.....KINH TÙY THEO VIỆC
NGHI LỄ HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH
TÒA THÁNH LONG CHÂU
VII- PHẦN KINH TÙY THEO VIỆC
- KINH NHẬP HỘI⁽ [1] ⁾
(Giọng Nam Xuân)
Trên Bạch Ngọc Chí Tôn cao ngự,
Giữa Tây Phương nắm giữ Thiên Điều;
Dưới Ngọc Hư, kể bao nhiêu,
Thiêng Liêng các Đấng lập triều trị dân.
Một nuôi nấng tinh thần tinh khiết,
Hai dạy răn cho biết tội tình;
Ba lo trị thế thái bình,
Cộng chung Pháp Luật Thiên Đình chí công.
Các con vốn trong vòng Thánh thể,
Phép tu vi là kế tu hành;
Mở đường tích cực oai linh,
Cậy phương thuyết giáo vẽ thành kinh chơn.
Đại Từ Phụ ra ơn dìu dẫn,
Diệt trí phàm hờn giận ghét ganh;
Để tâm dưới ánh Chí Linh,
Soi tường chơn lý chỉ rành chánh văn.
Cơ chuyển thế khó khăn lắm nỗi,
Mượn Thánh ân xây đổi cơ Đời;
Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,
Câu kinh Vô Tự độ người thiện duyên.
Nguyện Ơn Trên cho yên trí não,
Nguyện Phật Tiên dạy bảo chơn linh;
Mang danh Hội Thánh đã đành,
Nâng tay nhục thể xây hình Chí Tôn.
Niệm:
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
. (Niệm 1 lần)
- KINH XUẤT HỘI ⁽ [2] ⁾
(Giọng Nam Xuân)
Nhờ Chí Tôn dạy khôn lẽ Đạo,
Phật Thánh Tiên nhỏ máu nhiệt thành;
Vạn linh đã hiệp Chí linh,
Hội xong cậy sức công bình Thiêng Liêng.
Đã gầy dựng nên quyền giáo hóa,
Phòng hiệp vầy trọn cả nguyên nhân;
Vẹn toàn phàm thể thánh thân,
Tùng theo Chơn pháp độ lần chúng sinh.
Các con cúi đầu trình Sư Phụ, (cúi đầu)
Gìn từ tâm khuyến nhủ tăng đồ;
Đạo hư vô, Sư hư vô,
Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.
Cứ nương dưới máy linh cơ Tạo,
Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà;
Cửa Địa Ngục, chóng lánh xa,
Mượn hình Thánh thể cất nhà cõi Thiên.
Niệm:
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Niệm 1 lần)
- KINH VÀO HỌC ⁽ [3] ⁾
(Giọng Nam ai)
Đại Từ-Phụ xin thương khai khiếu,
Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.
Dò đường Thánh khó khăn chẳng nại,
Tùng khuôn hồng nhỏ dại lớn khôn.
Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.
Nguyện Tam Cang gìn tâm trọn đạo,
Nguyện Ngũ Thường hiếu thảo làm khuôn.
Nguyện nên hương hỏa Tông đường,
Nguyện thương lê thứ trong trường công danh.
Cầu khẩn Ðấng Chơn linh nhập thể,
Thuyền thơ ngọn gió Các Ðằng xuôi đưa.
Niệm:
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
(Niệm 1 lần)
- KINH KHI ĐI NGỦ [4]
(Giọng Nam Xuân)
Các vật dục xảy ra một buổi,
Cả hành vi lầm lỗi khôn ngừa.
Sấp mình cúi lạy xin thưa,
Ơn trên Từ-Phụ cho chừa tội khiên.
Trong giấc mộng nghỉ yên hồn phách,
Đấng Thiêng Liêng năng mách bảo giùm.
Bồng-Lai Cực Lạc chỉ chừng,
Đẩy đưa xác tục dựa gần cõi linh.
Niệm:
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. (Niệm 1 lần)
- KINH KHI THỨC DẬY [5]
(Giọng Nam Xuân)
Vừa mở mắt giựt mình thức dậy,
Con mang ơn cúi lạy Từ-Bi.
Tử sanh, sanh tử là chi?
Gẫm trong giấc mộng cũng bì như nhau.
Đây tới sáng xôn xao với thế,
Những đua chen kiếm kế sanh nhai;
Có thân giữa chốn đọa đày,
Đếm ba vạn sáu ngàn ngày khó khăn.
Xin Từ Phụ ra ân cứu độ,
Tăng huyền linh giác ngộ chí thành;
Rõ phước đức, biết tội tình,
Nắm tâm đắp vững mặt thành Càn Khôn.
Trên nhờ có CHÍ TÔN che chở,
Thần, Thánh, Tiên, Phật hộ thân hèn;
Đường tu nối bước cho quen,
Xa trần tăm tối cận đèn Thiêng Liêng.
Niệm:
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Niệm 1 lần)
- KINH ĐI RA ĐƯỜNG [6]
(Giọng Nam Xuân)
Thân vận động trong trường thế sự,
Đạo nhơn luân cư xử cùng đời;
Đòi phen lúc biến khi dời,
Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.
Dòm thấy cuộc kinh dinh dưới mắt,
E trở tâm tánh bắt đổi thay;
Con xin nương bóng Cao Đài,
Bước ra một bước cảm hoài căn tu.
Gót chơn đưarủi như sát mạng,
Vật hữu linh phàm nhãn khôn soi;
Xin tha họa gởi tai rơi,
Hồn linh nhờ có ơn Trời chứng minh.
Đại Từ Phụ oai linh bảo hộ,
Những chông gai quét ngõ ven đường,
Đi an khương, về an khương,
Cõi Thiên, cảnh tục cũng đường chung nhau.
Niệm:
Nam Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Niệm 1 lần)
- KINH KHI VỀ [7]
(Giọng Nam Xuân)
Cảm tạ ơn trên đầu dìu đỡ,
Từ khi đi khi trở lộn về;
Đặng xong phận sự mọi bề,
Tâm tu lại vững chẳng hề lảng xao.
Những nhớ bước động Đào buổi trước,
Những nhớ khi Hớn rước Diêu Trì;
Găn Ta Ca, đỡ bước đi,
Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.
Dẩy xe trâu Côn Lôn trổi bánh,
Lý Lão Quân mong lánh phong trần;
Núi Ô Li Vê để dấu chân,
Gia Tô Giáo Chủ giải phần hữu sanh.
