm tựu Huỳnh Đình Đại Châu Thân Tạo Hóa, còn nói đến Ngũ Tạng là điểm tựu Huỳnh Đình Tiểu Châu Thân Con Người. Từ đó thông về Huỳnh Lão Trung Ương. Pháp luyện Thuần Dương không ngoài sự vận chuyển của Thần Điển. Cái nhìn trút xuống Cung Huỳnh đình là một sự gom tựu, Thần Điển của Pháp Thiền, và nếu biết chổ để quang máy điển vào trong thì thấy rõ Đại Châu Thân dù to lớn vạn trùng. Tuy nhiên, sự chuyển Thần Điển với mục đích siêu thừa vẫn là gom Tam Bửu, tựu Ngũ Hành phân thành Ngũ Sắc tương ứng Ngũ Quang và để thanh lọc đến khi đưa về nhứt khiếu Huỳnh trung thì phải là sự tinh thuần Bạch Ngọc Quang rực rỡ. Ngày xưa nơi linh Đài Phật Quốc, Đức Di Lặc Phật Vương cũng từng hiện lời trình bạch cùng Đức Như Lai qua những ý thể hiện ở khuôn viên thiền định từ ngũ vị, ngũ hành.

Nên viết:
Đệ nhị thoàn chơn giả tự minh,
Từ vạn đại linh thông điểm chuyển.


Còn câu:
Lần xoay khoảng rộng vô biên,
Mới hay Phật Pháp tùy duyên để cầu.

Đệ Nhị Thoàn là nói đến sự vận chuyển của Thần Điển bên ngoài để kết tinh chuyển về Huỳnh Đình và ứng nơi khiếu quang bằng một cuộn phim khoảng rộng trống không, Đệ Nhứt Thoàn đã nói chỗ Tinh Điển diệu kỳ, nhưng đó chỉ gôm tinh, dưỡng tinh. Đến Đệ Nhị Thoàn mới thật sự là phương pháp luyện tinh. Cho nên tựa thể lần xoay khoảng rộng vô biên để tiếp thu đặng nhiều Khí Dương của Trời Đất. Sự thu Khí Điển vào trong cuồng phim trắng tinh nguyên để tinh luyện thành vật báu nhiệm mầu, cũng như phim thâu ngoại cảnh bằng nguồn linh diệu của điển quang, luôn mượn ngoại cảnh để Nhiếp Thông và Nhiếp Thọ.

Nên viết:
Nhiếp hòa tinh luyện,
Mật pháp vô vi.
Tiếp nhận Hồng Kỳ,
Tại phần Huỳnh Khiếu.


Còn câu:
Đệ Tam Thoàn giải sầu nhân thế,
Lãnh lịnh tìm bảo vệ Pháp Thân;
Chẳng đem sanh diệt lý phân,
Bất sanh, bất diệt sáng ngần tuệ quang.

Các hàng Khất Sĩ, Sa Môn cần phải thấu triệt lý pháp nhập định nầy, làm thế nào cho Chơn Tinh được luân chuyển đều đồng trong bộ máy giả thể. Nhờ có luân chuyển đều đồng nên Chơn Tinh được gắn liền với Thần Điển vào những lúc Thần Điển còn vật vờ chưa hoàn định được ý nghĩa việc thoát ly trần tục và đem lòng thành kính của chư Thánh Tăng chưa được khẳn định. tất cả những ân đức Tăng Bảo nói lên Pháp Thoàn là pháp chủ trì chánh yếu của Tôn Sư để minh định lý giải nhằm kết tựu Kim Thân Thánh Thể. Đệ Tam Thoàn là điểm thâu đạt những ý của Chơn Pháp, ý diệu đó cũng không ngoài việc lưu lọc từ ô trược, và tịnh thanh. Cho nên giải sầu nhân thế sẽ tìm từ nhân thế mà thấu rõ những gì ở nội tâm. Tâm bất sanh, bất diệt thì sáng ngần tuệ quang, là lời nói chỗ huyền khiếu được rực sáng như trăng rằm, ấy là Thuần Âm Siêu Việt, hãy tin tưởng làm theo tinh ba nầy, và dâng hết tất cả sự mầu nhiệm nầy để phục vụ cho Thần Điển, vì Thần Điển là chủ thể của trong muôn sự vạn vật.

