VĂN KIỆN TATB 2009

MỪNG LỄ AN VỊ BÁT QUÁI ĐÀI

VÀ TRI ÂN TIỀN BỐI LẦN THỨ 03

(10/10 KỶ SỬU. DL: 26/11/2009)

 

 

 

 

DIỄN VĂN KHAI MẠC

BAN TỔ CHỨC

 Kính thưa...

         Niềm hân hoan Đại Đồng tương ngộ, cuộc sum vầy Đại Đạo keo sơn. Thoáng đã giáp vòng của một năm trãi dài bao thử thách. Lễ kỷ niệm Tri Ân Chư Vị Tiền Bối lần thứ 03 lại đến, cùng mang theo những hành trang tinh thần sứ mạng tuyệt quý để kính dâng lên Thầy Mẹ, chư vị Tiền Khai Đại Đạo, Tiền Bối, Tiền Hiền Thánh Tịnh. Trong không khí trang nghiêm của giây phút Thiêng Liêng ngày đại lễ trọng thể nầy, chúng tôi rất vinh dự được đón tiếp và chân thành kính chào mừng toàn thể chư quý liệt vị lời chào mừng thắm đậm tình liên giao Đời Đạo nồng nhiệt nhất.

Tuyệt vời thay! Trong giây phút Thiêng Liêng cao cả, Chư vị Tiền Bối, Tiền Hiền tất cũng hân hoan cho trong đàng hậu sinh tiếp nối, điều đáng để cho chư vị trọn niềm tin giao phó, chính là sự nhớ ơn. Nếu mỗi chúng ta đều giữ gìn tất cả Đạo lý nhớ ơn, chính là chúng ta thể hiện đúng cái nền tảng vững chắc. Sự nhớ ơn không phân biệt Đời hay Đạo, gia đình hay ngoài xã hội.

Hằng năm mỗi khi có kỳ lễ lớn nơi Thánh Tịnh Long Thành, Ban Cai Quản chúng tôi đều có thực hiện phần nghi thức Tế Chiến Sĩ. Đó cũng là điều nằm trong ý nghĩa nhớ ơn những người đã hy sinh vì Tổ Quốc, đem máu xương để tô điểm quê hương, và đó cũng là sự nhớ ơn về mặt xã hội. Còn sự nhớ ơn về phần Đạo, từ năm 2007 Thánh Tịnh Long Thành mỗi lần được ý nguyện về phần tổ chức Lễ Tri Ân Tiền Bối lần đầu tiên. Từ đó chúng tôi luôn lấy ngày tri ân nầy làm điểm hẹn để hạnh ngộ cơ duyên, mở rộng chiều hướng tiếp giao tinh thần Liên Giao Đời Đạo, sự nhớ ơn không chỉ bằng tấm lòng, mà còn phải nổ lực thi đua lập thành tích Đạo sự và công tác xã hội từ thiện, giữ gìn và mở mang con đường Đạo đức vạch sẳn của tiền nhân, luôn phát triển vươn lên ngày thêm mạnh mẽ, đó mới là sự nhớ ơn đúng nghĩa. Toàn thể bổn đạo và nhân sanh nơi Thánh Tịnh Long Thành luôn mơ ước một ngày nào đó Thánh Tịnh sẽ được xây dựng lại đúng mức, đáp ứng đủ điều kiện để phục vụ giao lưu Đời Đạo. Vì Đời Đạo là Âm Dương, là Nguyên Lý, sự tốt Đời đẹp Đạo là mục đích tiến hóa chung của toàn nhân loại.

          Từ ngày thực hiện được lễ Tri Ân Tiền Bối lần đầu tiên (2007) đến nay sự liên giao có chiều hướng phát triển mạnh mẽ. Các vị tiền Khai, các hàng Tiền Bối, Tiền Hiền chắc cũng rất hân hoan vui mừng cho sự vươn lên của Thánh Tịnh, nhứt là vị Tiền Bối đầu tiên của Thánh Tịnh Long Thành là Ngài cố Đạo trưởng Ngọc Minh Sắc đắc vị Đẳng Giác Kim Tiên, một người đã khai sơn phá thạch gầy dựng nên Thánh Tịnh Long Thành thì còn vì vui mừng hơn khi có từng lớp người hậu tấn nối tiếp làm vẽ vang sự nghiệp Đạo pháp cao cả chính là sự kế thừa lãnh đạo suốt chặng đường dài khi Thánh Tịnh đã có từ năm 1942 đến nay, càng vững niềm tin hơn là làm cho toàn thể tín đồ vô cùng phấn khởi khi Thánh Tịnh được khởi công xây dựng lại, mà khả năng thì ngoài mức tưởng tượng của mỗi người. Sự nhu cầu bức thiết của Họ Đạo Thánh Tịnh Long Thành là khi Thánh Tịnh đang xuống cấp rất nghiêm trọng, nếu không xây dựng lại kịp thời thì bổn đạo không thể nào yên tâm tu hành được.

Kính thưa quý vị! Niềm ước mơ đã trở thành hiện thực. Hôm nay Lễ kỷ niệm Tri Ân Tiền Bối lần thứ 03 cũng là ngày Đại lễ An Vị Bát Quái Đài, Khi trong năm đã được khởi xây dựng từ tháng 03 đến nay cũng đạt phần hạn mục về Bát Quái Đài. Bát Quái Đài là nơi đặt thành cung nghi Chánh điện Thờ Đức Chí Tôn và các vị Giáo Chủ. Việc thành tựu hôm nay tưởng chừng như không thể nào chúng tôi thực hiện được, dù thực hiện mới chỉ đạt được 30% công trình của Tam Đài; dù thực hiện còn tồn động một số phần khó khăn như bản phúc trình tổng kết thu xuất xây dựng Bát Quái Đài mà chúng tôi đang được kính phúc trình trước Đại lễ hôm nay, để mong sự cảm thông, chia sẽ, hổ trợ của toàn Đạo và nhân sanh.

          Để dứt lời, chúng tôi xin chân thành kính chúc toàn thể chư quý vị có được một sức khỏe dồi dào và thành đạt tốt đẹp nhất trên mọi lĩnh vực..

          Thay mặt Ban Tổ Chức, tôi xin tuyên bố khai mạc buổi lễ An Vị Bát Quái Đài và kỷ niệm Tri Ân Tiền Bói lần thứ 03 Thánh Tịnh Long Thành năm Kỷ Sửu 2009 hôm nay.

          Xin chân trọng kính chào và tri ân toàn thể chư quý liệt vị.

 

 

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ

THÁNH TỊNH LONG THÀNH

TỪ NĂM 1942 ĐẾN NĂM 2009

 

I – VỊ TRÍ TỌA LẠC  THÁNH TỊNH LONG THÀNH

 

          Thánh Tịnh Long Thành tọa lạc tại Khu Vực Bình Yên B, Phường Long Hòa, Quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ.

 

          Thánh Tịnh Long Thành nằm trên bờ sông Rạch Cam chạy qua trước mặt, in bóng những vườn cây ăn trái  sum xuê, lại được những con lộ quan trọng có sẳn và sắp mở thêm nhiều con lộ bọc quanh, tạo nên một thắng cảnh hữu tình, trù phú, báo hiệu một= tương lai sáng lạn về văn hóa, lịch sử và kinh tế của vùng địa linh nhân kiệt sông Tiền, sông Hậu.

 

          Thánh Tịnh Long Thành Tôn Giáo Cao Đài thuộc phái   Chiếu Minh được xây dựng từ năm 1942.

 

          Người sáng lập Thánh Tịnh là Ông Nguyễn Văn Cứ, Thánh Danh là Ngọc Minh Sắc. Ông Cứ được Ông Nguyễn Văn Kiết để cho một mẫu đất dùng để lo việc Đạo, xây dựng  chùa, không sang bán gì cả.

 

          Ông Nguyễn Văn Cứ đề xướng và điều động Bổn Đao cùng nhân sanh thiện nam tín nữ nhiều nơi đóng góp công quả, xây dựng và trùng tu Thánh Tịnh qua từng đợt như sau:

 

          Năm 1942 khởi công xây dựng, chùa lá cột cây, ngang 5m, dài 9m.

 

          Năm 1944 tu sửa lần thứ nhất cũng bằng cây lá : ngang 9m, dài 12m

 

          Năm 1946 tu sửa lần thứ nhì đóng vách ván, lợp mái ngói : Ngang 14m, dài 18m. Kể cả Tây và Đông lang.

