KINH PHỔ MÔN

KINH PHỔ MÔN

LƯ HƯƠNG TÁN

Lư hương đốt khói hòa ngút tỏa,

Mùi thơm bay khắp cả thành tâm:

Các vì Phật ở biển nam,

Thấy mùi thơm ấy dương trần thành tâm.

Vì mùi hương tóc trầm thành thật,

Các chư Tiên cùng Phật khinh thanh;

Chứng lòng thế sự tâm thành,

Đằng vân xuống chốn dương trần chứng minh.

KHAI KINH KỆ

Vô thượng thậm thâm huyền diệu pháp.

Trăm ngàn muôn kiếp khác gặp kinh;

Ta nay thấy nghĩa tất tình.

Giải quyền thiệt rõ chơn tình Như Lai.

PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ

Phật ra lời dạy kinh này,

Tụng kinh Tam Bảo phải dày lương tâm;

Dầu cho tụng niệm mãn năm,

Bụng không cố tưởng như cầm mà chơi.

KINH PHỔ MÔN

 

Kinh mầu nhiệm thậm thâm huyền bí,

Vườn hoa sen rất quý chi hơn;

Đó là kinh báu Phổ Môn,

Quan Âm Bồ Tát Thiên Tôn độ đời.

Phật Bồ Tát hiện thời Tận Ý.

Ngồi đang chầu một vị Thích Ca.

Áo tràng vai hữu bày ra,

Dường như có tội ngó mà Thích Ca.

Ngài thủ lễ, bạch ra thành thật,

Chẳng hiểu sao gọi Phật Thế Âm;

Thấp hèn chưa thấy chỗ tầm,

Sao rằng xưng Phật Thế Âm làm gì.

Thích Ca mới khen hay Thiện Sĩ,

Thiệt trai lành hỏi kỷ lời ni;

Bởi vì ức vạn lâm nguy,

Chúng sanh khổ não xiết chi chan dầm.

Mà nhớ đến Thế Âm cầu nguyện,

Quan Thế Âm nghe tiếng xiết than;

Tức thì cứu khổ khỏi nàn,

Lòng thành niệm tưởng Tây phang thấu liền.

Người ở thế tâm thiền thờ phượng,

Rủi ro thay té vướng lửa trần;

Có vì phò hộ xác thân,

Khỏi thiêu vào ngọn lửa trần lao lung.

Bằng vắp té xuống sông nước ngập,

Niệm Thế Âm Bồ Tát độ nàn;

Được vào chỗ cạn thân an,

Vì lòng triêm ngưỡng bảo toàn khỏi lâm.

Bằng như có ức trăm muôn vạn,

Ra biển khơi mấy đoạn thương tâm;

Kim ngân mã não quyết tầm,

San hô hổ phách đang trầm biển sâu.

Xa cừ với trân châu vật báu,

Ước lưu ly thuyền đảo vòng xanh;

Vì lòng tham muốn nhọc nhành,

Rủi thay bảo tố đã đành thuyền trôi.

Trong biển khổ giữa vời nguy ngặt,

Thuyền tấp qua La Sát Quỷ Vương;

Nơi thuyền không thế lo lường,

Một người định tỉnh tầm phương niệm thầm.

Niệm Bồ Tát Quan Âm cứu vớt,

Thuyền khiến xui khỏi nước Quỷ vương;

Lạc lầm Bồ Tát chỉ đường,

Nên xưng Quan Thế vì thương kẻ trần.

Nge lời nguyện ân cần triêm ngưỡng,

Những hung hoang chẳng lượng từ bi;

Gặp đạo những kẻ vô nghì,

Niệm cầu cứu khổ tức thì được an.

Bằng thế giái ba ngàn các nước,

Nước Mãng Trùng bày trước hung hoang;

Dạ xoa đáy biển lăng loàn,

Cùng là La Sát lòng toan hại lành.

Người lành thấy, tâm thành cầu nguyện,

Quan Thế Âm xui khiến kẻ hung;

Mắt không dám ngó tận cùng,

Có đâu dám hại vì hung đổi lòng.

Nói cùng kẻ trong vòng tội lỗi,

Hoặc là oan bị nỗi xiềng gông;

Ăn năn niệm tưởng nơi lòng,

Quan Âm cứu khổ khỏi vòng trái oan.

Ba ngàn thế giái, ngàn thế giái,

Giặc thù vơ kẻ quấy đón ngăn;

Chủ thoàn thương mãi kinh hoàng,

Những người buốn bán đi ngang hải hùng.

