Tiểu Sử Ngài Thiên Đại
TIỂU SỬ
NGÀI NHIÊN ĐẠI KIM TIÊN
Thiên danh: Thiên Đại
Thế danh : Lê Trung Đại
Ngày 24/2 Tân Sửu, Nhân lễ cúng hoàn tất 581 ngày tuần tự của Tiên huynh Thiên Đại tại Thánh Toà Vô Vi Huỳnh Quang Sắc, đạo muội Bửu Liên Thu xin trình bày phần tiểu sử để ôn lại kỷ niệm trên bước đường hành đạo của Ngài.
Ngài Lê Trung Đại, Thiên danh Thiên Đại. Sinh ngày 05/11/1958 tại Sài Gòn, vào năm 1993, kết hôn với Bà Nguyễn Thị Ngọc, sinh năm 1958 và có 1 người con trai tên Lê Đại Nghĩa, sinh năm 1994. Đến tháng 11/1998 do vợ chồng bất đồng quan điểm nên dẫn đến ly hôn. Đến năm 2006 một lần nữa nối tiếp đường đời dang dỡ, Ngài tìm người bạn đời trong tuổi đời còn lại nên đã đăng ký kết hôn với Nguyễn Thị Yến Thu, sinh năm 1960 tại Vũng Tàu, là người có đạo. Được hồng ân của Ơn Trên ban Thiên danh là Bửu Liên Thu, cũng là trưởng nữ của Đức Thiên Bảo - Đệ Tam Chưởng Giáo.
Do từ cơ duyên gần gủi với Đức Thiên Bảo nên Ngài được dẫn giải rất nhiều về đạo lý. Ngài có dự lễ được tổ chức tại Điện, Đàn các tư thất (vì thời gian này mới giải phóng nên các Chùa, Tự không có sinh hoạt nhiều như trước) thì Ngài có gặp các vị trong Thiên Khai Huỳnh Đạo như Thiên Hộ, Thiên Tánh v.v... tại Quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh.
Trên đường hành đạo do thuận nhân duyên nên Ngài đã nhập môn vào Đạo Cao Đài Chiếu Minh ngày 15/08/2007 tại Thánh Tịnh Long Thành, Cần Thơ. Đến 15/10/2007 thì cơ duyên khác lại đưa đến, Ngài đã ngộ được đạo mầu nên được Ơn Trên cho phép lập lại thêm phần nhập môn tại tư thất của Đệ Tam Chưởng Giáo Thiên Bảo - Thiên Khai Huỳnh Đạo lúc bấy giờ là Điện Long Vân Chuyển Pháp tại số 40/10/11 Nguyễn khoái, phường 2, quận 4, t/p. Hồ Chí Minh để gắn liền công việc học đạo và hành đạo và được ban phong Thiên danh Thiên Đại Trung Tôn với chức phẩm Chánh Phối Sư Hùynh Đạo, chức vụ Chánh Từ Hàn.
Sau thời gian sinh hoạt đạo đến ngày mùng 08/05 Mậu Tý (2008) Ngài Chưởng Giáo Đệ Tam Thiên Bảo triều Thiên đắc vị Thiên Bảo Như Lai, thì tất cả Phái Thiên Khai Huỳnh Đạo chuyển về tư thất con của Ngài Thiên Tánh tại đường Tên Lửa, Quận Bình Tân. Và sau nầy đạo lại chuyển tiếp về F1-F3 đường An Dương Vương, phường 10, quận 6 cho đến hôm nay. Trong quá trình đạo di chuyển nhiều nơi, Ngài vẫn trụ và sinh hoạt thường xuyên tại Điện Long Vân Chuyển Pháp.
Đến năm 2009 được sự kêu gọi của Ngài Thiên Pháp tại Tổ Đình Quốc Tổ Lạc Hồng số 94, đường Nguyễn Thái Sơn, phường 3, quận Gò Vấp, t/p. Hồ Chí Minh để lo tu sửa, trang trí nội điện; tại đây Ngài đảm trách cúng kiến lễ nghi trong những ngày sóc, vọng, tổ chức mừng các lễ lớn hằng năm như vía Đức Lạc Long Quân Phụ mùng 1 tháng giêng; vía Quốc Tổ Hùng Vương mùng 10/3; vía Quốc Mẫu Âu Cơ mùng 5/5 Âl.
Cho đến mùng 10/3 Canh Dần (2010) được Nhà nước công nhận Quốc Lễ Hùng Vương (giờ được tổ chức hằng năm), Ngài đã tổ chức thật long trọng Giỗ Tổ và lễ kỷ niệm mừng 1.000 năm Thăng Long lịch sử, được báo, đài HTV 7 (Nét đẹp Việt) và HTV 9 (Cuộc sống quanh ta) đón nhận. Song song đó Ngài còn in ấn kinh sách gởi ra Đền Hùng (Phú Thọ) và Đền Hùng quận 9, t/p.Hồ Chí Minh.
Ngày 06/12/2012 được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) diễn ra tại Pháp công nhận ghi danh là Đạo tín ngưỡng Phi Vật Thể.