 

          Năm 1966, tu sửa lần thứ ba, xây tường gạch, mái ngói, lợp tole Thánh Tịnh được tạo thành ba gian, giữa là Chánh Điện thờ cúng, bên tả là Đông lang, dành cho phái nam, bên hữu là  Tây lang dành cho phái nữ. Chánh Điện thờ ở giữa cũng được chia làm ba phần : Ngòai vào là Hiệp Thiên Đài giữa là Cửu Trùng Đài, trong là Bát Quái Đài. Cả ba phần đều đổ la phông ngăn tầng trên.

 

          Tu sửa hòan tất thì vào ngày 10 tháng 10 năm 1969, Ông Cứ liểu đạo, đắc vị là Đẳng Giác Kim Tiên.

 

          Ngày 29 tháng 9 năm 1989 bà Cứ là Võ thị Kiên cũng Liểu Đạo, giao lại Thánh Tịnh cho anh Phạm Hữu Lợi là cháu ngọai của bà, để kế tục lo Đạo, lo Thánh Tịnh.

 

          Ngày 18 tháng 11 năm 1995, anh Phạm Hữu Lợi giao trách nhiệm lại cho em ruột là Phạm Trường Thọ. Phạm Trường Thọ  cho bổn Đạo gìn giữ riêng phạm vi đất ngang 20m, dài 53m (kể chung phạm vi đất đã xây dựng và chưa xây dựng) và được Sở Địa Chính tỉnh Cần Thơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Thánh Tịnh Long Thành vào ngày 22 tháng 01 năm 2003, trừ đường đi còn : ngang 20m, dài 51,2m. tổng diện tích 1030,2m 2.

 

          Đến năm 2009. vì Thánh Tịnh xây dựng theo thời chiến tranh và trãi qua thời gian khá dài, đã xuống cấp nghiêm trọng, nên được phép xây dựng của Sở Xây Dựng Thành Phố Cần Thơ số 07/GPXD đề ngày 03/03/2009. Thánh Tịnh xây dựng lại kiên cố như sau:

 

          *Vì chu vi đất hẹp nên Thánh Tịnh xây dựng hai tầng: Ngang 13m, dài 29m. Tầng dưới làm Hội Trường Liên Giao Đời Đạo, tầng trên có đủ Tam Đài là Bát Quái Đài, Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài đúng ngôi Thánh Thể Đức Chí Tôn.

 

         

 

II- TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH ĐẠO

CỦA THÁNH TỊNH LONG THÀNH

ĐƯỢC THÀNH LẬP BAN CAI QUẢN VÀ BAN TRỊ SỰ

 

          -Ban Cai Quản chăm lo việc tổ chức lễ hội, kế họach xây dựng, điều động nhân lực.

 

          -Ban Trị Sự : chăm lo sổ sách, hành chánh, sổ bộ Đạo.

 

          Nhiệm kỳ 1 (gồm 8 năm) 1948-1956.

 

                   Ông Lý Văn Nhãn                : Chánh Hội Trửơng

                   Ông Nguyễn Văn Thọai       : Phó Hội Trưởng

 

Nhiệm kỳ 2 (gồm 3 năm) 1956-1959.

 

                   Ông Lê Văn Húynh              : Chánh Hội Trửơng

                   Ông Hùynh Văn Danh         : Chánh Trị Sự

 

                  

 

Nhiệm kỳ 3 (gồm 2 năm) 1959-1961.

 

                   Ông Lê Văn Húynh              : Chánh Hội Trửơng

Ông Nguyễn Văn Trượng    : Phó Hội Trửơng

                   Ông Lê Phát Thọai               : Chánh Trị Sự

 

Nhiệm kỳ 4 (gồm 3 năm) 1961-1964.

 

                   Ông Lê Văn Húynh              : Chánh Hội Trửơng

          Ông Dương Hiếu Sen           : Phó Hội Trửơng

                   Ông Lâm Văn Năm              : Chánh Trị Sự

Ông Nguyễn Văn Tấn           : Phó Trị Sự

 

                            

 

Nhiệm kỳ 5 (gồm 3 năm) 1964-1967.

 

                   Ông Lê Văn Húynh              : Chánh Hội Trửơng

Ông Dương Hiếu Sen           : Phó Hội Trửơng

                   Ông Nguyễn Văn Giáo         : Chánh Trị Sự

Ông Lâm Văn Năm              : Chánh Trị Sự

Ông Nguyễn Văn Tấn           : Phó Trị Sự 

 

Nhiệm kỳ 6 (gồm 11 năm) 1967-1978.

 

                   Ông Võ Văn Dung                : Chánh Hội Trửơng

Ông Đặng Thiên Kiêm         : Phó Hội Trưởng

Ông Lâm Văn Năm              : Chánh Trị Sự

Ông Lê Văn Thôn                 : Phó Trị Sự

Ông Nguyễn Văn Thông       : Phó Trị Sự

 

Nhiệm kỳ 7 (gồm 3 năm) 1978-1981.

 

                   Ông Võ Văn Dung                : Chánh Hội Trửơng

Ông Hà Tấn Việt                   : Chánh Trị Sự

Bà Nguyễn Thị Mười            : Chánh Trị Sự nữ phái

 

Nhiệm kỳ 8 (gồm 6 năm) 1981-1987.

 

                   Ông Võ Văn Dung                : Chánh Hội Trửơng

Ông Lê Văn Sáu                   : Phó Hội Trưởng

                   Ông Hà Tấn Việt                  : Chánh Trị Sự

Bà Nguyễn Thị Mười            : Chánh Trị Sự nữ phái

Ông Nguyễn Ánh Thanh      : Phó Trị Sự

 

Nhiệm kỳ 9 (gồm 3 năm) 1987-1990.

 

                   Ông Lê Văn Sáu                    : Chánh Hội Trửơng

Ông Đặng Hữu Cây              : Phó Hội Trửơng

 

                

Nhiệm kỳ 10 (gồm 4 năm) 1990-1994.

 

                   Ông Đặng Hữu Cây              : Chánh Hội Trửơng

Ông Quảng Văn Hai             : Phó Hội Trửơng

 

Nhiệm kỳ 11 (gồm 5 năm) 1994-1999.

 

                   Ông Lâm Văn Năm              : Chánh Hội Trửơng

Ông Đặng Thiên Kiêm         : Phó Hội Trưởng

Ông Quảng Văn Hai            : Phó Hội Trửơng

 

Nhiệm kỳ 12 (gồm 2 năm) 1999-2001.

 

                   Ông Quảng Văn Hai             : Chánh Hội Trửơng

                   Ông Quảng Văn Quang        : Phó Hội Trưởng

Ông Đặng Thiên Kiêm         : Phó Hội Trưởng

 

Nhiệm kỳ 13 (gồm 5 năm) 2001-2006

 

                   Ông Quảng Văn Hai             : Chánh Hội Trửơng

 

Nhiệm kỳ 14 (gồm 4 năm) 2006-2010.

 

Ông Hà Tấn Việt                  : Quyền  Hội Trửơng

Bà Lê Thị Tám                     : Phó Hội Trưởng

 

   

 

III- THÀNH TÍCH CỦA THÁNH TỊNH LONG THÀNH

 

Ngoài việc chăm lo Đạo sự của Nhị Ban nói riêng, của Bổn Đạo nói chung, Thánh Tịnh Long Thành luôn cố gằng hết sức mình đóng góp rất nhiều cho cách mạng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như sau:

 

Thánh Tịnh Long Thành thành lập từ năm 1942 đến nay đã 67 năm. từ đó đã có Ban Cai Quản và Ban Trị Sự nối tiếp nhau làm nhiệm vụ đạo sự trong thời chiến tranh bom đạn. Trong hai cuộc kháng chiến, Thánh Tịnh Long Thành cũng là nơi nuôi dạy thanh niên trốn quân dịch, xin miễn hoãn dịch cho họ, vận động phong trào binh vận và nuôi dấu cán bộ nên trong Nhị Ban có những thành tích đáng kể được đạo ghi lưu lại như:

 

-Ông Đặng Thiên Kiêm, năm 1961 làm Chánh thông sự, rồi Chánh hội trưởng Long Thành, là Thanh niên tiền phong Năm 1945, rồi Ban chấp hành Cao Đài cứu quốc, gia đình liệt sĩ con Đặng Thành Sơn hy sinh 1987.

 

-Ông Hà Thanh Phong, năm 1964 làm Phó từ hàn rồi Chánh tử hàn Long Thành. cũng là Thanh niên tiền phong năm 1945, rồi Thanh niên cứu quốc, đến 1957 bị ngụy quyền bắt tù 3 năm.