Vì vật báu chở trong thuyền nội,

E rủi ro, e nổi lụy thân;

Gặp người định tĩnh tinh thần,

Dạy cầu cứu khổ toàn thân khỏi liền.

Người lâm nạn các thoàn liền niệm,

Quan Thế Âm trợ hiểm cứu nguy;

Các thoàn khỏi họa tức thì,

Bao nhiêu tai nạn gặp khi vui vầy.

Vô tận ý lời nầy thật quả,

Vì huyền vi độ cả tu tâm;

Nên xưng hiệu Phật Thế Âm,

Cứu nguy trợ khốn, ân thâm muôn đời.

Bằng thế sự sa nơi dâm dục.

Mà hư thân, phút chút khổ thân;

Muốn lìa khỏi hại, niệm thầm,

Nguyện cầu Bồ Tát Thế Âm giải liền.

Kẻ hờn giận đảo điên chẳng dứt,

Khá thành tâm niệm đức Quan âm;

Từ nhiên tránh chỗ lạc lầm,

Giận hờn phiền não khổ tâm được liền.

Người khờ dại quen đàng ngu xuẩn,

Cầu Thế Âm độ vững kẻ mê;

Oai linh huyền diệu tràn trề,

Quan Âm Bồ Tát độ lê dân lành.

Đàn bà bởi chưa sanh trai nối.

Nguyện Thế Âm sớm tối kế truyền;

Trai lành sanh đặng hữu duyên,

Đoạn trong tướng mạo phước liền về sau.

Muốn cầu đặng âm hao sanh gái.

Thì tự nhiên nguyện toại lòng thành;

Nữ nhi tướng diện tốt lành,

Nối đàng nhơn đức chúng sanh yêu vì.

Vô Tận Ý lời ni nghe thấu.

Quan Thế Âm đức hậu lực oai;

Chúng sanh cung kỉnh lạy Ngài,

Phước nhiều không mất lâu dài thảnh thơi.

Nếu thế sự kỉnh lời thường nhắn.

Quan Thế Âm Bồ Tát hiệu danh;

Vái họ chí nguyện đắc thành,

Lâm nguy để dạ, tâm lành được an.

Vô Tận Ý tỏ tàng cao thượng.

Cả thế gian thờ phượng gần xa;

Sáu mươi hai ức hằng hà,

Họa hình chư Phật gọi là kỉnh phô.

Lòng chí dốc sắm đồ y phục.

Sắm đồ ăn cụ túc thuốc thang;

Tốn hao mà chẳng phàn nàn,

Nếu trần được vậy phước ban thế nào?

Vô Tận Ý âm hao biện bạch.

Kẻ thế trần khí phách tưởng tin;

Tốn hao mà dạ được thình,

Thiệt là phước đức hiển vinh cả đời.

Phật mởi thốt đôi lời bày giải.

Vã như người kỉnh lạy Quan Âm;

Một giờ có dạ ân thâm,

Bằng người thờ Phật lâu năm khác nào.

Dầu muôn ức kiếp sau chẳng hết.

Vô Tận nghe rõ rệt nơi tâm;

Ân cần thờ kỉnh Quan Âm,

Phước sau lợi cả ân thâm biển bùng.

Vô Tận Ý khôn cùng bạch Phật.

Bạch Thế Tôn thành thật phân minh;

Cớ nào Quan Thế đăng trình,

Ta bà khắp xứ giảng kinh độ đời.

Bày phương pháp các nơi cải ác,

Có ích chi Bồ Tát hay không?

Thế Tôn lượng cả vui lòng,

Phân minh đồ đệ hiểu trong lời này.

Phật Thế Tôn khen hay Tận Ý.

Thiệt trai lành hỏi kỹ lời ni;

Bởi vì Bồ Tát từ bi,

Xót thương sanh chúng lâm nguy tâm bào.

Hễ nghe nói nước nào mộ Phật.

Thì hóa thân tánh chất giảng kinh;

Tùy theo trình độ hóa hình,

Giảng lành cho thế quyên sinh tu hành.

Tùy theo ý chúng sanh ưa chuộng.

Muốn Thích Chi hiện xuống Thích Chi;

Dạy đời hiểu nẽo từ bi,

Giảng lành cho thế biết khi đạo hằng.

Đời lại muốn Thinh Văn xuống thế.

