VĂN THƯ THUẦN DƯƠNG

 

THUẦN DƯƠNG 

ĐỘNG TÁC MỘT

TRI QUYỀN QUANG

         

          Việc vận hành Pháp Đạo Tri Huyền Quang được khởi điểm từ Huê Quang. Qua lần thứ nhì trở lên thì khởi điểm từ Trung Khuyết

Một là Tri nhập Huyền Quang.

Bán dà tọa tịnh xoay màn điển trong.

Sơn dương thượng, hạ Sơn Âm,

Động chuyển thập nhị quang thần danh cha,

          Tọa tịnh chi thể, thế bán già, sơn dương thượng, sơn âm hạ vị, Hít hồng kỳ từ Huê Quang lên Thượng Khuyết chuyển xuống Não Bộ xuyên qua Song Quang chuyển thần nhãn thập nhị kỳ ( vừa chớp xong rồi đảo nhãn cũng đồng nhất tự, nhất nguyện, niệm danh Thượng Phụ): “ Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn”.

Nhãn khai, hườn phục trung tòa,

Tiếp Huê Quang đến hằng hà siêu linh.

           Xong, tiếp hồng kỳ vào lần 2 từ Trung Khuyết lên Huê Quang đem lên Thượng Khuyết, vòng qua Ngọc Chẩm, xuyên qua Song Quang (gọi là Song Mâu Quang), rồi điểm nhãn thẳng ra cũng chớp đảo y như trên.

Hoàn chung khuyết vị thâm tình,

Rạng ngời Thần Điển Nguyên Sinh Pháp truyền.

          Muốn nghỉ thì hít Hồng Kỳ tới Đốc Vọng nuốt tân dịch gởi lên Thượng Khuyết.

ĐỘNG TÁC HAI

THÔNG THIÊN NHĨ

Việc vận hành Pháp Đạo Thông Thiên Nhĩ

được khởi điểm từ Thính Hội.

Hai là khai Nhĩ Thông Thiên,

Mượn danh siêu thức mà tìm Ma Ni.

          “Um Ma Ni Bac Rị Họng” , (tiếng vọng rền bên trong)

Khởi từ Thính Hội truyền đi,

Khuyết Cung hạ Bát Quái thì Mạng Môn.

          Siêu thức chuyển hồng kỳ cho vào nơi Thính Hội đưa lên Thượng Khuyết rồi chuyển xuống cập theo đường Bái Quái tới Mạng Môn.

Xuyên qua Cốc Đạo siêu hồn,

Tiền trình Trung Khuyết, nhậm tân nghịch hành.

          Xuyên qua Cốc Đạo (từ bến mê vượt vũ hà sang qua bờ giác), rồi đưa lên phía trước tới Yết Hầu nhậm tân dịch,

Khai thông Thính Hội cho rành,

Chơn tinh đầy đủ lập thành kim đơn.

         

          Chuyển ngược vòng ra hai nơi Thính Hội.

          Nếu ở Nhĩ (tai) được khai thông bằng phương pháp của động tác hành pháp thì sự ấn chứng là chỗ tinh thuần, đạt đến mức siêu xuất, nghe thấu cơ mật của Thiên Điều, ấy gọi là Thông Thiên Nhĩ vậy.

ĐỘNG TÁC BA

HẠO NGƯƠN KHÍ

Ba là Luyện khí Hạo Ngươn,

Lấy siêu thức chuyển từ nguồn Tố Liêu.

Sang cung Thượng Khuyết giảm đều,

Nhậm tân, minh trực, hạ triều Khuyết Trung.

          Nhiếp ứng hồng kỳ từ Tố Liêu lên Thượng Khuyết, minh trực, nhậm tân. Rồi đưa xuống Trung Khuyết minh trực nhậm tân.

Rồi sang khuyết Hạ, Khôn cung,

Lại sang bờ giác mỗi trung tại hà.

          Rồi đưa xuống Hạ Khuyết bình chuyển, minh trực, nhận tân. Vượt Vũ Hà sang bờ giác đưa lên Trung Khuyết minh trực nhậm tân.

Huỳnh đình nghịch điểm tinh ba,

Chuyển lên Giáp Tích, Tam Hoa tựu đài.