 

-Ông Lâm Văn Năm, năm 1961 làm Chánh trị sự Long Thành, là Thanh niên tiền phong năm 1945, rồi cán sự Nông hội, Ban Phụ Lão Cứu Quốc, Hội đồng nhân dân, Ủy viên Mặt trận xã Long Tuyền, Vợ Huỳnh Thị Liền được nhà nước phong tặng mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình liệt sĩ con là Lâm Cẩm Xương và Lâm Văn Út thời 9 năm hy sinh năm 1963.

 

-Bà Nguyễn Thị Mười, năm 1967 làm Chánh trị sự nữ phái Long Thành, vừa là Ban chấp hành phụ nữ cứu quốc xã giai xuân. Khi gia đình về Long Hòa làm Phụ nữ cứu quốc, Ủy viên Mặt trận tổ quốc, Hội đồng nhân dân khóa 3 xã Long Hòa.

 

-Ông Quảng Văn Quang, năm 1948 làm Từ Hàn Long Thành. là Xã đội trưởng Giai Xuân năm 1975.

 

-Ông Lê Văn Thôn, năm 1967 làm phó Trị sự Long Thành. đã có công thời chống pháp cho mượn nhà làm cơ quan của Ban công tác thành, thị xã Cần Thơ, Tỉnh Cần Thơ.

 

-Ông Lê Văn Út năm 1967 làm Từ hàn Long Thành. là người có công dẫn đường trực tiếp cơ sở địa phương xã Long Hòa. đến tiếp thu 1975 làm Ban an ninh ấp Bình yên, xã Long Hòa, Ủy viên thư ký Ủy ban, Phó chủ tịch Ủy ban, Đảng Ủy viên chỉ đạo khối dân vận Long Hòa. 

 

- Ông Lê Phát Thoại năm 1959 làm Chánh trị sự Long Thành. vừa là Chủ tịch Ủy ban xã Giai Xuân, sau làm Phó Từ Hàn Hội Thánh vừa là Tài vụ cơ quan tỉnh ủy Cần Thơ đến giải phóng.

 

-Ông Huỳnh Văn Danh, năm 1956 làm Chánh trị sự Long Thành. vừa là Cán bộ mật xã Thới An Đông.

 

-Ông Nguyễn Quốc Khánh, đương sự vào Long Thành được chủ chùa lo hầm bí mật để ẩn náo, đến 1959 là phó Bí thư xã Long Tuyền, đến 1975 Chủ tịch xã Long Tuyền.

 

Họ đạo có 1 mẹ Việt Nam anh hùngnhiều gia đình liệt sĩ, nhiều gia đình có công với đất nước.

 

         

 

IV- KẾT LUẬN :

 

Thánh Tịnh Long Thành đã có sẳn chiều dầy lịch sử đáng tự hào của các bậc Tiền bối Tiền hiền vừa phụng đạo vừa phục vụ quê hương trên tinh thần yêu nước sâu sắc giữa thời chiến tranh bom đạn, Sau hòa bình Ban Qui Ước ra đời đã giúp cho Thánh Tịnh rất nhiều về luật đạo, luật đời để vươn lên và phát triển. 

 

          Suốt 67 năm qua, tổ chức hành chánh Đạo của Thánh Tịnh Long Thành vẫn giữ  vững được kỷ cương chặt chẽ, có nội quy Đạo luật nghiêm minh, có phân công trách nhiệm rõ ràng, đòan kết tương trợ giữa Nhị Ban, chưa hề xảy ra bất hòa trong nội bộ hoặc bị Đạo hay nhân dân chê trách. Được như vậy là nhờ Nhị Ban cũng như tòan thể Bổn Đạo luôn luôn một lòng tuân thủ Đạo luật, chăm lo Đạo sự, đòan kết với mọi Chi Phái, Tôn Giáo. Chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương chính sách pháp luật Nhà Nước, giáo dục truyền thống bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc, làm vui Đời như lời Bác Hồ dạy.

 

          Hằng năm Thánh Tịnh Long Thành tổ chức Đại lễ Liên Giao Đời Đạo ngày 10 tháng 10 âm lịch, cũng là Đại Lễ kỷ niệm thành lập ngôi Thánh Tịnh, kỷ niệm Khánh Thành, cũng là ngày kỷ niệm Tri Ân Tiền Bối, có mời đông đủ Chánh quyền,.Mặt Trận, Tôn giáo các cấp. Các Tôn Giáo, Hội Thánh, Cơ Quan Đạo, Thánh Thất, Thánh Tịnh, Điện, Đàn cùng đạo tâm nam nữ tham dự trên 300 vị. Tình Liên Giao Đời Đạo của Thánh Tịnh Long Thành là không phân biệt sắc màu Tôn Giáo, Đạo Đời. Hằng tháng nơi Thánh Tịnh đều có tổ chức cúng thường lệ vào ngày 14 và 29 âm lịch.Ngày cúng có bình Thánh giáo và sinh hoạt đạo.

 

Từ năm 1978 đến nay, Thánh Tịnh Long Thành có tổ chức chữa bệnh miễn phí giúp cho Bổn Đạo và nhân sanh, đem lại sự an vui cho bà con.

       Tinh thần liên giao đời đạo, hoằng dương chánh pháp của Thánh Tịnh Long Thành ngày thêm phát triển mở rộng. Chúng tôi rất mong được sự ủng hộ nhiệt tình của các cấp chính quyền nhiều hơn nữa, cũng như sự hổ trợ của toàn đạo và nhân sanh. 

 

Qua tìm hiểu, nghiên cứu tập thể về Thánh Tịnh Long Thành, về vị trí tọa lạc, qua quá trình hình thành và phát triển, về tổ chức Hành Chánh Đạo quy mô chặt chẽ, về thành tích Đạo với Đời của Bổn Đạo Nhị Ban, về cá nhân từng thành viên nêu trên đây, chúng tôi có thể nói chắc rằng, Thánh Tịnh Long Thành là một niềm tự hào lớn, không chỉ của địa phương mà của cả nước.

 

 

             DANH SÁCH HÀNH HƯƠNG CÔNG QUẢ

                                NGÀY LỄ TRÍ THẠCH

 

NGÀY

TÊN

ĐỊA CHỈ

TIỀN

Lễ Trí Thạch

TT Huệ Đông Thiên

Bạc Liêu

150000

Lễ Trí Thạch

TT Long Phú

Bến Lức L.A

500000

Lễ Trí Thạch

TT Liên Hoa Cửu Cung

Thủ Đức TPHCM

300000

Lễ Trí Thạch

Thiện Tri Đàn

Ba Tri BT

600000

Lễ Trí Thạch

HT Cao Thượng Bửu Tòa

Bạc Liêu

2000000

Lễ Trí Thạch

TT Ô Môn

Ô Môn TPCT

100000

Lễ Trí Thạch

HT Cao Đài Thượng Đế

Cần Thơ

500000

Lễ Trí Thạch

Tây Thành TT

Cần Thơ

500000

Lễ Trí Thạch

Hưng Thọ Tự

Long Tuyền

250000

Lễ Trí Thạch

TT Thốt Nốt

Thốt Nốt CT

300000

Lễ Trí Thạch

Nam Thành TT

TP HCM

500000

Lễ Trí Thạch

Tòa Thánh CĐVN

Tiền Giang

2000000

Lễ Trí Thạch

Chùa Bửu Thành Tân Nhơn

 

50000

Lễ Trí Thạch

Chùa Bửu Thành (Sư Quang)

Long Tuyền

300000

Lễ Trí Thạch

Nữ Đoàn Đại Đạo

TP HCM

500000

Lễ Trí Thạch

Tt Thiên Trước

TPCT

500000

Lễ Trí Thạch

TT Trà Nóc

 

300000

Lễ Trí Thạch

TT Hỏa Tiên

Vị Thanh HG

250000

Lễ Trí Thạch

TT Thị Trấn Cần Giuộc

Long An

1800000

Lễ Trí Thạch

Tt Trước Mai

Trường Thành

200000

Lễ Trí Thạch

HT Thiên Khai Huỳnh Đạo

TP HCM

100000

Lễ Trí Thạch

HT Tân Chiếu Minh

Vĩnh Long

190000

Lễ Trí Thạch

Linh Quang Tự (Sư cô Minh)