Con nguyện xin khuôn linh giúp sức,
Bước ta bà giục thức huệ quang;
Lòn thân dưới phép sầu than,
Tìm phương cứu khổ mở đàng giải căn.
Niệm:
Nam Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Niệm 1 lần)
KINH VÀO ĂN CƠM [8]
(Giọng Nam Xuân)
Giữa vạn vật con người một giống,
Phải uống ăn nuôi sống thây phàm;
Từ bi ngũ cốc đã ban,
Dưỡng nuôi con trẻ châu toàn mảnh thân.
Công Thần Nông hóa dân buổi trước,
Dạy khôn ngoan học chước canh điền;
Nhớ ơn bảo mạng Huyền Thiên,
Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh-sanh.
Niệm:
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Niệm 1 lần)
KINH KHI ĂN CƠM RỒI [9]
(Giọng Nam Xuân)
Nguyện nhớ ơn Nông Canh nhằn nhọc,
Nguyện ơn người lúa thóc giã xay;
Ngậm cơm ơn ngậm hằng ngày,
Nên người con nguyện ra tài lợi sanh.
Con cầu xin mảnh hình tráng kiện,
Giúp nên công xây chuyển cơ Đời;
Trên theo pháp luật Đạo Trời,
Niệm:
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Niệm 1 lần)
KINH TỤNG KHI VỢ QUI LIỄU [10]
(Giọng Nam Ai)
Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn đạo,
Theo tùng phu sửa áo nâng khăn;
Âm dương đôi nẻo chia phân,
Túy sơn Vân mộng mới gần đặng nhau.
Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,
Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung;
Thấy cơn tử biệt não nùng,
Hương thề tắt ngọn lạnh lùng tơ duyên.
Càng nhớ đến lời nguyền buổi trước,
Thẹn non sông chưa ngớt tình nồng;
Phụ phàng chi bấy Hóa công,
Lòng nào mà lại cắt lòng không đau.
Nối Tông Tổ biết bao nghĩa trọng,
Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du;
Mập mờ nhắn nguyệt đêm thu,
Kẻ còn người mất ai sầu hơn ai?
Vói nhắn khách Dạ đài có tưởng,
Vậy bóng hình để tướng nơi nao?
Hay là lạc bước nguồn đào,
Để thương cho mặt anh hào đeo mang.
Ngồi quạnh quẻ đèn tàn một bóng,
Chịu góa thân tuyết đóng song thu;
Bước Tiên nàng đã ngao du,
Đoái tình thương kẻ ôm cầu khóc duyên.
Hay nàng đặng nhập miền Cực Lạc,
Đoái tưởng người chưa thoát trầm luân;
Ngước trông níu ngọn phất trần,
Chổi Tiên quét sạch nợ nần oan gia.
Dâng mảnh tâm gọi là của lễ,
Chén ly tình là lệ ái ân;
Dầu chi cũng nghĩa chí thân,
Khối tình còn có một lần đây thôi.
KINH TỤNG KHI CHỒNG QUI VỊ [11]
(Giọng Nam Ai)
Niềm ân ái thân hòa làm một,
Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương;
Nhắn mưa gởi gió đưa thương,
Từ đây thiếp tỏ đoạn trường với ai?
Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,
Càng ngổn ngang mối nợ tình chung;
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.
Dầu sống sót cũng đành gọi thác,
Vui chi còn man mác tơ duyên;
Thiệt thòi cam phận thuyền quyên,
Chứa chan giọt lệ cửu tuyền cuộn trôi.
Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,
Xin hiển linh giúp kẻ góa thân;
Chở che khỏi kiếp phong trần,
Gìn gương liệt nữ hồng quần để soi.
Chàng dầu đặng thảnh thơi cảnh trí,
Hộ dâu con giữ kỹ nhơn luân;
Chàng dầu vinh hiển cảnh Thần,
Gởi trong giấc mộng đặng gần cùng nhau.
Chàng dầu hưởng Thiên Tào quyền phép,
Đỡ đường trần chật hẹp thân côi.
Chàng dầu cung Ngọc an ngôi,
Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.
Gởi hồn phách cho chàng định số,
Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.
Thiếp cam bao tóc thờ chàng,
Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!
KINH TỤNG CHA MẸ ĐÃ QUI LIỄU [12]
(Giọng Nam Ai)
Ơn cúc dục cù lao mang nặng,
Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa;
Âm dương cách bóng sớm trưa,
Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.
Đầu cúi lạy .. .. linh hiển,
Lễ muối dưa làm miếng hiếu tâm.
Ven Trời gởi chút tình thâm,
Động lòng thương nhớ tuôn dầm lệ sa.
Xin có tưởng ruột rà máu mủ,
Cõi hư linh bao phủ ân hồng;
Cảnh Thiên noi bước Hóa Công,
Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như Lai.
Chốn Hư Linh chờ ngày hội hiệp,
Dầu căn xưa quả kiếp dường bao;
Thà cam vui chốn động Đào,
Đừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian.
Nuốt tiếng than đôi hàng lã chã,
Tưởng đến điều nhơn quả mà đau;
Xem thân tuổi hạc càng cao,
E ra tử biệt Thiên Tào định phân.
Nối hương lửa nhơn luân đạo trọng,
Con gìn câu chết sống trọn nghì;
Sấp mình cúi lạy Từ Bi,
………………………………………
Xin . . [13].. . định thần định tánh,
Noi khuôn linh nẻo Thánh đưa chơn;
Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.
Chung ly biệt con đưa tay rót,
Mối thương tâm chưa ngớt đeo sầu.
Cha ở đâu…., mẹ nơi đâu?..... [14]
Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.
KINH CẦU BÀ CON THÂN BẰNG CỐ HỮU
ĐÃ QUI LIỄU [15]
(Giọng Nam Ai)
Khi dương thế không phân phải quấy,
Nay hư linh đã thấy hành tàng.
CHÍ TÔN xá tội giải oan,
Thánh, Thần, Tiên, Phật cứu nàn độ căn.
Đã tầng chịu khó khăn kiếp sống,
Định tâm thần giải mộng Nam Kha.
Càn khôn để bước Ta bà,
Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.
Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước,
Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
Tiên phong phủi ngọn phất trần,
Liên đài đỡ gót đến gần Tây Phương.
Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,
Tầm không môn đặng đợi Như Lai.
Hào quang chiếu diệu Cao Đài,
May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh.
Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,
Cõi Đào nguyên cỡi hạc thừa long.
Lánh xa trược chất bụi hồng,
Cung Tiên sớm tối vui vòng thung-dung.