Tọa hành Tam Thế Như Lai,

Khí thiên chiếu diệu linh oai chập chờn.

          Tiếp theo là từ Trung Khuyết đưa ngược lại Huỳnh Đình vòng lên Giáp Tích minh trực, nhậm tân lần chót và trụ hình Tam Huê đồng dâng Tựu Đảnh.

          (chú ý: Trong toàn phần Tàng Thơ Bửu Pháp chỉ nói đến Huỳnh Đình ở Huyền Linh Đài chớ không phải Huỳnh Đình ở Diệu Pháp Đài).

ĐỘNG TÁC BỐN

MINH CHƠN KHẨU

          Việc vận hành Pháp Đạo Minh Chơn Khẩu được khởi điểm từ Huê Quang, sẽ truyền đi nơi nhị hành sơn Âm và Dương.

Bốn là Khai Khẩu Minh Chơn,

Bế quang; ngọa tịnh linh đơn điểm kỳ.

          Ngọa tịnh chi thể, bế thần nhãn,

Sơn Dương chuyển thượng cho y,

Sơn Âm lập hạ hồng kỳ tùng giao.

          Hành Sơn Dương chuyển thượng, hành Sơn Âm lập hạ.

Trùng quang giao thới mấy câu,

Quy giao trung khuyết liền thâu điểm bình.

          Sơn Dương chuyển thượng hít hồng kỳ vào Sơn Âm và Sơn Dương niệm: “Nam mô Âm Dương giao thới nhựt nguyệt trùng quang” và thở ra. Gom nối Âm Dương nơi trung khuyết (ngưng hồng kỳ một chút),

Xong rồi thượng chuyển khuyết minh,

Niệm danh Kim Mẫu siêu linh nhiếp hòa.

           Đem lên thượng khuyết niệm: “Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Thượng Đẳng Vô Cựu Từ Tôn”.

Bình chuyển Huỳnh đình sang qua,

Tam thập lục chuyển danh Cha thuận hành.

Biết rằng tam độ lưu thanh,

Sang hồng kỳ đến vận hành trung tâm.

          (ngưng hồng kỳ một chút), rồi đưa xuống cung Huỳnh Đình tiếp tam thập lục chuyển, đồng niệm: “Nam mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn”. Niệm đủ vận tam kỳ là đủ tam thập lục chuyển theo thuận kim đồng hồ.

Nhậm tân tại vọng làm chơn,

Niệm tịnh khẩu nghiệp chơn ngôn tam hào.

          Hít hồng kỳ lên Trung Khuyết, nuốt tân dịch tại đốc vọng và niệm: “Nam mô Tịnh Khẩu Nghiệp chơn ngôn”.

Hồng kỳ thông xuất Ngân Giao,

Siêu thức làm chủ Đài Cao hưởng phần.

          Khi niệm đủ vận kỳ tam độ liền cho hồng kỳ phát ra, siêu thức chuyển hồng kỳ đưa lên Thượng Khuyết, cũng là lúc hồng kỳ phát ra từ Ngân Giao.

ĐỘNG TÁC NĂM

TRỤ KIM THÂN

          Việc vận hành Pháp Đạo Trụ Kim Thân được khởi điểm từ Huê Quang.

Năm là pháp Trụ Kim Thân,

Thế thời bán ngọa Sơn Âm trụ đình.

          Bán ngọa tịnh, Hành Sơn Âm trụ đỉnh,

Sơn Dương thượng Khuyết Hải minh,

Nhớ quay máy điển mà nhìn thức tâm,

Đến Huê Quang lại sang trung,

Niệm câu Nhứt Chuyển Dương Quang đủ đầy.

           Hành Sơn Dương thượng Huyết Hải, bế Thần Nhãn.Tâm niệm từ Huê Quang thẳng xuống tới Trung Khuyết niệm: Nam mô nhứt chuyển Dương Quang nhập thức”.

Xong Sơn Âm lại sang đây,

Niệm câu nhứt chuyển đủ đầy Âm Quang.

          Rồi tâm niệm từ Hành Sơn Âm đến ngay Trung Khuyết thành chữ thập (+) niệm: “Nam mô nhứt chuyển Âm Quang nhập thức”.