Hậu Giang

300000

Lễ Trí Thạch

Tt Ngọc Nữ Đài

Trà Nóc

100000

Lễ Trí Thạch

Tt Chiếu Minh Ẩn Giáo

Tân Thới

200000

Lễ Trí Thạch

CQ PTGL Đại Đạo

TP HCM

200000

Lễ Trí Thạch

TT Hải Sơn Liên Giao

Rạch Giá

700000

Lễ Trí Thạch

Tt Chiếu Minh Minh Nguyệt

Trà Nóc

200000

Lễ Trí Thạch

Tt Tịnh Trường Kỳ Minh

Phụng Hiệp

200000

Lễ Trí Thạch

Tt Chiếu Minh Tự

Vĩnh Long

200000

Lễ Trí Thạch

Cơ sở may từ thiện

Ô Môn

100000

Lễ Trí Thạch

Triệu Thanh Quyền

Tây Ninh

200000

Lễ Trí Thạch

Võ Văn Đẹp

Tây Ninh

50000

Lễ Trí Thạch

Hồ Phước Kế

 

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Văn Đàng

 

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Văn Tần

Giai Xuân

50000

Lễ Trí Thạch

Võ Thị Kim Nhang

 

50000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Lệ Thủy

 

50000

Lễ Trí Thạch

Huỳnh Thị Giáp

Vị Thanh

200000

Lễ Trí Thạch

Đổ Văn Bé

 

200000

Lễ Trí Thạch

Huỳnh Thị Sau

Vị Thanh

100000

Lễ Trí Thạch

Võ Thị Thu An

Vị Thanh

100000

Lễ Trí Thạch

Bạch Hoàng Lâm

Vị Thanh

100000

Lễ Trí Thạch

Thiện Thông Thành

Thới Long

1000000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Kiệm

 

100000

Lễ Trí Thạch

Pt Tâm Đăng

 

50000

Lễ Trí Thạch

Pt Tâm Chơn

 

50000

Lễ Trí Thạch

Pt Hạnh Châu

 

50000

Lễ Trí Thạch

Pt Phước Tấn

 

50000

Lễ Trí Thạch

Pt Tâm Phúc

 

50000

Lễ Trí Thạch

Phạm Thị Cẩm Vân

 

100000

Lễ Trí Thạch

Cô Năm Thủy

Định Môn

50000

Lễ Trí Thạch

Quách Văn Sáng

Bạc Liêu

50000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Hận

Long Hòa

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Thà

Long Hòa

30000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Bé Ba

Rạch Cam

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Văn Chín

Long Tuyền

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Lý

Rạch Chanh

500000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thanh Long

Rạch Cam

1000000

Lễ Trí Thạch

Quảng Thị Mười

Long Hòa

200000

Lễ Trí Thạch

Ngô Kim Chi

Rạch Cam

50000

Lễ Trí Thạch

Ngô Kim Thủy

Rạch Cam

50000

Lễ Trí Thạch

Ngô Tấn Kiệt

Rạch Cam

50000

Lễ Trí Thạch

Trần Đức Thảo

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Thảo Trang

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Long

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Thinh

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Quý

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Văn Hòa

 

100000

Lễ Trí Thạch

Phan Thị Hạnh

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Tuyền Đức Duy

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Nguyễn Đức Tín

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Nguyễn Bắc Bảo

 

100000

Lễ Trí Thạch

Đổ Văn Lưu

 

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Nga

 

100000

Lễ Trí Thạch

Ngô Thị Lời

 

100000

Lễ Trí Thạch

Tám Phước Hương

 

50000

Lễ Trí Thạch

Ngô Tú Phong

 

50000

Lễ Trí Thạch

Tăng Phục Hương

 

50000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Út

 

100000

Lễ Trí Thạch

Huỳnh Thị Huệ

 

500000

Lễ Trí Thạch

Minh Chiếu Tâm

 

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Diệu

 

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Bảo Thanh Giang

 

100000

Lễ Trí Thạch

Như Hoa

 

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Hồng Thọ

 

100000

Lễ Trí Thạch

Đoàn nữ Thanh Trang

 

100000

Lễ Trí Thạch

Đoàn Trần Đạt

 

200000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Hiệp

 

300000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Phúc

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Văn Đứcf

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Hiền

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Hiếu

 

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Dưỡng

 

40000

Lễ Trí Thạch

Cô Khiêm

Chợ Rạch Cam

500000

Lễ Trí Thạch

Hãi Yến

Chợ Rạch Cam

200000

Lễ Trí Thạch

Hà Thị Tám

Chợ Rạch Cam

200000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Văn Điều

 

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Mum

Long Hòa

200000

Lễ Trí Thạch

Bạch Liên Nguyên

Thới Thạnh

100000

Lễ Trí Thạch

Gđ Phú Mỹ

Cần Thơ

500000

Lễ Trí Thạch

Huỳnh Thị Sáng

Cần Thơ

100000

Lễ Trí Thạch

Cô Chín Xẻo Cao

Rạch Sỏi

50000

Lễ Trí Thạch

Cao Hạnh Duy

 

100000

Lễ Trí Thạch

Huỳnh Văn Còi

 

50000

Lễ Trí Thạch

Lê Thị E

Giai Xuân

20000

Lễ Trí Thạch

Trần Văn Tuôi

Cái Răng

100000

Lễ Trí Thạch

Năm Hiếu

 

40000

Lễ Trí Thạch

Lê Kim Hoàng

Giai Xuân

50000

Lễ Trí Thạch

Hà Thị Dở

Giai Xuân

50000

Lễ Trí Thạch

Muội Bỉnh

Thới Thạnh

50000

Lễ Trí Thạch

Năm Huệ

 

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Xuân

Rạch Gòi

50000

Lễ Trí Thạch

Thái Ngọc Trầm

Thới Lai

200000

Lễ Trí Thạch

Đặng Thanh Tòng

Long Tuyền

100000

Lễ Trí Thạch

Lê Thị Thu Hài

Giai Xuân

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Văn Nhựt

Long Hòa

200000

Lễ Trí Thạch

Cô Tư Sậu

Long Hòa

100000

Lễ Trí Thạch

Lâm Kim Em

Long Hòa

100000

Lễ Trí Thạch

Cô 8 Phẩm nhà máy

Long Hòa

80000

Lễ Trí Thạch

Trần Phú Nhuận

 

100000

Lễ Trí Thạch

Lò bún

Vàm Nhon

50000

Lễ Trí Thạch

Lâm Thị Hạnh

Thới Long

500000

Lễ Trí Thạch

Lê Thị Mỹ Hương

Trường Long

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Năm

Tây Thành TT

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Thường

Rạch Gòi

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Châu

Giai Xuân

100000

Lễ Trí Thạch

Phạm Ngọc Hưng

Vàm Nhon

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Văn Mười Em Nhỏ

Long Hòa

50000

Lễ Trí Thạch

Tạ Xuân Thái

Cái Răng

50000

Lễ Trí Thạch

Năm Hiếu

Rạch Gòi

40000

Lễ Trí Thạch

Dương Hiếu Hạnh

Long Hòa

50000

Lễ Trí Thạch

Lê Văn Huê

Thới An Đông

20000

Lễ Trí Thạch

Hai Được

Rạch Cam

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Tô Huệ

Thới Long

200000

Lễ Trí Thạch

Ngô Thị Túy Phượng

Trà Nóc

100000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Tuyết Hạnh

Trường Xuân

500000

Lễ Trí Thạch

Trần Thị Hồng Nhung

Thới Long

500000

Lễ Trí Thạch

Cô Tư + Cô Năm

Đông Bà Hơi

200000

Lễ Trí Thạch

Lê Thị Đào

Rạch Gòi

100000

Lễ Trí Thạch

Phạm Văn Dương

Rạch Gòi

100000

Lễ Trí Thạch

Lê Thị Tiếng

Rạch Gòi

50000

Lễ Trí Thạch

Lê Thị Ri A

Cần Thơ

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Cửu

Long Hòa

200000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Văn Yên

Rạch Cam Nhỏ

100000

Lễ Trí Thạch

Dương Thị Mỹ Dung

 

100000

Lễ Trí Thạch

Cô Sáu

Thới Long

100000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Trị

Thới An Đông

5000000

Lễ Trí Thạch

Bạch Liên Chuyển

Thới Long

5000000

Lễ Trí Thạch

Bửu Giác Hương

Thới Lai

5000000

Lễ Trí Thạch

Bửu Định Hương

Thới Long

1000000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Đức Hạnh

TP HCM

100000

Lễ Trí Thạch

Ngọc Ánh Nghĩa

Bình Thủy

100000

Lễ Trí Thạch

Bửu Tiền Hương

Thới Long

19000000

Lễ Trí Thạch

Bạch Liên Thiền

Long Hòa

200000

Lễ Trí Thạch

Nguyễn Thị Kỉnh

Giai Xuân

50000

     