Quan Thế Âm hiện thể Thinh Văn;

Dạy dân hiểu nẽo biết đàng,

Xem kinh tỉnh thức độ an luân thường.

Đời lại muốn Phạm Vương xuống thế,

Quan Thế Âm hiện thể Phạm Vương;

Độ đời biết nẽo hiền lương,

Dạy đời cho rõ tầm phương tu hành.

Lòng của kẻ chúng sanh ưa muốn.

Đế Thích thân người chuộng giảng kinh;

Quan Âm liền hiện giả hình,

Giống in Đế Thích thân tình độ dân.

Vị Tự Toại Thiên thân ham muốn.

Quan Thế Âm hiện xuống hóa y;

Dạy lành cho thế kịp kỳ,

Giảng kinh thuyết pháp làm y bửu truyền.

Đại Thiên Thân từ nhiên đại tưởng.

Quan Thế Âm hiện xuống đâu sai;

Theo lòng nơi thế trần ai,

Muốn cho đời hiểu Thiên thai trở về.

Tì Sa muốn Liên Đề trưởng giả.

Tiểu Thiên Vương độ thá Tể quan

Muốn sao cư sĩ lâm đàn,

Diễn kinh Thuyết pháp độ an dân lành.

Bà La Môn chúng sanh ưa chuộng.

Quan Thế Âm hiện xuống hóa y;

Các vì Bà Tắc Ưu Di,

Tì khưu chư Phật Bà Di độ đời.

Nơi thế sự dụng lời đồng nữ,

Hoặc đồng nam thuyết sự giảng lành;

Tại lòng phàm tục chúng sanh,

Cầu sao hóa vậy, lòng thành mà ra.

Đời lại muốn Dạ Xoa, Càn Thoát.

A Tu La mẫu đạt Thiên Long;

Cẩn Na các vị chư đồng,

Quan Âm Bồ Tát hiện trong sở nguyền.

Chấp Kim Cang y truyền giáng thế.

Vì đời ưa tiếp lễ Kim Cang;

Quan Âm hiệu hóa toàn thân,

Diễn cho đời biết thiên ân điểm lành.

Vô Tận Ý hiểu rành thật quả.

Quan Thế Âm ngài đã gia tâm;

Vân du các nước sưu tầm,

Thiệt là đức hạnh thậm thâm khó tường.

Khuyên Tận Ý lo lường thờ phượng.

Quan Thế Âm tin tưởng nơi lòng;

Thần thông quảng đại khôn cùng,

Độ người trong lúc hãi hùng yên thân.

Bởi cớ ấy người trần thế giái.

Đều phục khâm lực đại thần thông;

Giúp người đang sợ vạn lòng,

Thí tâm Vô úy giải vòng lao lung.

Vô Tận Ý thung dung bạch Phật.

Rằng tôi nay thành thật tưởng tâm;

Chịu thờ đức Phật Quan Âm,

Bửu châu chuổi hột tay cầm dưng lên.

Của nầy đáng trăm thiên lượng giá.

Vàng tụi tòng chứa đã lâu nay;

Xả thân phủi sạch hằng ngày,

Lễ dưng cho Phật gọi rày thảo tâm.

Khi ấy Phật Thế Âm không lãnh,

Tận Ý bèn ngôn hạnh nỉ non;

Phật dùm chứng lễ vuông tròn,

Xin thương chút phận cỏn con chìu lòng.

Phật Thích Ca rõ lòng Tận Ý.

Khuyên Thế Âm xét kỹ giùm thâu;

Thiên Long Càn Thát A Tu,

Cẩn Na các vị hiệp âu nhập vào.

Thời Bồ Tát trước sau y dạy.

Chia làm hai lẽ phải phân qua;

Một phần phụng hiển Thích Ca,

Một phần Đa Bửu Phật gia trợ đời.

Phật Bồ Tát khắp nơi tự toại.

Dạo ta bà thế giái tri tâm;

Nến xưng Bồ Tát Quan Âm,

Thần thông gồm đủ sưu tầm chưa minh.

Phật Thích Ca chơn tình đáp lại.

Người khá nghe lẽ phải Quan Âm;

Rộng sâu hơn biển ai tầm,

Lịch lai mấy kiếp, mấy năm ai tường.

Thật nhiều Phật tầm phương ngàn ức.

Phật nguyện tu tỉnh thức khinh thanh;

Nói sơ cho rõ ngọn nghành,

Nghe tên hoặc đã thấy hình đồng tin.

Hay trừ chỗ chúng sanh ngộ nạn.