Nên viết:
Đệ Tam Thoàn bất tri kỳ diệu,
Tự giác tha vi chiếu thể thông.
Khí vận Đại Đồng,
Thần thông siêu lý.
Hữu chung hữu thủy,
Mật chỉ thường hành.


Còn câu:
Đệ Tứ Thoàn trần gian Tiên cảnh,
Là những phần rỗi rãnh tâm trung;
Oai nghi tịch tĩnh viên dung,
Ngần soi tuệ giác ứng dùng huyền nhiên.

Đệ Tứ Thoàn là lý giải Chơn Pháp khai thông điểm chiếu, khí quang giao thới trùng trùng. Nên là điểm khai thông Khí Điển. tất cả sự ứng hiện bằng cả không gian khoảng trống của bầu hư linh vũ trụ đang phủ trùm mầu thanh thiên rực rỡ. khoảng trống không đó cũng là ý diệu của chơn tánh được giao thới cùng tất cả các thể Pháp và Thân, nên lãnh lịnh tìm bảo vệ Pháp Thân và bảo toàn Tâm Mật. Chủ yếu chỗ rãnh rỗi cho tâm là chỉ về khoảng trống của Đại Châu Thân giao hòa rộng rãi cùng Tiểu Châu Thân, là điểm liên quan cùng tuệ giác, cũng như sự liên đới của máy Âm Dương Tuần Hườn Thiên Địa, biết được điểm nầy thì sẽ rõ vì sao có thành lập giới luật để cơ truyền điều định trong trang nghiêm thanh tịnh từ sự thành kỉnh Tam Bảo bằng sự chân thật nhất định, để thâu đạt các tinh tử.

Nên viết:
Đệ Tứ Thoàn điểm sắc Thiên Thanh,
Hoằng hóa chuyển tinh tường Tâm Mật.
Đại Đồng hiệp nhất,
Nguyên Lý quy gia.
Trụ tại Trung Tòa,
Trụ nơi Tâm Mật.


Còn câu:
Đệ Ngũ Thoàn tiếp liên Tam Bửu,
Bất thọ tham trước sự vọng cầu;
Tinh anh soi sáng quý mầu,
Kim quang ứng bởi thượng lầu Triều Nguơn.

Đệ Ngũ Thoàn là nói đến Triều Nguơn, là điểm ngự tại nhứt khiếu, mà ánh sáng tinh quang thì lúc nào cũng do sức vận hành trong Tam Bửu để được hiệp tựu đủ đầy kể từ Đệ Nhứt Thoàn, Nhị Thoàn, Tam Thoàn và Tứ Thoàn. Nhờ sự vận chuyển bằng tất cả nguồn linh diệu bên trong, đến Ngũ Thoàn chỉ sự “Bất Thọ Tham” để khi đạt được mà tránh mọi vọng cầu, ấy là Mật Tâm Chơn Pháp, cũng chính là việc kết tinh Tam Bửu.

Nên viết:
Đệ Ngũ Thoàn trụ hành như nhất,
Bất Thọ Tham, cẩn mật hàm ân.
Khai sáng tâm chơn,
Lập thành pháp chánh.
Âm Dương bửu cảnh,
Nhị khí Hoa Long.


Còn câu:
Đệ Lục Thoàn kết đơn chánh pháp,
Phải quán thông lục sắc thinh hương;
Trì Kinh công đức vô lường,
Niệm vô biệt niệm, diệu thường tinh anh.