Cộng

     

65410000

 

 

                                           -  

 
       

       DANH SÁCH HÀNH HƯƠNG CÔNG QUẢ

 

                         SAU TRÍ THẠCH

 
       

NGÀY

TÊN

ĐỊA CHỈ

TIỀN

24 / 2  Kỷ Sửu

Cơ Quan PTGLĐĐ

TP HCM

500000

24 / 2  Kỷ Sửu

Chù Linh Quang (Sư cô Minh)

Tầm Du

1400000

24 / 2  Kỷ Sửu

Thiên Nhiên Thành

Thới Long

10000000

24 / 2  Kỷ Sửu

Bạch Liên Chuyển

Thới Long

5000000

24 / 2  Kỷ Sửu

Nguyễn Văn Quyền

Thới Long

200000

24 / 2  Kỷ Sửu

Nguyễn Văn Bé

Thới Long

800000

24 / 2  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Hằng

Thới Long

200000

24 / 2  Kỷ Sửu

Trần Thị Tô Huệ

Thới Long

300000

24 / 2  Kỷ Sửu

Trần Thị Hồng Nhung

Thới Long

500000

24 / 2  Kỷ Sửu

Chế Hiển + Thanh

Thới Long

420000

14 / 3  Kỷ Sửu

Phạm Thị Hoa

Long Hòa

420000

14 / 3  Kỷ Sửu

Phạm Thị Ngọc

Long Hòa

10000

20 / 3  Kỷ Sửu

Nhà hão tâm

Long Hòa

100000

20 / 3  Kỷ Sửu

Khải + Long + Hưng

Thới Long

400000

20 / 3  Kỷ Sửu

TT Tân Quý Tây

Thới Long

100000

20 / 3  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Xuân Tươi

Vàm Nhon

100000

29 / 3  Kỷ Sửu

Lê Kim Hoàng

Giai Xuân

10000

29 / 3  Kỷ Sửu

Hà Thị Dở

Giai Xuân

10000

12 / 4  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Bích Loan

Vàm Nhon

200000

12 / 4  Kỷ Sửu

Hồng Huệ

Thuốc Tây Ô Môn

100000

12 / 4  Kỷ Sửu

Nguyễn Hữu Nghĩa

Rạch Sỏi

350000

12 / 4  Kỷ Sửu

Anh Hậu + Lê

Nông Trường

100000

12 / 4  Kỷ Sửu

Cô Bích (chị 5 Bia)

Ô Môn

300000

14 / 4  Kỷ Sửu

Anh Việt + Hạnh

Bảy Ngàn

200000

14 / 4  Kỷ Sửu

Thiên nhiên Vạn

Long Hòa

10000

14 / 4  Kỷ Sửu

Phạm Thị Thủy

Long Hòa

50000

14 / 4  Kỷ Sửu

Phạm Thị Chín

Long Hòa

20000

14 / 4  Kỷ Sửu

Phạm Thị Hoa

Long Hòa

10000

14 / 4  Kỷ Sửu

Bửu Đức Hương

Phong Điền

300000

14 / 4  Kỷ Sửu

Bửu Giác Hương

Thới Lai

5000000

14 / 4  Kỷ Sửu

Hà Thị Thùy

Long Tuyền

2000000

14 / 4  Kỷ Sửu

Huynh Nghĩa

Vĩnh Long

3000000

14 / 4  Kỷ Sửu

Phan Ngân Hà

Vĩnh Long

500000

14 / 4  Kỷ Sửu

Lê Thị Vui

Khoán Châu

100000

14 / 4  Kỷ Sửu

Phan Ngươn Khoa

TP HCM

1800000

14 / 4  Kỷ Sửu

Triệu Ngọc Dung

Long Tuyền

1800000

29 / 6  Kỷ Sửu

Dương Hiếu Hạnh

Long Hòa

50000

29 / 6  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Cửu

Long Hòa

50000

29 / 6  Kỷ Sửu

Trần Văn Vuông

Long Hòa

50000

29 / 6  Kỷ Sửu

Ngô Thị Bé Hai

Ngô Thị Bé Hai

40000

29 / 6  Kỷ Sửu

Trần Thị Tư

Thới An Đông

100000

29 / 6  Kỷ Sửu

Lâm Phương Thảo

 

20000

29 / 6  Kỷ Sửu

Nguyễn Văn Trị

 

50000

29 / 6  Kỷ Sửu

Lê Thị Tám

Long Hòa

30000

29 / 6  Kỷ Sửu

Đặng Văn Liền

Long Tuyền

30000

29 / 6  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Thanh Hương

Long Hòa

10000

29 / 6  Kỷ Sửu

Trần Thị Dưỡng

 

20000

29 / 6  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Tư

 

40000

29 / 6  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Thà

Long Hòa

30000

29 / 6  Kỷ Sửu

Phan Thị Hoa

 

50000

29 / 6  Kỷ Sửu

Công Văn Trực

 

30000

29 / 6  Kỷ Sửu

Khưu Ngọc Thủy

Bình Thủy

25000

29 / 6  Kỷ Sửu

Khưu Ngọc Vinh

Bình Thủa

25000

10 / 7  Kỷ Sửu

Ngọc Tuyết Tiên

Việt kiều Mỹ

18000000

10 / 7  Kỷ Sửu

Lê V Tô + Nguyễn T Tuyết

Cái Bè, Tiền Giang

2000000

10 / 7  Kỷ Sửu

Thiên Nhiên Thường

Bà Đầm

1000000

10 / 7  Kỷ Sửu

Trần Phú Lộc

Cần Thơ

1000000

10 / 7  Kỷ Sửu

Trần T. Hạnh Phúc

Bảy Ngàn

500000

10 / 7  Kỷ Sửu

Trần Thị Tuyết Mai

Bảy Ngàn

500000

10 / 7  Kỷ Sửu

Hà Thị Đối

Long Tuyền

1100000

10 / 7  Kỷ Sửu

Quảng Thị Thanh Xuân

Long Hòa

500000

10 / 7  Kỷ Sửu

Ngọc Ánh Sơn

Giai Xuân

50000

10 / 7  Kỷ Sửu

Trần Bá Phong

Bảy Ngàn

5000000

10 / 7  Kỷ Sửu

Trần Triết Trung

 

3000000

14 / 7  Kỷ Sửu

Võ Huấn Luyện

 

100000

14 / 7  Kỷ Sửu

Hồ Thị Sáu

 

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Dì Mười

Tân Quới

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Huỳnh Văn Lê

 

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Lê Văn Bạc

 

100000

14 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Văn Hòa

 

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Võ Văn Tiêu

 

100000

14 / 7  Kỷ Sửu

Lư Đức

 

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Mạch Quang Siêu

 

100000

14 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Thư

 

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Thanh Thúy

 

10000

14 / 7  Kỷ Sửu

Bạch Liên Cung

 

100000

14 / 7  Kỷ Sửu

Thiên Nhiên Phương

Thới An Đông

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị kỉnh

Giai Xuân

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Ngọc Ánh Long

Long Hòa

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Thà

Long Hòa

30000

14 / 7  Kỷ Sửu

Phạm kim Thi

Long Hòa

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Phạm Thị Hoa

Long Hòa

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Lê Thị Út Hạnh

Trường Long

100000

14 / 7  Kỷ Sửu

Ngô Kim Chi

 

100000

14 / 7  Kỷ Sửu

Lê Kim Hoàng

Giai Xuân

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Má Be He

Giai Xuân

10000

14 / 7  Kỷ Sửu

 Bác Ba

Rạch Cam

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Ngọc Ánh Huyền

Giai Xuân

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Dương Hiếu Hạnh

Long Hòa

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Võ Thị Sổ

Bính Thủy

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Thanh Lâm (Quắn)

Long Hòa

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Kim Hai

 

30000

14 / 7  Kỷ Sửu

Đoàn Thị Bảy

 

200000

14 / 7  Kỷ Sửu

Lê Kim Hồng

Thới An Đông

1000000

14 / 7  Kỷ Sửu

Lê Thị E

Giai Xuân

620000

14 / 7  Kỷ Sửu

Lê Nguyễn Hải Đăng

 

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Trần Văn Thái

 

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Lê Thị Thêm

 

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Út

 

10000

14 / 7  Kỷ Sửu

Lâm Ngọc Châu

 