Giả như ai kết oán hại mình;

Xô vào hầm lửa thêu hình,

Niệm cầu Bồ Tát tầm thinh cứu nàn.

Hầm lửa nóng hóa tan nước nguội.

Hoặc ghe trôi ra tới biển xanh;

Sợ loài sấu cá quỉ nanh,

Niệm cầu Bồ Tát từ bi cứu nàn.

Sóng gió thổi chìm thoàn chết đuối.

Hoặc trèo cao như núi Tu Di;

Bị người xô té hiểm nguy,

Niệm cầu Bồ Tát từ bi cứu đời.

Không té xuống giữa vời sừng sựng.

Như mặt trời lững đững mây xanh;

Hoặc là kẻ dữ tung hoành,

Xô vào trong núi chỉ mành Kim Cang.

Niệm Bồ Tát cứu an nguy ngặt.

Khỏi hại thân, khỏi mất một lông;

Hoặc người oán vặt nơi lòng,

Cầm dao muốn chém mạng vong Huỳnh tuyền.

Niệm Bồ Tát kiền thiền tế độ.

Tức thì trong kẻ đó thành tâm;

Hoặc là những kẻ xuông nhằm,

Hành hình gần chết hiểm thâm tuổi thầm.

Niệm Bồ Tát Quan Âm khỏi nạn,

Liền ngọn dao từ đoạn gãy phân;

Hoặc là gông trống xiềng trăng,

Tay chơn bị trói thương thân khốn nàn.

Niệm Bồ Tát Quan Âm giải thoát.

Trù yếu bùa, thuốc độc hại thân;

Niệm cầu Bồ Tát Quan Âm,

Họa kia trở lại hại thầm cừu nhân.

Hoặc rủi gặp khổ thân quá ác.

Cù Long Ngư, La Sát quỉ hung;

Chắc là mạng tuyệt không cùng,

Niệm cầu Bồ Tát mạng chung khỏi liền.

Hung độc ấy từ nhiên biển thẩm.

Thú dữ hung hằng ám vút nanh;

Niệm cầu Bồ Tát đắc thành,

Các loài thú dữ bôn hành chạy tiêu.

Rắn, rít độc biết nhiều lửa khí.

Niệm Quan Âm loài mị tránh dang;

Thật là cứu độ tai nàn,

Niệm cầu Bồ Tát Quan Âm khỏi nào.

Mây vần vũ chớp vang sấm sét.

Bão, dông to, mưa quét đá rơi;

Quan Âm Bồ Tát cứu đời,

Ứng giờ cứu độ trong trời được tan.

Chúng sanh khổ tai nguy ách nạn.

Không lường suy khó hản cho thân;

Quan Âm diệu chí pháp thần,

Cứu người sanh chúng cõi trần lao lung.

Ngài đủ phép thần thông nghị duợt.

Giúp mười phương các nước yên bình;

Chổ nào mà chẳng hiện hình,

Dẫy đầy tội lỗi chúng sanh tràn trề.

Làm Ngạ quỉ não nề thiểu đức.

Đọa Âm ty Địa ngục súc sanh;

Kìa trong tứ khổ nhọc nhành,

Sanh lão, bệnh tử chúng sanh buộc ràng.

Ngài lần cứu cho tan bớt tội.

Am thật thà lại với tịnh thanh;

Rộng sâu trí huệ hương lành,

Các am lành ấy nêu danh thờ Ngài.

Không nhơ bợn, sáng ngoài thanh tịnh.

Như mặt trời chơn định Quan Âm;

Rọi soi sáng chỗ tối thầm,

Cái gương trí huệ muôn năm còn hoài.

Hai cái trị nạn tai gió lửa.

Sự sáng lòa gọi tủa thế gian;

Thương đời, đời dữ khuyên răn,

Ý Ngài lồng lộng, ví bằng luồng mây.

Cam lồ rưới của Ngài mưa phép.

Chốn não phiền trừ dẹp được an;

Tranh giành thưa kiện đến quan,

Bị điều giặc giả tràn lan hãi hùng.

Niệm Bồ Tát điều hung tan hết.

Niệm chơn ngôn thành kết biển sông;

Niệm mà tin tưởng nơi lòng,

Hơn là thế sự niệm không thường tình.

Nếu những kẻ tụng kinh hằng tưởng.

Niệm vào lòng chớ cượng sanh nghi;

Quan Âm thanh tịnh từ bi,

Trừ phiền khổ não tay nguy nhờ Ngài.