Đệ Lục Thoàn nói đến việc mở tâm công đức vô lượng và niệm vô biệt niệm để quán thông Sắc, Thinh, Hương, Vị Xúc, Pháp thì tinh anh thường chiếu. Đó cũng là điểm chủ thi của con người thường ứng trong khí vận trợ điển cho điểm trọng yếu của linh hồn. Đây chính là việc chỉ điểm của hình đồ Đài Pháp Siêu Nhiên tinh thông tuyệt nhiệm. Những huyền cơ bí pháp nếu ai kiến ngộ đặng thì sẽ thấu đạt toàn nhiên sức năng rộng lớn của bầu hư linh vũ trụ, còn như chưa phân biệt đặng thì Chơn Pháp chưa hoàn định, vì còn đang phân biệt nào Tam Quy Ngũ Giới, nào Lục Trần Lục Độ như trã bài câu học thuộc lòng u vô sa thô, i ma sa tha thil, i mil cha bi cha sa, mà không chịu thâm nhập nghĩa lý ấy cho đúng mức, khi tất cả chỉ là cái hình thức giả tạo để kiềm giữ lục trần hầu biến pháp lục thông. Vận chuyển đúng với chiều hướng Lục Trần Lục Độ.

Nên viết:
Đệ Lục Thoàn phò trợ Viên thông,
Hoằng Pháp ấn Đại Đồng chuyển hóa.
Cơ duyên thành quả,
Diệu dụng hành chuyên.
Ứng ngộ Chơn Truyền,
Lục Thông trọng đại.


Còn câu:
Đệ Thất Thoàn năng hành, năng thuyết,
Hiệp tùy duyên minh triết hoằng dương;
Chân Nguyên là bổn diệu thường,
Cho nên chủ thể rạng đường hồng ân.

Đệ Thất Thoàn là nói tính chất viên thông hay tính chất Đại Đồng có quyền năng cực kỳ linh diệu đã được phân giải từ Đệ Nhứt Thoàn. Tuy có nhiều lý giải khác nhau, nhưng đồng điểm khai thông Thần Điển. Vì Đệ Nhất Thoàn “nhứt bổn tán vạn thù” thì Đệ Nhị Thoàn “vạn quy nhứt bổn”, nên nó tròn duyên tất cả. Mới thật là: “Chân Nguyên là bổn diệu thường, cho nên chủ thể rạng đường hồng ân”.

Nên viết:
Đệ Thất Thoàn hồng ân nhuận tải,
Lập huyền cơ trọng đại vận hành.

Nguồn điển Nguyên Sinh,
Hòa An siêu lý.
Mật Tâm khai thị,
Lý nhiệm tinh anh.


Còn câu:
Đệ Bát Thoàn điểm phân tiếp độ,
Giải thoát từ lý Phổ, Thọ, Thông;
Tròn duyên theo nghĩa Đại Đồng,
Cơ truyền bí chỉ kỳ công vững bền.

Đệ Bát Thoàn ở phần đây là việc Triều Nghi Thánh Giá vận khí huờn đơn, hiệp Âm Dương theo Hà Đồ Tiên Thiên cho thuận vòng Bát Quan mà chuyển, chớ không nên chạy theo hữu hình, và nhận việc thành tựu của Bát Thoàn chỉ là Bát Quan Trai giả định, tựa thể hàng rào bao phủ bên ngoài như mà phải cần giữ gìn và đem những ý nghĩa đó để vận chuyển bên trong thì đúng hơn. Nên việc Bát Thoàn điểm phân tiếp độ, nhưng phải làm sao thoát đặng từ lý Phổ Hóa, lý Nhiếp Thông, lý Nhiếp Thọ để đặng tròn duyên theo nghĩa Đại Đồng.

Nên viết:
Đệ Bát Thoàn thoát hóa tâm sanh,
Trang nghiêm pháp cảnh thanh nhàn hạ.

Nhuận thường cảm hóa,
Nguồn bổn cao nhiên.
Khai ngộ Chơn Truyền,
Giác duyên siêu lý.


Còn câu:
Đệ Cửu Thoàn xây nền Nguyên Lý,
Xoay vào tâm phục thỉ châu nhi;
Sắc trần hàng phục lý quy,
Rạng phần đuốc huệ hội kỳ đại ân.

Đệ Cửu Thoàn là dùng quyền pháp của mình mà thâu phục mọi pháp trần sắc tướng, để tất cả đều theo lý quy nhứt trong mỗi vận hành.

Nên viết:
Đệ Cửu Thoàn tinh ngần sắc chỉ,
Thông thoát từ vô thỉ, vô chung.