Nơi cung Ngọc học thông Đạo cả,
Chốn Hư Vô Tạo Hóa tìm cơ.
Trên đường Thánh đức lần dò,
Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hóa Công.
Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,
Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.
Ngân Kiều Bát Nhã qua bờ,
Đưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng. /.
KINH CẦU TỔ PHỤ ĐÃ QUI LIỄU ⁽ [16] ⁾
(Giọng Nam Ai)
Giọt máu mủ lưu truyền tại thế,
Con những mong truyền kế lửa hương,
Nguyện cùng Thất Tổ xin thương,
Cho bền gan tấc noi đường thảo ngay.
Xưa chẳng đặng phước may gặp Đạo,
Nay phò trì con cháu tu tâm;
Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,
Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.
Dầu tội chướng ở miền địa giái,
Dầu oan gia ở ngoại Càn khôn;
Dầu mang xác tục hay hồn,
Nhớ cầu Từ Phụ CHÍ TÔN cứu nàn.
Dầu đoạt vị ở an Thiên cảnh,
Dầu tái sanh mở cảnh siêu phàm;
Nương thuyền Bát Nhã cho an,
Dìu chừng con cháu vào đàng nghĩa nhân.
Kìa lố bóng hồng ân bao phủ,
Cả thế gian đầy đủ đạo mầu;
Âm dương đôi nẻo như nhau,
Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì.
Chốn Tây phương đường đi thong thả,
Cõi Diêm Cung tha quả vong căn;
Tiêu diêu định tánh nắm phan,
Dò theo Cực lạc đon đàng siêu thăng.
Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm,
Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương;
Tấc lòng đòi đoạn đau thương,
Chơn mây vái với hương hồn hiển linh.
KINH TỤNG KHI VUA THĂNG HÀ [17]
(Giọng Nam-Ai)
Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,
Đạo quân vương chữ dặn nơi lòng;
Thượng hoàng sánh đức Chí Công,
Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.
Giúp xã tắc tôi trung ra mặt,
Dẫy xa thơ trổi nhặt Văn minh;
Giúp dân hưởng chữ thái bình,
Văn ban võ bá triều đình đặc an.
Nay gần đặng Ngọc Hoàng Thượng Đế,
Tìm Chí linh trị thế cứu đời.
Thiên Tào Thánh ngự an ngôi,
Cầu cho dân chúng khỏi hồi can qua.
Bốn ngàn năm quốc gia đã lập,
Cõi Nam Châu bồi đắp giang-sơn;
Trụ tâm nâng đỡ quốc hồn,
Giữ bền đảnh-nghiệp vĩnh tồn hậu lai.
Kìa CHÍ TÔN CAO ĐÀI đương ngự,
Rưới hồng ân chặt giữ biên cương.
Sống thì định bá đồ vương,
Qui Thiên dựng lại miếu đường thuở xưa.
KINH TỤNG HUYNH ĐỆ MÃN PHẦN [18]
(Giọng Nam-Ai)
Niềm thủ túc đã đành vĩnh biệt,
Càng nhớ nhau càng tiếc tình nồng.
Thân nhau từ buổi lọt lòng,
Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau.
Câu chọc ruột còn đau đớn bấy,
Huống âm dương hết thấy mặt nhau;
Rẽ phân cốt nhục đồng-bào,
Cảnh thiên cõi tục lẽ nào không thương.
Thương những thuở huyên đường ôm ấp,
Thương những khi co đắp chung mền;
Thương hồi thơ bé tuổi tên,
Thương cơn khôn lớn giữ bền nghĩa nhau.
Rủi Thiên số Nam Tào đã định,
Giải căn sinh xa lánh trần ai;
Khá tua theo bóng CAO ĐÀI,
Nương mây thoát tục ra ngoài Càn Khôn.
Khối tình ái hương hồn dầu nhớ,
Tránh oan gia giải nợ trầm luân.
Viếng thăm hôm sớm …….
Trọng câu thần tỉnh ân cần cung Tiên.
Gởi Tổ Phụ ...........hiền cung phụng,
Gởi sắp em còn sống nơi đời;
Rót chung ly biệt lưng vơi,
Mảnh lòng tha thiết đưa người bạn xưa./.
KINH TỤNG KHI THẦY QUI VỊ [19]
(Giọng Nam Ai)
Đường công danh càng nhìn quảng đại,
Nghĩa thầy trò nghĩ lại khó quên;
Vái cùng Sư Phụ linh thiêng,
Chứng lòng đệ-tử đáp đền ơn xưa.
Dầu hoạn lộ chưa vừa sở nguyện,
Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân;
Ơn cha sanh-hóa ra thân,
Ơn Thầy giáo huấn cũng gần như nhau.
Khoa võ môn dầu nhào qua khỏi,
Trương vi rồng học-hỏi nơi ai;
Đẹp mình với vẻ cân-đai,
Công thầy tô điểm từ ngày ấu-xuân.
Cõi hư vô nay gần phước Thánh,
Xin châu toàn đường hạnh môn-sinh;
Cõi Thiên xin gởi chút tình,
Rót chung ly hận gật mình đưa thương.
ĐOÀN THỊ ĐIỂM
KINH CỨU KHỔ [20]
Nam mô Đại Từ, Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát
(đọc 3 lần).
Nam mô cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ. Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn, tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn. Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm linh nhơn thân đắc độ, hồi quang Bồ Tát, hồi thiện Bồ Tát, A Nậu Đại Thiên Vương chánh điện BồTát, ma kheo ma kheo thanh tịnh tỳ kheo, quan sự đắc tán tụng sự đắc hưu, chư Đại Bồ Tát, ngũ bá A La Hán, cứu hộ đệ tử ... [21]…nhứt thân ly khổ nạn, tự ngôn Quan-Thế-Âm anh-lạc bất tu giải, cần đọc thiên vạn biến tai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tín thọ phụng hành tức thuyết chơn ngôn viết: Kim Ba Kim Ba Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đa La Ni Đế, Ni Ha-La Đế, Tì Lê Ni Đế, Ma Ha Dà Đế, Chơn Lăng Càn Đế, Bồ Đề Tát Ta Bà Ha.
DI LẠC CHƠN KINH
BÀI KHAI KINH
Khai kinh kệ vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim thính văn đắc thọ trì
Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt ngã.