Danh Cha thuận chuyển rõ ràng,

Danh Mẹ nghịch chuyển kết đàng Âm Dương.

          Rồi xoay thuận kim đồng hồ thập nhị kỳ niệm: “Nam mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn”. Rồi xoay nghịch kim đồng hồ niệm: “Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Thượng Đẳng Vô Cực Từ Tôn”. Cứ chữ Thập xoay thành chữ Vạn.

ĐỘNG TÁC SÁU

TIÊN THIÊN Ý

          Việc vận hành Pháp Đạo Tiên Thiên ý được khởi điểm từ Trung Khuyết.

Sáu: Tiên Thiên Ý làm gương,

Đồng thông Sơn hạ Âm Dương máy huyền.

          Ngọa tịnh nghiêm trung, Hành Sơn Âm và Hành Sơn Dương đồng thông lập hạ và phúc quản chi thân.

Hồng kỳ tâm thức chuyển liền,

Thượng cung đồng niệm Tiên Thiên như lời.

          Hít hồng kỳ từ Trung Khuyết lên Thượng Khuyết, siêu thức khởi niệm:“Nam mô Tiên Thiên Chơn Ý thống hiệp huyền quang khai xuất pháp thân”.

Xong rồi chuyển Hạ, Trung ngôi,

Bình hồng kỳ lại chia đôi Cực Tuyền.

          Rồi niệm tưởng đưa xuống Trung Khuyết, ngưng hồng kỳ một chút rồi chia ra hai Cực Tuyền hai bên.

Hạ giáp Trung Khuyết bình điền,

Thương Khưu, Ẩn Bạch, Cực Tuyền giáp Trung

          Đưa thẳng tới khuyết Thổ Tinh của nhị Hành Sơn (ngón tay giữa) đi cặp phía trong. Rồi đem hồng kỳ trở lại giáp mối tại Trung Khuyết.

Lại bình lấy vọng làm chơn,

Chuyển về Vị Khuyết, nhậm tâm đứng đầu.

          Dừng hồng kỳ một chút rồi song song hai mối giáp cặp hai bên Cực Tuyền mà đưa thẳng xuống Thương Khưu, Ẩn Bạch. Xong, lại đem trở lên Cực Tuyền và giáp mối tại Trung Khuyết.

          Dừng hồng kỳ và đem lên khỏi Đốc Vọng nuốt tân dịch, siêu thức đem lên Thượng Khuyết.

ĐỘNG TÁC BẢY

AN LƯ LẬP ĐẢNH

          Việc vận hành Pháp Đạo An Lư Lập Đảnh được khởi điểm từ Huê Quang.

Bảy là Lập Đảnh An Lư,

Trước là tọa tịnh bế cầu nhị quang.

          Tọa tịnh chi thể, bế thần nhãn,

Túc Dương cao đệ rõ ràng,

Sơn Dương điểm thập bát tràng ngọc châu.

          Tọa hình Túc Dương cao đệ. Hành Sơn Dương điểm vòng chuổi ngọc thập bát tràng.

Sơn Âm tùng Túc Âm cầu,

Hậu Dương kỳ tại trung bầu Túc Âm.

          Hành Sơn Âm nương theo Túc Âm, Hậu Dương Túc tại trung phần Túc Âm,

Nam thì điểm tại Huê Quang,

Mô Nhân Trung đó, A sang Tả Thần.

Di là Hửu Mạng lộ chơn,

Đà kia Hạ Khuyết, Phật ân Trung Đài.

          Siêu thức niệm: “Nam tại Huê Quang, Mô tại Nhân Trung, A tại Tả Mạng, Di tại Hữu Mạng, Đà tại Hạ Khuyết, Phật tại Trung Khuyết”. 

Siêu thức thông xuất thường khai,

Lại cùng trụ thể rõ bày Âm Dương.

          Hít hồng kỳ thật dài cho ra từ từ vừa đứng lên theo thế chữ nhơn

Nhị Sơn điểm khuyết Càn cung,

Thế đồng lập hạ ứng cùng Đông Nam.

          Nhị Hành Sơn quyết Tý cung Càn thông đồng lập hạ, thần nhãn hướng hơi nghiêng về Hành Sơn Âm (Đông Nam).