Ứng lộ cửu cung,
Chơn như ấn tượng.
Vô thinh sắc tướng,
Thoát Pháp, thoát Ta.


Còn câu:
Đệ Thập Thoàn trụ trong bất trụ,
Điển Nguyên Sinh thành tựu Hòa An;
Ứng linh, linh khiếu điển vàng,
Tinh tường chơn Đạo muôn ngàn huệ linh.

Đệ Thập Thoàn khi nói về việc trụ trong bất trụ. Dùng điển Nguyên Sinh Hòa An màu xanh, để thu phục điển Cạnh Tranh Nguyên Tử màu đỏ. Sự ứng linh là hòa xanh đỏ ra vàng nơi khiếu trung Huỳnh Đạo.

Nên viết:
Đệ Thập Thoàn luận giải tinh hoa,
Dụng luật chuyển phân minh yếu nhiệm.

Tùy duyên bổn thiện,
Giao thới vị ngôi.
Hữu bất lai hồi,
Như lai chánh chiếu.


Còn câu:
Thập Nhứt Thoàn hữu tình buôn xả,
Mọi danh xưng đều trả lại trần;
Trả luôn hai chữ Pháp Thân,
Trang nghiêm cõi pháp, tự ngần cảnh quang.

Thập Nhứt Thoàn nói đến giai đoạn buông xả mọi pháp tướng để trở về cõi pháp trang nghiêm.

Nên viết:
Thập Nhứt Thoàn siêu nhiên khai khiếu,
Chân Nguyên thừa tối diệu hồng ân.

Thanh tịnh chơn thân,
Khối Thiên hiển lộ.
Kim Chương đại độ,
Ngọc Điện đại ân.


Còn câu:
Thập Nhị Thoàn niếc bàn vô sắc,
Đắc ở nơi vô đắc, vô phân;
Thoát vô, thoát hữu nguyên nhân,
Chánh Đẳng Chánh Giác sáng ngần Như Lai.

Thập Nhị Thoàn nói đến niếc bàn vô sắc, là nói đến chỗ tâm vô đắc, chỗ ý vô phân, là sức sáng Như Lai, Chánh Đẳng Chánh Giác, phẩm vị thông thoát hoàn toàn. Đó là nói cái lý mật nhiệm đã soi sáng tận nguồn ân nguyên bổn.

Nên viết:
Thập Nhị Thoàn tỏa chiếu tường vân,
Khai Đại Cửu đồng thông vạn pháp.

Khuôn Viên thông thoát,
Chánh Pháp toàn nhiên.
Đài Báu ứng thiêng,
Chân Nguyên lý giải.


Còn câu:
Giờ dạy việc thường hay giải luận,
Để đạt phần tiêu chuẩn cao xa;
Giữ tâm thanh tịnh sáng lòa,
Sáng nơi trí huệ nhiếp hòa hư linh.

Khi nhắc đến Thánh Giá, là điểm chỉ tận tường Quy Tam Hiệp Ngũ, bởi theo Thập Tự Tam Thanh giảng giải thì Thánh Giá là sơ đồ Quy Tam Hiệp Ngũ, là nói đến chỉ điểm đi tìm Nguyên lý, vẹt phá bức màn pháp tướng, càng thông thuần lý pháp càng ứng nghiệm chỗ Đồ Thơ.

Nên viết:
Giảng Thánh Giá cao xa nghĩa lý,
Khai nhiếp đồng: Nhiếp Thọ, Nhiếp Thông.

Chánh ý chơn tâm,
Đại Đồng khai thị.
Giải truyền siêu lý,
Giác ngộ cao thâm.


Còn câu:
Mượn phương tiện để nhìn chuyển pháp,
Chuyển đặng rồi trả tất tiện phương;
Nếu còn tiếc nuối vấn vương,
Làm sao đạt lý diệu thường huyền vi.
Sự mơ ước thường khi ẩn hiện,
Cũng bởi do nguồn điện chưa thông;
Điển thông thì đạt Đại Đồng,
Quyền Năng Tối Thượng khắp trong vận hành.