THÍCH CA MÂU NI VĂN PHẬT thuyết
DI LẠC CHƠN KINH
THƯỢNG THIÊN HỔN NGUƠN hữu: Barahma Phật, Civa Phật, Christma Phật, Thanh Tịnh Trí Phật, Diệu Minh Lý Phật, Phục Tưởng Thị Phật, Diệt Thể Thắng Phật, Phục Linh Tánh Phật, Nhứt thiết chư Phật, hữu giác, hữu cảm, hữu sanh, hữu tử trí khổ nghiệp chướng luân chuyển hóa sanh, năng du ta bà thế giới độ tận vạn linh đắc quy Phật vị.
HỘI THIÊN NGƯƠN hữu: Trụ Thiện Phật, Đa Ái Sanh Phật, Giải Thoát Khổ Phật, Diệu Chơn Hành Phật, Thắng Giải Ác Phật, nhứt thiết chư Phật tùng lịnh DI LẠC VƯƠNG PHẬT, năng chiếu diệu quang tiêu trừ nghiệp chướng.
Nhược hữu chúng sanh văn ngã ứng dương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ tất đắc giải thóat luân hồi, đắc lộ Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn.
Nhược nhơn dương sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn hữu tội, nhược nhơn vô tội, thính đắc ngã ngôn, phát tâm thiện niệm, tất đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề tất đắc giải thoát.
Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh ma chướng, nhứt tâm thiện niệm: Nam mô Di Lạc Vương Bồ Tát, năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát ư nghiệp chướng tất đắc giải thoát.
HƯ VÔ CAO THIÊN hữu: Tiếp Dẫn Phật, Phổ Tế Phật, Tây Quy Phật, Tuyển Kinh Phật, Tế Pháp Phật, Chiếu Duyên Phật, Phong Vị Phật, Hội Chơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT dẫn độ Chơn Linh đắc Pháp, đắc Phật, đắc duyên, đắc vị, đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề chứng quả nhập Cực Lạc Quốc, hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên Thi tận độ Chúng Sanh đắc quy Phật vị.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu trì thính ngã dục đắc Chơn Truyền niệm thử NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT. Thưởng du ta bà thế giái giáo hóa Chơn Truyền phổ tế Chúng Sanh giải thoát lục dục thất tình thoát đọa luân hồi tất đắc giải thoát.
TẠO HÓA HUYỀN THIÊN hữu: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thử Luân Phật, dữ Cửu vị Nữ Phật, , như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh KIM BÀN PHẬT MẪU năng tạo, năng hóa Vạn Linh, năng du ta bà thế giái dưỡng dục quần sanh quy nguyên Phật vị.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân thính ngã dục tu phát nguyện nam mô KIM BÀN PHẬT MẪU dưỡng dục quần linh nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm hườn hư thi hình đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề Xá Lợi Tử quy nguyên Phật vị tất đắc giải thoát.
PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN hữu: Đa Pháp Phật, Tịnh Thiện Giáo Phật, Kiến Thắng Vị Phật, Hiển Hóa Sanh Phật, Trục Tà Tinh Phật, Luyện Đắc Pháp Phật, Hộ Trì Niệm Phật, Khai Huyền Cơ Phật, Hoán Trược Tánh Phật, Đa Phúc Đức Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh TỪ HÀNG BỒ TÁT, năng du ta bà thế giái thi pháp hộ trì Vạn Linh Sanh Chúng.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tín ngã ưng đương phát nguyện nam mô TỪ HÀNG BỒ TÁT năng cứu tật bịnh, năng cứu tam tai, năng độ tận Chúng Sanh thoát ư tứ khổ, năng trừ tà ma, năng trừ nghiệp chướng, tất đắc giải thoát.
HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN hữu: Diệt Tướng Phật, Đệ Pháp Phật, Diệt Oan Phật, Sát Quái Phật, Định Quả Phật, Thánh Tâm Phật, Diệt Khổ Phật, Kiên Trì Phật, Cứu Khổ Phật, Xá tội Phật, Giải Thể Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT thưởng du ta bà thế giái độ tận Vạn Linh.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tín ngã ưng đương phát nguyện Nam mô CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách nghiệp chướng, năng độ Chúng Sanh quá ư Cực Lạc, tức đắc giải thoát.
-Nam mô DI LẠC VƯƠNG PHẬT
-Barahma Phật,
-Civa Phật,
-Christma Phật,
-Thanh Tịnh Trí Phật
-Diệu Minh Lý Phật
-Phục Tướng Thị Phật
-Diệt Thể Thắng Phật
-Phục Linh Tánh Phật
-Trụ Thiện Phật
-Đa Ái Sanh Phật
-Giải Thoát Khổ Phật
-Diệu Chơn Hành Phật
-Thắng Giải Ác Phật
-NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT
-Tiếp Dẫn Phật
-Phổ Tế Phật
-Tây Quy Phật
-Tuyển Kinh Phật
-Tế Pháp Phật
-Chiếu Duyên Phật
-Phong Vị Phật
-Hội Chơn Phật
-KIM BÀN PHẬT MẪU
-Quảng Sanh Phật
-Dưỡng Dục Phật
-Chưởng Hậu Phật
-Thủ Luân Phật
-Cửu Vị Nữ Phật
-TỪ HÀNG BỒ TÁT
-Đa Pháp Phật
-Tịnh Thiện Giáo Phật
-Kiến Đắc Vị Phật
-Hiển Hóa Sanh Phật
-Trục Tà Tinh Phật
-Luyện Đắc Pháp Phật
-Hộ Trì Niệm Phật
-Khai Huyền Cơ Phật
-Hoán Trược Tánh Phật
-Đa Phúc Đức Phật
-CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT
-PHỔ HIỀN BỒ TÁT
-Diệt Tướng Phật
-Đệ Pháp Phật
-Diệt Oan Phật
-Sát Quái Phật
-Định Quả Phật
-Thành Tâm Phật
-Diệt Khổ Phật
-Kiên Trì Phật
-Cứu Khổ Phật
-Xá tội Phật
-Giải Thể Phật
(Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát) (niệm 3 lần)
KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Vì sợ sái hoặc là không biết,
Nên mau bổ khuyết đủ kinh;
Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,
Giờ này đệ tử tất tình ăn năn.
Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,
Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;
Hoặc là sơ sót nơi lòng,
Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.
Tưởng chuyện khác cũng trong tánh ý,
Hoặc nghĩ suy rối trí gần xa;
Sẵn đây hương, quả, hoa, trà,
Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.
Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,
Những câu kinh tụng thiếu sót sơ;
Độ giùm tiêu tội kịp giờ,
Ba lần sám hối mong nhờ ân dư./.
(đọc 3 lần)
- KINH SÁM HỐI⁽ [22] ⁾
(Giọng Nam Xuân)
KINH SÁM HỐI
Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
Đấng Hóa Công xét kỹ ban ơn;
Lòng đừng so thiệt tính hơn,
Ngày đêm than thở dạ phiền ích chi.
Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần luống ước cầu may;
Sang giàu chẳng khác như mây,
Khi tan, khi hiệp đổi xoay khôn thường.
Việc sanh tử như dường chớp nhoáng,
Bóng quang âm ngày tháng dập dồn;
Giữ cho trong sạch linh hồn,
Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.
Điều họa phước không may tìm tới,
Tại mình dời nên mới theo mình;
Cũng như bóng nọ tùy hình,
Dữ, lành hai lẽ công bình thưởng răn.
Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu;
Sao bằng ở phải buổi đầu,,
Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang;
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.
Nếu vội trách người trên thì đọa,,,
Cũng có khi tai họa trả liền;
Đó là báo ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu, lâu truyền cháu con.
Lo danh vọng hao mòn thân thể,
Ham làm giàu mà để bằng non;
Một mai nhắm mắt đâu còn,
Đem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng?
Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ hiền;
Làm lành đặng hưởng phước duyên,
Trong lòng nham hiểm lòng quyền giảm thâu.
Đừng tính kế độc sâu trong dạ,
Mà gổ ganh oán chạ thù vơ;
Trái oan nào khác mối tơ,
Rối rồi không gỡ bao giờ cho ra.
Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn;
Quấy rồi phải biết ăn năn,
Ở cho nhân hậu chế răn lòng tà.
Hãy có dạ kỉnh già thương khó,
Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền;
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Đỡ nâng yếu thế binh quyền mồ côi.
Làm con phải trau dồi hiếu đạo,
Trước là lo trả thảo Mẹ, Cha;
Lòng thành thương tưởng Ông, Bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu;
Ở sao đáng phận đạo dâu,
Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.
Đừng có cậy giàu sang chẳng nể,
Không kiêng chồng, khi dễ công cô;
Ấy là những gái hung đồ,
Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,
Thói lăng loàn bạc tác khinh khi;
Ngày sau đọa chốn Âm Ty,
Gông kềm khảo kẹp ích gì, rên la.
Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
Nghĩa anh em cư xử thuận hòa;
Vẹn tròn đạo cả giềng ba,
Kính anh, mến chị thì là phận em.
Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa;
Cũng là một gốc sanh ra,
Gồm bao nâng đỡ ruột rà thương nhau.
Người trung trực lo âu nợ nước,
Hưởng lộc vua tìm chút ân ban;
Chớ làm con giặc tôi loan,
Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.
Phần làm tớ thật thà trung tín,
Với chủ nhà trọn kính, trọn ngay;
Áo cơm no ấm hằng ngày,
Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.
Đừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
Mà quên lời phú thác dặn dò;
Trước người giả bộ siêng năng,
Sau lung gian trá so đo tấc lòng.
Phải chừa thói loài ong, tay áo,
Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà;
Gìn lòng ngay thẳng thật thà,
Nói năng minh chánh lời ra phải nhìn.
Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại,
Đừng gian mưu hãm hại người hiền;
Anh em bằng hữu kết nguyền,
Một lòng tin cậy phải kiêng, phải vì.
Chẳng thấy khó mà khi, mà thị,
Gặp người giàu mà vị, mà nâng;
Dầu khi gặp lúc gian truân,
Cũng đồng giúp ích chớ đừng mặt ngơ.
Làm người phải kỉnh thờ Thần, Thánh,
Giữ lời nguyền tâm tánh tưởng tin;
Hễ là niệm Phật tụng kinh,
Rèn lòng sửa nết khá in như nguyền.
Chừa thói xấu đảo điên trong dạ,
Muôn việc chi chẳng khá sai lời;
Dối người nào khác dối Trời,
Trời đâu dám dối ra đời ngổ ngang.
Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,
Mà dể duôi sanh biến lăng loan;
Con người có trí khôn ngoan,
Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi.
Phải cho biết kỉnh vì trên trước,
Đừng buông lời lấn lướt hồ đồ;
Thuận cùng chú bác cậu cô,
Bà con chòm xóm ra vô khiêm nhường.
Thấy già yếu hẹp đường nhường tránh,
Đừng chỗ đông buông tánh quá vui;
Cợt người ra dạ dể duôi,
Sanh điều xích mích đâu nguôi dạ hờn.
Khi tế tự chớ lờn, chớ dễ,
Việc quan, hôn, thủ lễ nghiêm trang;
Gìn lòng chẳng khá lăng loan,
Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.
Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,
Phước ấm no túc thực, túc y;
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn.
Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
Thấy trên đường miểng bát, miểng chai;
Hoặc là đinh nhọn, chông gai,
Mau tay lượm lấy đoái hoài kẻ sau.
Ấy làm phước khỏi hao, khỏi tốn,
Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền;
Bắc cầu đắp sửa đường liền,
Kẻ qua người lại bước yên gọn gang.
Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Rán tập thành sửa tánh từ hòa;
Việc lành chẳng khá bỏ qua,
Tuy rằng nhỏ nhít cũng là công phu.
Năng làm phải, nhựt nhu, ngoạt nhiễm,
Lâu ngày dồn tính đếm có dư;
Phước nhiều tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt không tư chẳng vì.
Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,
Thường dạn làm tội lại hằng hà;
Vì chưng tựu thiểu thành đa,
Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.
Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng;
Làm người nhơn nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,
Giúp cho người chớ vội khoe ra;
Việc chi cũng có chánh, tà,
Làm điều phải nghĩa lánh xa dày vò.
Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,
Liệu sức mình cho hẵn sẽ làm;
Chớ đừng thấy của dấy tham,
Giục người làm quấy ắt cam đồng tình.
Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù;
Trong đời rất hiếm võ phu,
Lường cân, tráo đấu, dối tu, cúng chùa.
Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,
Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh;
Lương tâm thường xét cho rành,
Của công phải nghĩa chớ sanh lòng tà.
Người quân tử chẳng thà chịu khổ,
Đâu làm điều nhục Tổ, hổ Tông;
Đứa ngu thấy của thì mong,
Không gìn tội lỗi phép công nước nhà.