Sơn Dương trung chuyển Nhựt Quang,

Xong rồi hạ vị, Sơn Âm Nguyệt Đài.

          Xong Hành Sơn Dương từ từ đem lên ngang qua bên trái, siêu thức ứng chuyển trên cung Ngũ Hành, Nhựt Quang sáng tỏ. Siêu thức lại chuyển vào tâm khi Hành Sơn Dương hạ chuyển thì Hành Sơn Âm cũng vừa thượng chuyển đem lên ngang qua bên phải, siêu thức ứng chuyển, Nguyệt Quang sáng tỏ. Xong siêu thức đưa vầng điển Nguyệt Quang trở lại Trung Khuyết và hạ vị.

Rồi đồng kết chuyển Tam Tài,

Hoàn chung khuyết vị ngọc đài kim chuyên.

          Kế tiếp Nhị Hành Sơn lại từ từ đưa lên ngay Trung Khuyết, Ngũ Hành Âm và Dương chạm nhau nghe tiếng nhịp đều trong ấy là đúng. Rồi từ siêu thức ứng chuyển Tinh Quang sáng tỏ sẽ hiện trên cung Ngũ Hành ấy. Khi gom đủ Nhựt Nguyệt Tinh rồi thì siêu thức ứng chuyển nhị Hành Sơn đưa vầng điển đang chuyển (Nhựt Nguyệt Tinh: Kim Chuyên Như Ý) đem thẳng lên Thượng Đảnh. Siêu thức càng hiển lộ sự xoay nhanh và sáng tỏ. Khi nào muốn nghỉ động tác nầy thì rút nhị Hành Sơn xuống sẽ thấy vòng quanh điển An Lư sẽ chụp lên Thượng Khuyết (Thượng Đảnh): ấy gọi là Lập Đảnh vậy.

ĐỘNG TÁC TÁM

XUẤT LINH TỬ

Việc vận hành pháp đạo Xuất Linh Tử được khởi điểm từ trung Khuyết.

Tám là Linh Tử xuất huyền

Tây phương trung điểm Dương liền khuyết khôn.

Trụ hình chi thể, hướng về Phương Tây. Hành Sơn Dương quyết tý cung khôn để ngay Trung Khuyết,

Sơn Âm như tại Kỳ Dương

Chuyển từ tâm thức thượng lương bệ Đình

Hành Sơn Âm cũng vậy nhưng hạ vị, bế thần nhãn, hít hồng kỳ từ Trung Khuyết lên Thượng Khuyết cùng câu niệm đi theo:

Kim Chuyên Như Ý niệm danh

Huỳnh đình ấn tượng khai thành pháp thân

“Nam Mô Kim Chuyên Như Ý Huỳnh Kỳ Đại Đạo Khai Xuất Pháp Thân”.

Hồng kỳ xuất nhập lần lần

Cũng từ siêu thức điểm phần liên hoa

Tâm không, tùy khiếu nhiếp hòa

Đoạt huyền như ý rõ là siêu nhân

Rồi đem hồng kỳ ra vào nhè nhẹ và siêu thức ứng chuyển giữa một liên trì bửu cảnh, càng nâng pháp thân lên từ hơn năm thước thì bắt đầu tâm không và tùy khiếu điển.

ĐỘNG TÁC CHÍN

BẾ HUYỀN MÔN

Việc vận hành pháp Đạo Bế Huyền Môn được khởi điểm từ Thính Hội ra Ngân Giao

Chín là pháp Bế Huyền Môn,

Sơn Âm Dương hạ. Càn cung khuyết lần

Trụ định chi thể, bế thần nhãn, Hành Sơn Âm Dương hạ vị, quyết tý cung càn.