10000

14 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Tiến

 

10000

14 / 7  Kỷ Sửu

Lâm Kim Em

Long Hòa

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Phan Thị Loan

 

30000

14 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Kim Chi

 

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Quảng Văn Việt

Thới An Đông

20000

14 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Bích Hộp

 

30000

14 / 7  Kỷ Sửu

Quảng Thị Hoa

Thới An Đông

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Trần Thị Hồng Nhung

Thới Long

200000

14 / 7  Kỷ Sửu

Phan Thu Em

 

100000

14 / 7  Kỷ Sửu

Phạm Trường Thọ

Long Hòa

10000

14 / 7  Kỷ Sửu

Võ Văn Tư

 

50000

14 / 7  Kỷ Sửu

Võ Kim Loan

 

100000

26 / 7  Kỷ Sửu

Phổ Chơn

Kiên Giang

1000000

26 / 7  Kỷ Sửu

Bửu Chơn Hương

Cần Thơ

5000000

26 / 7  Kỷ Sửu

Trần Văn Thẹn

Bến đò đu đủ

200000

26 / 7  Kỷ Sửu

Mã Thị Láng

Việt Kiều Mỹ

18000000

26 / 7  Kỷ Sửu

Nonica

Việt Kiều Mỹ

1800000

26 / 7  Kỷ Sửu

Hồ Hoàng An

Bạc Liêu

200000

26 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Kim Loan

 

500000

26 / 7  Kỷ Sửu

Lê Ngọc Hoa

Cần Thơ

200000

26 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Minh Anh

Cần Thơ

200000

26 / 7  Kỷ Sửu

Diểm Trang

Cần Thơ

100000

26 / 7  Kỷ Sửu

Mã thị Ky

Việt Kiều Mỹ

3600000

26 / 7  Kỷ Sửu

Cô Nga

Vĩnh Long

1000000

26 / 7  Kỷ Sửu

Lê Văn Ri

Cái Bè

500000

26 / 7  Kỷ Sửu

Bửu Đức Hương

Phong Điền

1000000

26 / 7  Kỷ Sửu

Thích Minh Đức

Vàm Nhon

200000

26 / 7  Kỷ Sửu

Huynh Mười Hân

Thới Long

100000

26 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Đức Hạnh

TP HCM

100000

26 / 7  Kỷ Sửu

Chương Thị Ten

TP HCM

100000

26 / 7  Kỷ Sửu

Cô Tư + Cô Năm

TP HCM

200000

26 / 7  Kỷ Sửu

Ngọc Ánh Long

Long Hòa

1000000

26 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Chín

Phong Điền

200000

26 / 7  Kỷ Sửu

Cam Lai Thạch

Việt Kiều Mỹ

900000

26 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Hãi Châu

TP HCM

3000000

26 / 7  Kỷ Sửu

Trần Thị Nguyệt

Đất sét

3000000

26 / 7  Kỷ Sửu

Lê Hoàng Tiến

Bình Dương

500000

26 / 7  Kỷ Sửu

Nguyễn Thanh Thủy

Bình Dương

500000

26 / 7  Kỷ Sửu

Trịnh Ngọc Long

Việt Kiều Mỹ

18000000

12 / 8  Kỷ Sửu

La Sơn Minh

Việt Kiều Mỹ

18000000

12 / 8  Kỷ Sửu

 

Việt Kiều Mỹ

34000000

12 / 8  Kỷ Sửu

 

Việt Kiều Mỹ

12913000

15 / 8  Kỷ Sửu

Dương Thị Sáu

Rạch Cam

200000

15 / 8  Kỷ Sửu

Thanh Bạch

Xóm chài

50000

15 / 8  Kỷ Sửu

Hoa Kim

Tân Chiếu Minh

200000

15 / 8  Kỷ Sửu

Phan Lương Ánh

Cần Thơ

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Thanh Bạch

Xóm chài

50000

15 / 8  Kỷ Sửu

Hoa Kim

Tân Chiếu Minh

200000

15 / 8  Kỷ Sửu

Phan Lương Ánh

Cần Thơ

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Ngọc Kim Duyên

Long Hòa

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Phan Thị Nguyệt

Cần Thơ

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Nguyễn Hữu Truyền

Long Tuyền

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lưu Thị Khổng

Ba Tri

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lê Văn Huy

Cái Bè

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Hồ Thị Khuê

Cái Bè

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lê Thị Thới

Ba Tri

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Trần Thị Thiệt

Ba Tri

200000

15 / 8  Kỷ Sửu

Hiền Huynh Phan

Châu Đốc

50000

15 / 8  Kỷ Sửu

Vạn Sương Mai

Mỹ Lương, Cái Bè

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Vạn Hoàng

Mỹ Lương, Cái Bè

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lê Thị Kim Loan

Mỹ Lương, Cái Bè

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lê Công Khanh

Mỹ Lương, Cái Bè

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lâm Quốc Phăng

Long Hòa

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Bửu Chơn Hương +Thu Hương

Cần Thơ

4000000

15 / 8  Kỷ Sửu

Phụng, Thủy, Mai

Ba Tri

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Cô Chí

Cần Thơ

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Huynh Tỷ Út Thơ

Cần Thơ

3000000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lê Thị Nguyệt

An Bình, Vĩnh Long

1000000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lể Hoàng Lộc

An Bình, Vĩnh Long

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Kiệm

An Bình, Vĩnh Long

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Nguyễn Chữ Tôn

An Bình, Vĩnh Long

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Huỳnh Ngọc Kim

TP HCM

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Trần Văn Bùi

Ấp 6, An Thủy, BaTri

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Phạm Thị Thẩm

Ấp 6, An Thủy, BaTri

200000

15 / 8  Kỷ Sửu

Ngọc Ánh Hoa

Long Tuyền

1300000

15 / 8  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Ty

Rạch Cam

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Nguyễn Thị Ty

Rạch Cam

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Quảng Thị Hoa

Cần Thơ

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Nguyễn Quang Ngọc

Việt Kiều Mỹ

3600000

15 / 8  Kỷ Sửu

Trần Thị Trúc Nhã

Long Hòa

50000

15 / 8  Kỷ Sửu

Huynh Út Hão

Cần Thơ

2000000

15 / 8  Kỷ Sửu

Thiên Nhiên Hão

Thiên Trước

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Bạch Liên Cung

Tân Quới

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Võ Huấn Luyện

Cần Thơ

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lê Thị Út Hạnh

Trường Long

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Ngô Kim Chi

 

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Đoàn Thị Bảy

 

200000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lê Kim Hồng

Thới An Đông

1000000

15 / 8  Kỷ Sửu

Trần Thị Hồng Nhung

Thới Long

200000

15 / 8  Kỷ Sửu

Phan Thị Em

 

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Võ Kim Loan

 

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Trần Thị Tô Huệ

 

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Lê Thị Yên

Giai Xuân

100000

15 / 8  Kỷ Sửu

Thợ bạc Đăng Khoa

Rạch Cam

500000

15 / 8  Kỷ Sửu

Đoàn cô Hòa

Tạp hóa hẻm 12

140000

15 / 8  Kỷ Sửu

Người hão tâm

 

300000

     

Cộng

     

230153000

       

             BÁO CÁO THU CHI TỪ TRÍ THẠCH ĐẾN HIỆN NAY

Ngày lễ

thu

Xuất

 

Lễ Trí thạch

65,410,000

   

sau Trí Thạch

230,153,000

467,283,000

 
 

tổng thu

tổng xuất

còn nợ

 

295,563,000

467,283,000

-171720000

       
       

 

          

THÁNH-NGÔN

(Trích TNHT, NOEL 1925 Đức Thượng Đế dạy)

Ðức Ngọc-Hoàng-Thượng-Ðế điểm tên

mười hai người môn đệ trước hết

***

Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế Viết Cao-Ðài
Tiên Ông Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Giáo Ðạo Nam Phương

Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

Ðêm nay, 24 Décembre phải vui mầng vì là ngày của ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái-Tây (Europe).

Ta rất vui lòng mà thấy đệ-tử kính mến ta như vậy.

Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta (Nhà của M. C...). Giờ ngày gần đến, đợi lịnh nơi Ta.

Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.

CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành;
HẬU ÐỨC TẮC CƯ Thiên Ðịa cảnh.
HƯỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh.