Bày chước độc xúi ra việc quấy,
Tổn cho người mà lấy lợi riêng;
Hễ nghe khua động đồng tiền,
Sửa ngay làm vạy không kiêng chút nào.
Người nghèo khổ biết sao than kể,
Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền;
Làm quan tính kế đảo điên,
Gạt thâu gia sản đất điền của dân.
Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu;
Trong lòng mưu chước rất sâu,
Mai sau suy sụp đáo đầu ra chi.
Gái xướng kỵ, trai thì du đảng,
Phá tan hoang gia sản suy vi;
Làm người phải khá xét suy,
Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.
Còn một nỗi gian dâm đại tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh;
Tuy là Trời, Đất rộng thinh,
Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.
Lương tâm biết hỗ ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng đội lông mang;
Việc lành việc dữ đồn vang,
Tuy là bóng khuất xương tan, tiếng còn.
Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng;
Làm điều nhục nhã Tổ tong,
Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
Đừng buông lung lầm lỗi năm hằng;
Hung hoang tội báo nghiệt căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.
Thà tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lũ làm ăn;
Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
Lòng Trời, Đất thương đều muôn vật,
Đức háo sanh Tiên, Phật một màu;
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.
Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tiệt giống dứt nòi;
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế ngạo ngoan xảo trá,
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng;
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng biết chừng nào an.
Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,
Cướp giựt rồi chém giết mạng người;
Đoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
Hiếp người lương thiện phá đời hại dân.
Tua khá tưởng thương lần nòi giống,
Hãy xét vì mạng sống khó cầu;
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến lấy xâu ăn đầu.
Phải hiểu biết máy xâu họa kín,
Thánh, Thần đâu tư lịnh bỏ qua;
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác đọa sa A Tỳ.
Sống dương thế hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình;
Ăn năn khử ám hồi minh,
Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.
Đừng cố oán thầm lo gây họa,
Đem lòng thù hăm dọa rắp đường;
Đốt nhà, tháo cống, phá mương,
Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.
Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
Cho người hiền chịu lỗi vương mang;
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ quỷ cơ hàn khổ thân.
Đời nhiều kẻ khi Thần, thị Thánh,
Ám muội lòng tánh hạnh ngỗ ganh;
Thấy ai làm phải, làm lành,
Xiễm dèm cho đặng khoe danh của mình.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà;
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo oan gia chẳng rời.
Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quả,
Lánh kẻ tà chẳng khá nên gần;
Thí tiền, thí bạc, chuẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban.
Đêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ lầm lũi ngổ ngang;
Âm đài gông trỏng sẵn sang,
Chờ khi thác xuống cổ mang hành hình.
Các thơ truyện huê tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy luân thường;
Nói lời tục tĩu khôn nhường,
Tội hành cắt lưỡi trăm đường ghê thay.
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
Tới làm chùa, dối cậy in kinh;
Ăn gian xới bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm Vương.
Thêm những sải giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi;
Ngày sau đọa lạc Âm Ty,
Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
Đốt ra tro bỏ chảy dòng sông;
Thủy triều vận tải biển đông,
Lòng hằng dường ấy, phước đồng ăn chay.
Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong;
Làm ra lúa gạo dày công,
Dầm mưa dạn nắng kẻ nông nhọc nhằn.
Nhờ Viêm Đế đức cao ân nặng,
Tìm lúa khoai người đặng no lòng;
Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.
Chớ hiểm độc dạ lang lần lựa,
Nhơn thất mùa bế vựa gắt gao;
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc Trời nào dung cho.
Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời;
Túng cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.;
Chớ oán chạ tham lam ngược ngạo,
Bội nghĩa ân trở tráo chước sâu;
Luân hồi thưởng phạt rất mầu;
Chuyển thân tái thế ngựa trâu công đền.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo;
Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,
Lời tăng quá vốn kẻ nghèo xiết than.
Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn;
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi;
Đừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa đòn roi không từ.
Tánh độc ác tội dư tích trữ,
Chốn Âm Cung luật xử nặng nề;
Đánh đòn khảo kẹp gớm ghê,
Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.
Miền âm cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương trần tội quá dẫy đầy;
Thánh hiền kinh sách dạy bày,
Lòng người ám muội lỗi gây ra hoài.
Kẻ lỗ mảng chê bai khinh dể,
Rằng thác rồi còn kể ra chi;
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy;
Thi hài như gỗ biết gì,
Linh hồn là chủ thông tri việc đời.
Lúc chung mạng dứt hơi, hồn xuất,
Quỉ vô thường sẵn chực đem đi;
Dắt hồn đến chốn Âm Ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
Người lương thiện ra vào thong thả,
Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh;
Phật, Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan giác hườn hình như xưa.
Con bất hiếu xay cưa đốt giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan;
Chuyển thân trở lại trần gian,
Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh;
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,
Có chồng còn lại ngoại tình với trai.
Kẻ tham lợi cột mai, cột mối,
Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon;
Dỗ dành, rù quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm Đình phạt quở trừng răn;
Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,
Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.
Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê;
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
Hành đến chết hườn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh lâu;
Ngày đêm đưa rước chực chầu,
Công bình Thiên Đạo phép mầu chí linh.
Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh,
Cối đạp đồng rất mạnh giã dần;
Ấy là phạt kẻ lường cân,
Đo gian, đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm lại phân thây;
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tôn giáo đọa đày thế ni.
Ao nước nóng sôi thì sục sục,
Dầm cho người rã rục thịt xương;
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.
Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy rùng mình tán đởm rất ghê;
Thây người máu chảy dầm dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.
Phạt những kẻ sửa ngay ra dại,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung;
Hành rồi giam lại Âm Cung.
Ngày đêm đánh khảo căng cùm xiềng gong.
Hình Bào Lạc cột đồng vòi vọi,
Đốt lửa hồng ánh vọi chói lòa;
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà, bắn săn.
Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhơn quào quấu xé thây;
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị ngay hình nầy.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,
Xô người vào, lội lặn nhờm thay;
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống gậy cây dánh đầu.
Để hành kẻ chứa xâu, lường của;
Trù ếm người, chửi rủa Tổ tông,
Đồ dơ giặt đổ rạch sông,
Đương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quan;
Buông lơi tục tĩu dâm loan,
Lâu mau nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.
Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng;
Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỉ Dạ xoa đánh vả kẹp cưa;
Vì chưng chửi gió mắng mưa,
Kêu tên Thần Thánh chẳng chừa, chẳng kiêng.
Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn gian giảo ngược ngang;
Hành người bế tịch, chợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.