Hồng kỳ, chuyển Thính, sang Ngân

Tố liêu lại chuyển đến phân Huê Quang

Hít hồng kỳ từ Thính Hội cho trở ra Ngân Giao, rồi từ tố Liêu lên Huê Quang,

Lại lên Thượng Khuyết nhập tràng,

Lại xuống môn hạ mà sang Huỳnh Đình

 Từ Huê Quang lên Thượng Khuyết, thì hồng kỳ mới nhé nhẹ đem xuống Mạng Môn, xuyên qua Huỳnh Đình

Lại tìm Nhũ Bộ xoay quanh,

Độ tam tượng ấn vào thành Nhũ căn

Và chạy lên tới Nhũ Bộ. Nghĩa là khi đi tới chính giữa của cặp Nhũ Bộ thì hai mối ấy liền kéo trở lên và xoay vòng tròn luôn tam độ. Xong, gom lại hai điểm Tinh của Nhũ Bộ tức Nhũ Căn mà ấn sâu vào tuốt phía sau hai mối gặp lại nhau mới đem xuống phía sau của Hạ Khuyết (gọi là hậu Hạ Khuyết)

Thế rối giáp lại hạ tràng,

Xuyên qua Cốc Đạo, Sơn Âm nhiệm trình

          Xuyên ngang qua Cốc Đạo

Tán Âm Dương thuận nghịch minh

Gọi tam thập lục vận hành pháp thân.

          Dùng hành Sơn Dương mà tán Âm Dương bằng cách tam thập lục chuyển theo vòng thuận kim đồng hồ, rồi tam thập lục chuyển vòng nghịch. Âý là luyện Tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần huờn hư luyện hư huờn vô vậy.

ĐỘNG TÁC MƯỜI

THÂU TAM BỬU

         

          Việc vận hành Pháp Đạo Thâu Tam Bửu được khởi điểm từ Tố Liêu, Ngân Giao, Thính Hội, Trung Khuyết.

Mười : Thâu Tam Bửu chuyên cần,

Hồng kỳ khởi điểm từ phần Tố Liêu.

Ngân Giao, Thính Hội đủ điều,

Cũng như tâm thức vọng triều Huyền Khung.

Hành tịnh chi thể, Vừa hít hồng kỳ từ Tố Liêu, Thính Hội và Ngân Giao cũng như từ Trung Khuyết cùng một lúc rút lên cung Thượng Khuyết vừa niệm: “Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn”.

Xuyên qua bờ giác tỉnh hồn,

Niệm câu Kim Viết Tiên Ông điểm cùng.

Rồi hồng kỳ vừa nhè nhẹ đi từ Thượng Khuyết xuống tới Mạng Môn xuyên qua cung Huỳnh Đình vừa niệm: “Kim Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.

Mỗi lần chuyển thượng: Huyền Khung,

Chuyển hạ: Kim Viết, túc chung thường hành.

 Cứ chuyển hồng kỳ lên thì niệm câu trên, chuyển xuống thì niệm câu dưới. Tâm thì mật niệm như thế. Điều hòa hồng kỳ. Xong, cũng phải nhị túc khởi hành đều nhịp như thường hành vậy.

Thượng tiền , hạ hậu ghi rành,

Hoàn chung khuyết vị nhớ hành nhậm tân.

          (Nên nhớ. Hể đem hồng kỳ lên thì vòng theo tiền đồ, còn trở xuống thì hậu đồ là đúng).

          Khi nào muốn nghỉ thì đem hồng kỳ lên Thượng Khuyết để luôn ở đó, và ánh sáng Thuần Dương Tam Bửu sẽ chiếu ngời nơi ấy.

          (Chú ý: Khi xuyên qua Vũ Hà phải nhíu Hậu Môn, lúc muốn nghỉ nhớ nuốt tân dịch khi đem hồng kỳ lên để nghỉ).

ĐỘNG TÁC MƯỜI MỘT

NGŨ KHÍ CHÂU

BẠCH NGỌC QUANG

          Việc vận hành Pháp Đạo Ngũ Khí Châu Bạch Ngọc Quang được khởi điểm từ trái Châu bên ngoài.

Mười một: Ngũ Khí Bạch Quang

Bế quang siêu thức tìm đồng Châu Thiên.

Trụ hình tự nhiên, thần nhãn khai thông hướng về phía trước, siêu thức ứng chuyển một vầng quang điển có trái châu sáng tỏ

Khai Ngân Giao để thâu huyền,

Nhậm tân chuyển hạ, Huỳnh Tuyền Mạng Môn

Theo hồng kỳ vào Ngân Giao và nuốt tân dịch, rồi cho chạy xuống tới cung Huỳnh Đình. (khi vừa hít vào thì cũng vừa bế thần nhãn). Rồi từ cung Huỳnh Đình dẫn trái châu xuyên qua Mạng Môn (nhíu hậu môn đem qua).