Mắt Ngài thật là tài hiền đức.

Phước Ngài hay tỉnh thức kẻ mê;

Công sâu hơn biển tràn trề,

Nên đời cung kỉnh thôn quê đồng thờ.

Thuở ấy cũng trong giờ tưởng Phật.

Trì ĐịaBồ Tát ngồi nghe;

Tức thì đứng dậy chỉnh tề,

Bạch cùng Phật Tổ xin nghe lời này.

Chúng sanh thấu kinh đây tự toại.

Quan Thế Âm thích giải Phổ Môn;

Diệu huyền thần lực trường tồn,

Nếu mà tin tưởng thì công phu nhiều.

Phật thích giải đủ điều nghĩa lý.

Kinh Phổ Môn đã chĩ rõ căn;

Tám muôn lại với bốn ngàn,

Chúng sanh tỉnh thức ăn năn làm lành.

Đồng một ý hy sanh ba bực.

Tu bòn công Tây vức hầu sang;

Liên hoa diệu pháp dẫn đàng,

Phổ Môn chơn tự Quan Âm lời rằng.

NHỨT ĐẠI THỆ

Tối lòng nhờ biết tưởng tin,

Sáng lòng nhờ biết xem kinh tập rèn.

Nhiều lần sửa tánh được quen,

Phật tâm ta biết, tiếng khen chớ mang.

Định thần nhìn rõ Thiên đàng,

Định thần biết thấu Niết Bàn lần sang.

Trẻ thơ vừa thấy thế gian,

Chào đời bằng tiếng khóc than nhắc đời.

Chơn ngôn Tây Vức cạn lời,

Pháp Môn độ dẫn con người trần gian.

Phổ Môn thiệt hóa hình người,

Độ đời tầm tiếng khắp nơi khẩn nguyền.

Hiền lành pháp độ chơn truyền,

Mê tâm Ngài cứu khỏi miền U Minh.

Tưởng tin như bóng theo hình,

Khắp trong bốn biển hữu tình độ an.

Tám điều nạn lớn thế gian,

Giặc cùng trộm cướp đói chan lửa hồng.

Khó khăn như nước đến trôn,

Sợ điều truyền nhiễm dịch ôn khổ thầm.

Nhớ câu nạn vỉnh vô xâm,

Sợ điều họa vấy tưởng tâm khỏi liền.

Nam mô danh hiệu Như Lai,

Quan Âm Bồ Tát cứu loài trần gian.

Nam mô danh hiệu Quan Âm,

Từ bi thương xót biển nam Phổ Đà.

Nam mô dạo khắp ta bà,

U Minh cảnh giới xót xa khổ nàn.

Nam mô nhờ đức Quan Âm,

Trừ tà yêu quái cao thâm cứu loài.

Nam mô Phật Tổ Như Lai,

Cam lồ nhành liễu hôm mai rưới lòng.

Nam mô nhờ đức thần thông,

Lòng thành tế độ thung dung công bình.

Nam mô biến hóa muôn hình,

Tuần du dạo khắp giảng kinh cứu đời.

Nam mô nam hướng theo thời,

Tù lao trăng trói khỏi nơi lao tù.

Nam mô thuyền pháp công phu,

Vớt người vực thẳm ngàn thu đợi thoàn.

Nam mô trước có tràng phang,

Sau tàng bửu cái tây phang rước hồn.

Nam mô đức Phật Thế Tôn,

Mến nơi cực lạc linh hồn bền giai.

Nam mô Phật Tổ Như Lai,

Trang nghiêm phước đức mười hai câu nguyền./.

BỔ KHUYẾT

Bổ khuyết tâm kinh đời cải hóa,

Tiếng Ba La Bát Nhã Mật Đa;

Khuyên người hiểu chỗ chánh tà,

Nơi mình mơ ước Phật ma ở lòng.

Vị Bồ Tát ước mong thì đặng,

Chớ trù trì dùn thẳng hư tâm;

Có khi sa hố, sụp hầm,

Có khi còn phải lạc lầm Bàng Môn.

Thời chiếu kiến giai không ngũ uẩn,

Phải tập rèn cho xứng Thánh minh;

Lỗ tai con mắt công bình,

Cái miệng, lỗ mũi, thân hình là năm.

Tai đừng lóng giọng phàm phân giải,

Mắt đừng xem sự quấy sắc tà;

Miệng đừng vọng ngữ kêu ca,

Tránh điều thất đức giục hòa tục ngôn.