Còn chỗ tùy duyên phương tiện thì rất là cao cả. Nhờ có tùy duyên nên mới dễ dàng hòa nhập vào các nguồn điển, nhờ thông các nguồn điển mọi phương tiện mới hiệp về cùng Nguyên Lý.

Nên viết:
Chuyển Pháp Luân tùy sự phù trầm,
Hành Mật Chỉ hòa tâm cảm ứng.

Quyền Năng Tối Thượng,
Diệu dụng thường nhiên.
Đạt lý diệu huyền,
Hồng ân nhuận tải.


Còn câu:
Trí Bát Nhã bất sanh bất diệt,
Luôn hiện bằng minh triết tự minh;
Tường xem muôn vạn chúng sinh,
Chúng sinh là ở nơi mình điểm mê.
Trí Bát Nhã chỉ về bến giác,
Nhìn chúng sanh chẳng khác sông mê;
Phật duyên quả phúc tìm về,
Hành thiền mật chỉ, thoát bề tử sanh.
Để từng bước đắc thành quả vị,
Từ hữu sanh tận chí vô sanh;
Hữu lai đến bất lai thành,
Bất lai đến chổ thường hành Như Lai.

Còn việc trùng hưng bổn vị, là bến giác, hay trí bát nhã đã trọn lành trọn sáng khi đã tận tường trong lý Hữu Sanh và Vô Sanh chỉ là một,

Nên viết:
Tiếp Nhị Bộ Đài Thiên vạn đại,
Sắc huỳnh quang nhuận tải toàn chung.

Ứng tự Kim Cung,
Ứng từ Kim Đảnh.
Ứng từ Kim Cảnh,
Ứng tự Kim Thân.


Còn câu:
Đây giảng về Hoằng Khai Chánh Pháp,
Phải biết phần điểm đoạt đầu tiên;
Trở về Khối Đại Chân Nguyên,
Đó là ứng với Cơ Truyền Tổng Quy.
Còn nhiều chuyện phân chi, phân cảnh,
Cũng tùy nghi điều chỉnh cho hay.
Việc chi cũng được phân bày,
Cơ truyền hiển hóa Tam Đài ứng linh.

Trong Nguyên Lý có đa dạng Chơn Lý, nên mỗi Chơn Lý riêng rồi sẽ hiệp về với Chơn Lý gốc, đó là hiệp Nguyên Lý, hiệp về Khối Đại.

Nên viết:
Chánh pháp điểm Sứ Mạng Thiên Ân,
Siêu nhiên thọ hồng từ vạn đại.

Đồ Thư khai giải,
Bửu pháp truyền y.
Nguyên Lý Nhất Quy,
Đại Đồng, Đại Đạo.
Còn câu:
Để kết tựu duyên lành căn phẩm,
Để lập thành tươi thắm hồng ân;
Đó là chỗ hiệp Đại Đồng,
Chớ nên sai chạy pháp công của mình.
Còn việc chung cung đình rạng rỡ,
Nguồn Đại quang muôn thuở sáng ngời;

Biết bao sự biến đổi trong cơ tuyển, cũng kịp thời vận chuyển những Sĩ Nguyên, Sĩ Đài của Đài Báu Pháp Nguyên Thuần Dương hiển hóa.

Nên viết:
Tam Đài ứng huyền huyền Cơ Tạo,
Mật Chỉ thông diệu diệu Cơ Thiên.

Pháp Chánh Khuôn Viên,
Phẩm Chương Hồng Thệ.
Âm Dương Kim Thể,
Quả Vị Đài Chương.


Còn câu:
Hôm nay Bần Đạo đôi lời,
Giã chung tất cả đừng lơi tâm thành.
Đem phần dạy cao thanh hoằng hóa,
Pháp Hoa Trang cao cả cho chung;
Chánh truyền tâm ấn tận cùng,
Đại Đồng Nguyên Lý trùng phùng vị ngôi.

Lời giảng Pháp Hoa Trang hôm nay thật là viên mãn, là Chánh Truyền Tâm Ấn cho những ai cố tâm tầm lấy. Hãy hướng về Nguyên Lý Đại Đồng, là hướng về ngôi xưa vị cũ. Giờ ban ân chung toàn đẳng, Bần Đạo trở về bổn vị /.