Lên đài Bát Quát độ hồn,

Đến cung não bộ lộ chơn điển tìm

Xong, từ đường Bát Quái ấy, trái châu được lưu thông chạy lên tới não bộ và xuyên qua Huê Quang tiền diện. Khi sang qua Huê Quang thì Song Mâu Quang cũng mở sáng theo và nhìn thẳng lối đi, vừa chớp thần nhãn vừa thường hành đạo khởi, tâm thì mật niệm như vầy:

Khai quang động Thập nhị huyền,

Diêu Trì Kim Mẫu ứng truyền cao sâu.

          “Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Thượng Đẳng Vô Cực Từ Tôn”.

Thường hành mới thấy nhiệm mầu,

Xong hườn nguyên lại từ đầu bế quang.

          Khi niệm đủ câu thì dừng lại, rồi bế nhãn và bắt đầu làm động tác y như cũ, tới khi nào chớp thần nhãn thì cũng vừa hành vừa mật niệm như vậy. Cứ tiếp tục vận hành lại trụ hình như vậy hoài,

Hoàn chung thì nhớ nhậm tân,

Nhập cung khuyết vị chiếu ngần tuệ quang.

          Đến khi nào muốn nghỉ thì lúc trái châu chạy đường Bát Quái, vừa tới Phong Phủ (tức khỏi Giáp tích) thì nuốt tân dịch rồi đem tuốt lên Thượng Khuyết.

ĐỘNG TÁC MƯỜI HAI

LỤC TỰ KIM NGÔN PHI LONG ĐẢO VÕ

          Việc vận hành Pháp Đạo Phi Long Đảo Võ được khởi điểm từ Trung Khuyết.

          Tường mật chỉ từ ấn chứng do những động tác thông đồng nguồn điển với nhau.

          Việc thông đồng mật chỉ là nói về khẩu thuyết bí quyết của pháp Đạo.

Mười Hai: Lục Tự Kim Ngôn,

Phi Long Đảo Võ trụ phần Bát Tiên.

          Trụ hình nghiêm thiết theo thế chữ bát 

   

Hồng kỳ tâm thức khởi nguyên,

Thượng cung lục tự tam tiên điều hành.

          Siêu thức khởi từ tâm, cho hồng kỳ vào thật dài cùng lúc đưa lên Thượng Khuyết và niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”, cho đủ tam độ trong một hồng kỳ.

Hạ vòng Bát Quái thiên thanh,

Mạng Môn xuyên đến Huỳnh Đình nhiếp cung.

          Xong, cho hồng kỳ nhè nhẹ vòng theo Bát Quái chạy xuống Mạng Môn, xuyên qua cung Huỳnh đình,

Thế rồi thượng chuyển khuyết trung,

Tâm nguyền lục tự tam cung ứng chầu.

          Rồi nhíu Hậu môn cho hồng kỳ trở lên Trung Khuyết thì bắt đầu niệm Lục Tự Di Đà tam độ như trước để đem lên Thượng Khuyết.

Sơn Âm Dương chuyển đồng thâu,

Hoàn chung Thượng Khuyết nhiệm mầu cảnh trên.

          Rồi lại cho hồng kỳ nhè nhẹ trở ra theo đường Bát Quái cho xuống Mạng Môn và cứ chạy vòng vòng như thế hoài. Hễ hít hồng kỳ lên thì đôi hành Sơn Âm Dương cũng điều chuyển theo lên, còn đưa xuống thì đôi Hành Sơn Âm Dương cũng điều chuyển theo xuống.   

         Khi nào muốn nghỉ thì từ chỗ đem hồng kỳ lên Thượng Khuyết cho đủ Lục Tự tam độ thì hồng kỳ nhè nhẹ, êm đềm được gom tụ đầy đủ linh điển nơi đó mới nghỉ.

 

 

 
Home Kinh pháp VĂN THƯ THUẦN DƯƠNG