(Mười hai chữ lớn trong ba câu trên là tên của mười hai người môn đệ trước hết là của Ðức Ngọc-Hoàng-Thượng-Ðế, còn ba chữ xiêng lớn trong câu chót là tên ba vị hầu đàn)

 

12 CHI PHÁI ĐẠO CAO ĐÀI

(Trích đàn Châu Minh,

10-1 năm Đại Đạo 32 Đinh Dậu, 9-2-1957, Đức Thượng Đế dạy

Niên Đinh Dậu, ĐẠO ba hai lẻ,
       THẦY thấy con còn rẽ chia nhau,
              Như vầy THẦY rất lòng đau,
Bởi nên THẦY mới chuyển mau hội nầy.
       Hội BÌNH LINH Thầy xây vận chuyển,
       Cho các con hội diện sum vầy,
              Để Thầy cạn lẽ phân bày,
Cho con lớn nhỏ đồng hay máy Trời.
       Thầy nhắc lại thời kỳ khai đạo,
       Buổi đầu tiên Thầy tạo Chiếu Minh,
              Rồi lần sang đến Tây Ninh,
Mở Minh Chơn Đạo công trình biết bao!
       Lập Tiên Thiên Thầy trao gánh nặng,
       Ban Chỉnh Đạo cũng đặng vẹn toàn,
              Tây Tông Vô Cực tịnh an,
Bạch Y Thầy mở liên đoàn Hậu Giang.
       Trung Hòa Phái khó toan tiến bộ,
       Tịch Cốc thi hành lố Thiên Cơ,
              Mở Minh Chơn Lý kịp giờ,
Liên Hoa Tổng Hội thời cơ anh tài.
       Rồi lần đến Cao Đài Hội Giáo,
       Mười hai chi Thầy tạo đủ rồi,
              Cao Đài Thống Nhứt ra đời,
Thầy giao con hiệp coi thời ra sao?
       Trải bao năm phong trào sôi nổi,
       Để tự con trao đổi ý nhau,
              Thời gian im bặt qua mau,
Nay Thầy xem lại vẫn màu rẽ chia!
       Sự rẽ chia tại lìa căn bản,
       Thầy phân qua, chẳng hãn tường tri,
              Thầy dạy con hiệp, con qui,
Hiệp là không nghịch, qui y chơn truyền.
       Bề hình thức tư riêng mỗi phái,
       Là ý Thầy muốn dạy các con,
              Giao tay lãnh đạo hành tròn,
Dìu đường sanh chúng, phận con làm đầu.
       Mười hai phái do đâu mà có?
       Gốc Cao Đài tách ngõ phân ra,
              Cũng như Thầy tạo cái nhà,
Có mười hai cửa vào ra tự lòng.
       Nhưng làm Chủ Nhơn Ông có một,
       Lại tỉ như giống tốt Thầy gieo,
              Mười hai thứ giống tùy theo,
Con nào muốn cấy giống nào cũng xong.
       Vỏ tuy khác mà trong vẫn gạo,
       Nấu chín rồi vẫn bảo là cơm,
              Dầu phân gạo nhỏ, gạo thơm,
Gạo nào thì cũng nuôi con no lòng.
       Đạo cũng thế, Thầy mong con trẻ,
       Dầu phái nào, chớ tẻ tách nhau,
              Dầu cho khác sắc, khác màu,
Chơn truyền có một, không cao thấp gì.
       Đâu cũng gọi TAM KỲ PHỔ ĐỘ,
       Đâu cũng THẦY, danh ngã CAO ĐÀI,
              Dầu cho đấy dở, đó hay,
Đỡ nưng mới phải, đừng bài bác nhau.

 

ĐẮC NHỨT

CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ, Tuất thời, Rằm tháng 3  Tân-Hợi (10-4-1971)

* * *

NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ Kim Viết CAO-ĐÀI Giáo Đạo Nam Phương, Thầy các con, Thầy mừng các con nam nữ.

Thi:

Con ôi! Thầy đến lúc đầu canh,

Thông thấu thần quang cõi trọn lành,

Gió núi sóng cồn chưa ổn định,

Sương mai nắng hạ vẫn xoay quanh.

Càn Khôn trẻ muốn chung cư thất,

Thiên Địa con toan động tác thành,

Ngưỡng cửa viên dung là chữ NHỨT,

Không tìm sao thấy ở hình danh.

      Giờ nầy hôm nay Thầy giáng trần nơi đây để ban ơn chung cho các con phận sự.

      Nầy các con! Trong thế tam tài, Trời mà được Một thì đàng Đạo yên ổn trong lành, soi sáng nuôi dưỡng muôn loài vạn vật không giây phút ngừng nghỉ, từ thỉ tới chung. Đất khi được Một thì vạn vật mới sinh tồn nhờ bởi sự ổn định luôn luôn, nếu không ổn định bình yên thì con người, thì vạn loại bị sự tiêu diệt bởi sụp đổ nghiêng chinh.

      Còn nhơn tức con người được Một thì con người trở nên thông suốt sáng láng, hiểu được mọi sự mọi vật, từ gần tới xa, từ đã qua tới việc sẽ đến. Đối với người thì gây được tình thương, tạo được thế giới quân bình thạnh trị. Đại để là như vậy.

      Các con ơi! Sự Đắc Nhứt đối với người tu theo ĐẠI-ĐẠO của Thầy là một then chốt quan trọng ở mục tiêu, vì mục tiêu là điểm rốt ráo. Nếu các con không nhìn nhận và nắm được lẽ Một ấy, cứ quanh quẩn bên ngoài, thì không bao giờ đến chỗ. Nếu không được Một, chẳng những các con cứ quanh quẩn bên ngoài vòng Đạo lý, mà phải chịu trong sự vô minh nê chấp riêng rẽ ở quan niệm cá nhân hay đoàn thể tông phái của mình.

      Con hãy nhìn ra trường đời thì thấy thiên hạ ai ai cũng đề cao, cũng vụ ở cái mộng Đắc Nhứt. Nhờ sự Đắc Nhứt mà con người đã đạt tới một trình độ tiến bộ về khoa học, về đời sống vật chất khá cao, tức là đúng với người xưa nói: “Nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh” là vậy.

      Đó là về phần hữu hình vật chất. Còn Thầy khai Đạo, muốn cho con Đắc Nhứt, chẳng những về phương diện hữu thể mà thôi, cả về phương diện siêu thể tinh thần là phần chính yếu vậy.

      Các con! Trước khi các con gọi rằng được Một, thì các con đã được nhiều lắm rồi. Được nhiều đến nổi các con không làm sao chứa đựng hết, khiến cho lòng con luôn luôn bận rộn, khiến cho trí não các con luôn luôn căng đầy, khiến cho thân thể các con triền miên gian khổ. Rồi từ cái được nhiều như vậy, các con nếu biết phương pháp để đạt tới sự Đắc Nhứt là chìa khóa mở cửa Đạo, hiệp với Đạo, tức hiệp với Thầy vậy. Nhưng các con nên cẩn thận khi dùng chữ Đắc Nhứt, vì không có tiếng nào để chỉ cho một nguyên lý tuyệt đối tối thượng ấy mới tạm gọi như vậy. Tiếng tạm gọi nầy là tiếng mượn ở tương đối. Hễ tương đối thì các con dễ ngộ nhận nếu không cẩn mật khi học Đạo tu hành.

      Đắc Nhứt không có nghĩa là con chỉ tôn thờ một Tôn Giáo, một lý tưởng cao đẹp nào đó. Đắc Nhứtkhông có nghĩa là các con chỉ dự một nhiệm vụ làm cho tới ngày cổi bỏ xác phàm. Đắc Nhứt cũng không phải các con chỉ có một lòng một dạ yêu Thầy mến Đạo, tỏ ra rất thuần thành.Nếu các con xét thấy mình chỉ được ngần ấy thì chưa đủ được Đạo hay Đắc Nhứt đó con. Vì nếu con cứ một lòng bảo vệ tôn chỉ, lý tưởng của mình cho tới cùng, không một trở lực nào ngăn cản, nếu bị kẻ khác xâm phạm danh dự hay quyền lợi thì tỏ thái độ đối kháng, ấy là chưa được Đắc Nhứt quá lắm vậy!

      Thế thì các con cũng cứ lập trường một tôn chỉ, một con đường đã chọn đi. Các con cứ nhứt tâm vì Thầy vì Đạo đi, các con cứ một việc làm mà hằng tiến đi, và trên những con đường, những phương hướng ấy mà các con làm vì Đạo không vụ ở lợi cho mình. Hễ đi tới là quay về trước mặt, không ngó lại mà tiếc rẻ những vật chung quanh, tức là các con mạnh dạn cởi bỏ những phàm tánh vọng ý còn đeo đẳng lòng con, mặc dù phàm tánh vọng ý ấy chỉ được dùng cho sự luyện Đạo thành Tiên tác Phật. Vì những thứ ấy là những lượn ba đào trên mặt trùng dương biển cả. Nếu biển cả cứ nổi dậy những sóng to dồn dập thì nó sẽ ở vào trạng thái đa diện, không còn nhứt diện phẳng lì nữa.