Thành uổng tử cheo leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên xiết khóc than;
Dương gian ngỗ nghịch lăng loan,
Liều mình tự vận không màng thảo ngay.
Xuống địa ngục đọa đày hành mãi,
Đúng số rồi còn phải luân hồi;
Hóa công xem xét đền bồi,
Lành siêu, dữ đọa thêm nhiều tội căn.
Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn rùng mình;
Hụt chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó cua kình rỉa thây.
Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người;
Gặp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời,
Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài;
Phạt răn quến gái, dụ trai,
Bày ra thuốc độc phá thai tiệt loài.
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn;
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.
Ngặt có kẻ tưởng Trời, tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành;
Lâm nguy nguyện vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
Chớ thái quá đừng hòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày;
Làm lành xem phải nói ngay,
Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.
Lời kệ sám lưu truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà;
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu, diễn ra ích gì?
Chớ buông tiếng thị phi khinh dễ,
Rán làm lành phước để cháu con;
Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa./.
Bài khen ngợi kinh Sám hối
Nghe lời khuyến thiện rất may,
Nguyện lòng niệm Phật, ăn chay làm lành.
Ngày ngày tập sửa tánh thành,
Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.
Một là hối ngộ tội căn,
Hai là cầu đặng siêu thăng Cửu Huyền.
Đương sanh hạnh hưởng phước duyên,
Trong già trẻ miên miên thái bình.
Sau dầu đến chốn Diêm Đình,
Linh hồn trong sạch nhẹ mình thảnh thơi.
Luân hồi trở lại trên đời,
Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
Cầu xin trăm họ bình an,
Nước giàu dân mạnh thanh bình muôn năm./.
- KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Vì sợ sái hoặc là không biết,
Nên mau lo bổ khuyết đủ kinh;
Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,
Giờ nầy đệ tử tất tình ăn năn.
Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,
Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;
Hoặc là sơ sót nơi lòng,
Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.
Tưởng chuyện khác cũng tromg tánh ý,
Hoặc nghỉ suy rối trí gần xa;
Sẳn đây hương quả hoa trà,
Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.
Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,
Những câu kinh tụng thiếu sót sơ ;
Độ giùm tiêu tội kịp giờ,
Ba lần sám hối mong nhờ ơn dư./.
(đọc 3 lần)
KINH VĂN TU CHƠN THIỆP QUYẾT⁽ [23]⁾
NGỌC lịnh ban hành khải cửu cung,
HOÀNG môn xuân sắc tượng ung dung.
THƯỢNG hành hạ hiệu đô công quả,
ĐẾ Đạo hoằng khai chiếm thượng phong.
1. Cung Bạch Ngọc ngự lâm bửu tọa,
Thọ chư Thần triều hạ đã yên;
Thân thân giá hạnh Nam thiên,
Trước xem Tam Giáo cháu Tiên con Rồng.
2. Đã đòi kiếp dày công nhọc sức,
Dạy chúng sanh kỉnh Phật thờ Trời;
Thương thay cũng tại số người,
Ngạo lời thánh huấn, kỉnh lời quỷ vương.
3. Lòng chẳng kể cang thường là đạo,
Dạ hằng lo hung bạo làm đầu;
Thấy vầy Thầy phải nghĩ sâu,
Tam Kỳ Phổ Độ năm châu phen nầy.
4. Lời Thầy phán rẽ mây vén ngút,
Kinh Thầy ban chạm ngọc khảm vàng;
Khác nào rọi đuốc chỉ đàng,
Khuyên con tạc dạ ghi xương chớ rời.
5. Sách chép chữ “khôi khôi Thiên võng”
Đời ghi câu “lộng lộng lưới giăng”
Nhặt thưa, mau chậm cân phân,
Mựa rằng sơ sót, mắt Thần không sai.
6. Thầy đã dạy nhiều bài vàng đá,
Con nỡ đành lòng dạ sắt đinh;
Con hư Thầy phụ chẳng đành,
Con nên Thầy được phỉ tình ước ao.
7. Đời hằng nói “Trời cao có mắt”
Sách thường biên “Thái Nhứt vô hình”
Minh mông, đồ sộ, rộng thinh,
Mà soi xét đủ tình hình thế gian.
8. Đây giáng bút ít hàng vắn tắt,
Đặng trao lời vuông tấc nhiệm mầu;
Chớ rằng chẳng tiếng cao sâu,
Khuyên thường giữ dạ, mựa hầu sai ngoa.
9. Ơn cúc dục công cha nghĩa mẹ,
Đức sanh thành nuôi bé dạy khôn;
Tục rằng cây cội nước nguồn,
Cây xanh nhờ có nước luôn tư mùa.
10. Cùng bạn tác không dua không nịnh,
Với anh em đừng phỉnh đừng phờ;
Thấy người quyền quý đừng mơ,
Gặp người hoạn nạn chớ lơ lảng lòng.
11. Đạo quân tử, vợ chồng gây mối,
Mối cang thường dòng dõi trổ nên;
Một lòng một dạ vững bền,
Sớm khuya dạy bảo, nhủ khuyên ngọt ngào.
12. Tình máu mủ đồng bào cốt nhục,
Cũng rún nhau một cục xắn chia;
Đừng toan chước quỷ phân lìa,
Ở cho hòa nhã, tiếng bia danh đồn.
13. Đạo thần tử lo tròn phận sự,
Nghĩa tôi con nắm giữ thân danh;
Sao cho công toại danh thành,
Sao cho muôn thuở sử xanh tên đề.
14. Cân Tạo Hóa nhiều bề mắc mỏ,
Máy kiền khôn hiếm chỗ cam go;
Nước đời sâu chống cạn dò,
Đừng chơi biển thẳm, chớ mò lạch khơi.
15. Thần Tiên đã bày lời trung chánh,
Thánh Hiền còn thêm gánh nghĩa nhơn;
Thương đời chẳng biết công ơn,
Chê bai thấp thỏi, chờn vờn cầu cao.
16. Muốn đặng ngọc thì vào non thẳm,
Muốn tìm vàng phải ngấm biển sâu;
Muốn cho phú quý, công hầu,
Thì tua gắng chí dãi dầu tuyết sương.
17. Ai cũng muốn Tây phương lạy Phật,
Sao không lo thánh thất chầu Thầy?
Vì con Thầy mới đến đây,
Cạn phân lợi hại, tỏ bày thiệt hơn.