Tiếp nối truyền thống của Đức Thiên Bảo, Ngài Thiên Đại vẫn luôn giữ mối Đạo Huỳnh dù biết bao khảo đảo từ trong gia đình lẫn Phái Đạo nhưng luôn vững vàng, một lòng hướng về sự mầu nhiệm của Thiêng Liêng cao cả. cho đến ngày 8/5 Nhâm Thìn (2012) tại Điện Long Vân Chuyển Pháp, Ngài được hồng ân của Ơn Trên Thầy Mẹ sắc ban có Đệ Tam Chưởng Giáo Thiên Bảo Như Lai về dạy tả kinh "Tâm Pháp Khai Thị ". Sau đó Ngài Thiên Đại lo in ấn nhiều quyển Đặc San này gởi chuyển tới các Chùa, Thất v.v... và đặc biệt ở Tâm Pháp Khai Thị rất có giá trị theo từng đặc điểm thời gian.
Ngày 9/4 Giáp Ngọ (2014) cũng là ngày Ngài Thiên Đại hoàn thành đại tịnh cơ bản tại Thánh Tịnh Long Thành, và được thọ phong Sĩ Nguyên. Sau đó được cấp thẻ Phái Đạo Cao Đài Chiếu Minh vào 20/09/2016. và Ngài tiếp tục mang trọng trách 3 vai trong: Hội Thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo, Tổ Đình Quốc Tổ Lạc Hồng và Cao Đài Chiếu Minh. Ngài đi liên giao hành đạo vào các lễ kỷ niệm của Chi Phái Cao Đài, Hòa Hảo, Phật Giáo, Công Giáo. Khi được thư mời Ngài đều đi dự đầy đủ từ các Hội Thánh, Thánh Thất, Thánh Tịnh, Nhà Tịnh, Điện, Đàn tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh như: Vũng Tàu, Long An, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Hà Tiên v.v...
Thời gian sau nầy Ngài lại lâm bệnh kéo dài làm trì trệ trong cơ thể nhưng vẫn luôn cố gắng hành đạo, vẫn đi liên giao, vẫn lo công quả, công trình mặc dù trong thân đã mang căn bệnh ngặt nghèo lúc nào cũng hành đau thân xác, đến khi bệnh trở nặng vào khoảng thời gian cuối đời Ngài cũng không xao lãng việc công trình và hành pháp cho tới lúc không còn vận động được nữa. Ngài đã liễu đạo vào lúc Dậu thời, mùng 5/8 Kỷ hợi (2019), hưởng thọ 62 tuổi tại Thánh Tịnh Bửu Quang Đàn (Cần Guộc), nơi Ngài đã điều trị thuốc nam. Lễ tang và Tuần Cửu, Tiểu Tường, Đại Tường được tổ chức tại Thánh Tòa Vô Vi Huỳnh Quang Sắc quận 8, t/p Hồ Chí Minh. Pháp thân Ngài được hỏa táng và thông đồng cùng biển cả như tâm nguyện lúc sinh thời. Tuy nhiên đến ngày 08/10 Kỷ Hợi (2019) thì Ngài được lệnh Thầy Mẹ cho về triều kiến và tiếp tục hành pháp nơi cõi vô vi, cho đến 26/10 Kỷ Hợi (2019) Ngài được đắc vị là Nhiên Đại Kim Tiên.
Trên đây là tóm tắt tiểu sử của Ngài Nhiên Đại Kim Tiên, Thiên danh Thiên Đại, Thế danh Lê Trung Đại, là người được thể hiện một tấm gương hy sinh hành đạo kể từ khi ngộ được đạo mầu cho đến ngày đắc thành quả vị, sự thể hiện thời gian tuy ngắn ngủi nhưng ý chí đã vượt lên chính mình làm nên đạo nghiệp vô cùng lớn lao trọng đại. Ngài luôn hòa duyên cùng mọi cảnh mà học đạo, vun bồi công quả, chuyên trì pháp môn trong từng bước vận hành liên giao hành đạo. Từ tấm gương "Nhẫn Hòa" là nền tảng cơ bản để vượt qua mọi thử thách gian truân. Sự khó khổ nhất trong giai đoạn cuối đời là nghiệp thân dồn trả. mỗi lúc cùng cực luôn cảm nhận được tình thương yêu của Thầy Mẹ động viên thúc đẩy tinh thần. Ngài Thiên Đại xuất thân cũng từ người đời đắm say mùi tục lụy, nhưng khi ngộ đạo thì cuôc đời là đạo sự, gia đình là gia đạo, chồng vợ đồng tu như cập đôi hoàn hão; công quả, công phu hăng say tích cực. Ngài cũng chính là sự tiêu biểu một tấm gương: "Tu nhứt kiếp ngộ nhất thời". Thì thật là:
Nhất thời tầm đạo tạo duyên Tiên,
Thọ pháp Từ Tôn ngộ diệu huyền.
Lục dục đoạn trừ, bền chí cả.
Thất tình phá giải,. giữ tâm nhiên.
Tiên huynh Thiên Đại tròn mơ ước,
Đạo muội Liên Thu nguyện cố chuyên.
Vui khổ từ đây đành gởi lại,
Trần gian, Tiên cảnh cách đôi miền./.