      Khi lòng con như lượn sóng luôn luôn khơi dậy, thì khi ấy chưa được sự Đắc Nhứt.

      Các con rường cột cũng nên thể hiện rốt ráo điều đó để làm tấm gương chung. Khi mà các con xứng đáng một trong thế Tam Tài, thì các con với sự Đắc Nhứt, sẽ dùng quyền lực tạo được bởi tinh thần để phổ độ, để phụng sự nhân sinh, cũng như Trời Đất đang hành vận trong lẽ thuần nhứt đó vậy.

      Và còn một điểm để phụ vào cái Đắc Nhứt của con người rằng cổ nhân của các con có câu: “Thần đắc nhứt dĩ linh”. Thường thường các con hiểu Thần là một vị cai quản một địa phận ở cõi vô hình nào đó, chẳng hạn Thần núi, Thần sông, Thần làng. Nhưng nếu hiểu như vậy cũng không có chi đáng nói.

      Thầy muốn cho các con hiểu Thần đây là Chơn-Thần, là Nguơn-Thần trường cửu hằng tại tự bản tự căn ở mỗi các con. Khi con chi phối tinh thần trăm mưu ngàn kế ở đầu óc các con, hay con nghĩ vẩn vơ những nhơn tình thế sự, thì cái Thần, cái Chơn Thần của các con không còn linh diệu nữa, tất nó phải bị ly tan tản mác, hay hơn nữa, nó bị chìm sâu dưới bức màn vô minh dày cợm!

Như vậy, khi các con đề cập đến sự đạt Đạo, thành Đạo, thì các con nên nhớ mà gìn giữ Nguơn-Thần cho linh diệu, cho tinh anh, để được minh mẫn mà trở về Đạo gốc.

Thi

Một là tất cả đó con ôi!

Tất cả biết gom một lẽ Trời,

Mới ứng dụng vào trong thế sự,

Không là những chuyện nói đùa chơi.

      Thôi! Thầy chỉ mong các con lớn nhỏ nghe lời Thầy, chỉ ngần ấy để Thầy vui mừng mà đến với các con luôn luôn trong tâm Đạo, trong lẽ Thiên nhơn tương hiệp...

                            Việt Nam tài nguyên thiên phú

                                                                      Ngọc Ánh Hộ

                        Ánh sáng tương lai thắm đượm ngàn,

                        Hướng về đất nước dựng nên trang.

                        Việt Nam thiên phú, nhiều kho báu,

                        Tổ Quốc hùng cường, rực điện quang.

                        Hội đủ nhân tài tô gấm vốc,

                        Đồng chung sự nghiệp điểm giang san.

                        Vui Đời đẹp Đạo hồn dân tộc,

                        Truyền thống đấu tranh đậm sử vàng.

Nguồn xuân hạnh phúc

                                  Ngọc Ánh Hộ

Xuân ngời mai nở rực kỳ công,

Xuân tỏa hương thơm những tấm lòng.

Xuân ở tâm hồn luôn sáng đẹp,

Xuân trong ý chí mãi tươi hồng.

Xuân về, mang lại tình nguyên Lý,

Xuân đến, truyền đi nghĩa Đại Đồng.

Xuân vẫn sang trang từng yếu nhiệm,

Xuân nguồn hạnh phúc khắp non sông.

 

CẢM NHẬN

                                                             Thiện-Ngộ

Đời đạo vẫn chung ở cõi trần
Bao đời quyến thuộc những sơ thân
Cũng duyên ,cũng nợ, đời điên đảo
Cũng học, cũng tu ,đạo giải lần

Hiện kiếp cưu mang vô lượng kiếp
Hóa thân ứng hiện biết bao thân !
Chẳng mong tịnh-độ nơi nào khác
Phật ở thân này , ấy pháp thân.

Pháp-thân động dụng ý tình sanh
Mê giác chia hai lý đã đành
Kẻ lại sông mê vì muốn giác
Người cầu về giác vọng sao thành !

Đường đời không tránh duyên dầu gặp
Nẻo đạo chẳng mong quả sớm thành
Thanh tịnh pháp thân ,thường ,ngã ,lạc.
Vô cầu , vô dục , ý vô sanh.

Bổn-tánh khởi chi chút bụi mờ?
Mang thân tứ-đại giữa bơ-vơ !
Luân hồi sáu nẻo nơi duyên nghiệp
Nhân quả theo nhau mãi đến giờ !

Đến giờ tỏ ngộ được chơn-tâm
Muôn kiếp trôi lăn chỗ tối-tăm
Chìm đắm kiếp người nơi bể khổ
Quay về tu học vẫn mê-lầm

Mê-lầm sắc sắc với không không
Năm uẫn xét ra cũng lý đồng
Trí đã tỏ tường đâu có trí
Dầu thêm hay bớt cũng như không !

 

 

 Vọng cổ                        ĐẠI ĐẠO HOẰNG KHAI

 

                            ST : Ngọc Ánh Hộ

Lý Con sáo

Ngôi Chí Tôn là đấng Cha Trời tối cao, của muôn vạn sanh linh. đã chọn nơi Thánh địa Lạc Hồng, là đất nước Tiên Rồng. Khai mở Đạo Trời kỳ ba xá ân, Tân pháp truyền ban sáng soi ngàn phương. Đại Đạo Tam Kỳ hoằng khai phổ chúng, Tam Giáo Qui Nguyên ứng nơi tình thương.

       Vọng cổ câu 1

Cao thượng nguyên chân sáng ngần dân chủ mục, Đài tiền thành kính bằng tất cả ý thức của toàn dân chung cộng hưởng tự do…quyền.

Đại Đạo sáng danh hai chữ Cao Đài.

Dân chủ mục hay thần quang chủ tể, tự do quyền hay đại đồng chung. Đạo Thầy truyền kết họp tinh hoa, bằng nguyên lý qui Tam hiệp Ngũ. Con số Ngũ cũng là âm dương tam bửu, tam bửu của Người của Trời của Đất.

Câu  2

          Buổi đầu tiên Thầy tạo Chiếu Minh, để đồng thông cơ pháp với Thiên đình.

Rồi lần đến Tây Ninh để lo cơ phổ độ hữu hình

          Minh Chơn Đạo, Tiên Thiên, Ban Chỉnh, chuyển Tây Tông rồi định Bạch Y. Chuyển Liên Hòa Phái kịp kỳ, Tịch Cốc thì ẩn Minh Chơn Lý thì lại khai. Liên Hòa Tổng Hội trình bày, Cao Đài Hội Giáo đủ rày mười hai Chi.

Nói lối

                             Mười hai Phái do đâu mà có,

Gốc Cao Đài tách ngõ mà ra.

Mỗi Phái Chi đều thơ thới trổ thêm hoa,

Nền Đại Đạo hoằng khai vạn đại.

Câu 5

Nhìn chiết áo dài trắng xinh xắn tươi nguyên truyền thống Việt, dù đến nơi đâu vẫn nhớ về nguồn cội nước non…nhà.

Màu trắng cũng tượng trưng sự trong sạch hiền hòa.

Tất cả đều con chung của Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, nên gọi nhau bằng tỷ muội đệ huynh. Thầy còn hạ mình xưng bậc Tiên Ông, dạy con trẻ lớn làm anh chị nhỏ là em út. Chỉ cách xưng hô và màu đạo phục, cũng thắm thiết câu cốt nhục thâm tình.

Câu 6

          Chỉ có đấng tạo hóa tối cao, là đức Chí Tôn cha chung của muôn loại. mới kết họp đồng đều giữa sắc màu Giáo Phái, gôm tinh hoa mà ban rãi cho chung. Thầy là đấng tối thượng quyền năng, cũng như mỗi các con đều có quyền năng tối thượng. lời tâm pháp cao siêu Thầy dạy, Thầy là các con các con lại là Thầy.

                             Con đường Đại Đạo hoằng khai,

                   Đại đồng tuyệt khổ do thầy điểm công.

                             Lời Thầy con giữ nơi trong,

                   Cao Đài ứng hóa theo lòng của chúngng sanh.

         

 

 

Home Nội San 01 VĂN KIỆN TATB 2009