Mũi chớ hửi mùi thơm hương sạ,

Đừng dục ưa thịt cá là ngon;

Cái thân tránh khỏi quyền môn,

Năm điều giữ đặng bảo tồn Phật thân.

Lánh ách nạn chớ gần hung dữ,

Hiểu chăng Xá Lợi Tử là chi?

Đó là lòng Phật Mâu ni,

Trọng tâm cho lớn việc chi chẳng màng.

Đời dầu có muôn ngàn đâu ắt,

Mãnh hồng trần chưa chắc còn không.

Huống chi của cải mênh mông,

Để cho trong sạch, tâm không Đại đồng.

Thấy việc có tưởng không, không đó,

Thấy việc không tưởng có, có đâu;

Đắm say trần lụy sang giàu,

Thân mình còn mất chừng nào đâu hay.

Xá Lợi Tử tâm này quả quyết;

Không sanh ra, không chết, không ngờ;

Không hư, không sạch, không dơ,

Không thêm, không bớt, như tờ tự nhiên.

Nên hồn ở Trung thiên không sắc

Không quấy tham con mắt lỗ tai;

Miệng cùng cái mũi chân mày,

Cái mình, cái ý hình hài lục căn.

Đừng động tới, đừng phăng quyến tưởng,

Còn lục trần chớ vướng vụ thần;

Thinh hương vị xúc sắc thân,

Tốt lành để lóng giọng đờn êm tai.

Mùi ngon ngọt giọng dài tư tưởng,

Giục thần hồn ảnh hưởng mê tân;

Mắt không nên ngó sắc trần,

Tai không nghe lóng lời phân tiếng cười.

Mũi không hửi nơi mùi thơm ngọt,

Miệng không thèm chuốc ngót ước ao;

Ý không giai động sắc màu,

Ý mình chớ tưởng thấp cao pháp tà.

Mắt không ngó lòng ta không động,

Lửa vào lòng ắt nóng tối đen;

Mệt thần sanh dữ thấp hèn,

Tưới cho tắt đặng nhúm nhen tinh thần.

Không hờn giận tấm thân mát mẻ,

Thanh tịnh hoài được khỏe tâm cang;

Không sanh bịnh hoạn khốn nàn,

Không già, không chết đạo tràng bửu minh.

Chớ tính kế mà sinh sợ hãi,

Đừng âm mưu nghi ngại nơi tâm;

Luyện thần tránh chỗ lo thầm,

Lòng đừng tráo trở lạc lầm khó toan.

Suy nghĩ hội Niết Bàn mồng tám,

Trong tháng mười xúc cảm Mâu Ni;

Thích Ca giảng đạo vô vi,

Truyền bá chữ mặc một khi đắc thành.

Đạo Tiên dạy làm thinh lặng lẽ,

Dưỡng khí Thần mát mẻ nơi tâm;

Tâm kinh dạy bảo kiếm tầm,

Dạy đời cho hiểu chữ Tâm mà lần.

Tam thế Phật tưởng trần khó nghĩ,

Phật Di Đà, Thế Chí, Quan Âm;

Ba đời chư Phật không lầm,

Chơn kinh giữ đặng tu nhằm Phật xưa.

Dạy những kẻ Thượng thừa, Trung, Hạ,

Noi theo lo công quả mà tu;

Thiên đàng bền vững ngàn thu,

Chí tâm sửa tánh công phu lọc lừa.

Tầm đặng đến Thượng thừa quả vị,

Tam diệu Tam địa chỉ Bồ Đề;

Này là thần chú giác mê,

Trừ phiền khổ não chẳng hề đơn sai.

Ở được vậy thường hoài là Phật,

Bát Nhã Ba La Mật Thị Đa;

Lời khuyên trai, gái, trẻ, già,

Tâm kinh bổ khuyết diễn ca cạn lời./.

KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN

Vì sợ sái hoặc là không biết,

Nên mau bổ khuyết đủ kinh;

Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,

Giờ này đệ tử tất tình ăn năn.

Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,

Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;

Hoặc là sơ sót nơi lòng,

Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.

Tưởng chuyện khác cũng trong tánh ý,

Hoặc nghĩ suy rối trí gần xa;

Sẵn đây hương, quả, hoa, trà,

Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.

Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,

Những câu kinh tụng thiếu sót sơ;

Độ giùm tiêu tội kịp giờ,

Ba lần sám hối mong nhờ ân dư./.

                                                                   (đọc 3 lần)