18. Phải tích đức, tu nhơn làm trước,
Lo tu thân, tác phước cho cần;
Trên đầu có Thánh có Thần,
Có Trời có Phật cầm cân chẳng lầm.
19. Đừng tưởng chỗ tối tăm chẳng thấy,
Chớ tưởng điều phải quấy không soi;
Có câu “khuynh phúc tài bồi”
Nước sông rông kém, máy Trời vần xây.
20. Vầng nhựt nguyệt đêm ngày soi xét,
Lẽ âm dương hàn nhiệt giao thông;
Có câu “thiên địa chí công”
Họa dâm, phước thiện, mảy lông chẳng chừa.
21. Đừng tưởng lấy vải thưa che Thánh,
Chớ tưởng rằng sức mạnh qua Trời;
Đáng thương mà cũng đáng cười,
Vì lòng kiêu ngạo dể ngươi Cao Dày.
22. Lòng bất nhẫn thêm bày ít đoạn,
Dạ từ bi phụ giảng vài bài;
Khuyên con tạc dạ, chớ sai,
Khuyên con chớ thấy dông dài bỏ qua.
23. Nên xa tránh dâm tà, sắc dục,
Hư thân danh, điếm nhục Tổ tông;
Hại nầy thiệt hại vô cùng,
Phật Trời chẳng chút thứ dung tội nầy.
24. Ví kiếp trước dẫy đầy âm chất,
Sa mê dâm, phước đức tiêu mòn;
Hại mình, hại vợ, hại con,
Hại luôn sự nghiệp, hại dồn đời sau.
25. Chước quỷ quái, lòng sâu dạ độc,
Kế tinh yêu, nước đục béo cò;
Lập mưu thả lưới giăng dò,
Hại người lương thiện, ấm no thân mình.
26. Người cậy thế, khôn lanh xảo trá,
Trời dành phương nhơn quả trả vay;
Phủi tay chẳng kíp thì chầy,
Reo cười chưa thỏa, xin mày không cơm.
27. Đành búng rãy ngày đơm tháng giỗ,
Nỡ phụ phàng chim Tổ người Tông;
Ỷ mình đủ cánh đủ lông,
Quên ơn cha mẹ, phủi công ông bà.
28. Tội bất hiếu, phui pha đâu có,
Chữ vô tư tỏ rõ phải không?
Kiếm đao địa ngục song song,
Đem vào trước dạy vỡ lòng phanh gan.
29. Chủ lường gạt, buôn gian bán lận,
Tớ gian tham, lời chận lỗ thêm;
Miếng môi chuốt ngót cho êm,
Lường công tiếc việc, dao ghim đầy lòng.
30. Phường sâu độc toan phòng ngọt mật,
Tính cưu mang nhử bắt giết ruồi;
Mưu sâu gẫm lại, than ôi!
Hồi đầu báo ứng, kêu Trời muộn thay!
31. Ngày chí tối phô bày nanh vút,
Sớm cùng trưa xúi giục kiện thưa;
Xiết bao kế lận mưu lừa,
Ôm gồm hai phía, đỏng đưa đôi đàng.
32. Cậy quyền thế tham quan ô lại,
Giả xưng hô quý phái cao môn;
Líu lo ba tấc lưỡi giòn,
Đã thâu của báu lại bòn đồ xưa.
33. Giọt thán oán như mưa thấy thảm,
Tiếng bi ai dường sấm bên tai;
Sống cho vạn ách thiên tai,
Thác cho kiếp kiếp đầu thai bồi thường.
34. Dối Thần Phật gạt lường tế độ,
Phỉnh chúng sanh tu bổ chùa chiền;
Trọng tăng kỉnh Phật thiêng liêng,
Lòng thành dưng cúng, bạc tiền sá chi.
35. Nghề đồng cốt khinh khi Tiên Bụt,
Nghiệp bóng chàng đàng đột hư vô;
Xác ông, xác cậu, xác cô,
Dưng chay cúng mặn, thế đồ, vớt vong.
36. Chẳng hiểu chữ “sắc không, không sắc”
Chẳng thông câu “không có, có không”
Giam vào vô để lao lồng,
Chờ ngày phán đoán đại đồng thế gian.
37. Kẻ bợ đỡ mua quan bán bạn,
Tánh nịnh dùa giả dạng cầu thân;
Cũng phường mọt nước sâu dân,
Phú cho địa ngục trầm luân giam cầm.
38. Phô những lũ tiềm tâm ích kỷ,
Khắp các phường tính kế hại người;
Hại người mình lại vui cười,
Hỏa khanh địa ngục đốt thời chẳng dung.
39. Răn đệ tử chớ dùng rượu thịt,
Khuyên chúng sanh rán ít chơi bời;
Sắc tài tửu khí hao hơi,
Gắng công tu niệm thờ Trời tụng kinh.
40. Lời Thầy phán phải tin phải tưởng,
Lời Thầy răn chớ cượng chớ sai;
Tu cho rạng tiếng Cao Đài,
Cha hiền con thảo, trai ngay gái lành.
41. Trối những kẻ khinh danh Đạo Cả,
Thây các phường thóa mạ, khi Thầy;
Khoe khoang, kiêu ngạo, đặt bày,
Đền xong tội thế, đến ngày gặp Ta.
42. Điều biếng nhác bởi già nghiệp chướng,
Tánh trù trì khó hưởng thanh nhàn;
Khuyên con giữ dạ bền gan,
Lòng lo tu niệm Thiên Đàng mau lên.
43. Mảng những ước thành Tiên thành Thánh,
Mà quên lo tu tánh tu tâm;
Tu cho bồi đắp thiện căn,
Tu cho trung hiếu, nghĩa nhân vẹn tuyền.
44. Tu là cứu Cửu huyền thất tổ,
Tu là cần phổ độ chúng sanh;
Cầu cho cải dữ về lành,
Cầu cho đất nước thái bình muôn năm.
45. Tu cho được Thần khâm quỷ phục,
Tu cho nên thoát tục siêu phàm;
Công danh, quyền quý, tước hàm,
Mây tan nước chảy mà ham nỗi gì.
46. Thế thường nói tu chi cho nhọc,
Để mà lo tước lộc, công hầu;
Sao không suy trước nghiệm sau,
Tiền căn hậu quả bởi sao được vầy?
47. Phân năng bón thì cây mới tốt,
Rễ thường tươi thì đọt mới xanh;
Muốn cho cả cội sung nhành,
Tu hành lo trước, sau đành thảnh thơi.
48. Thầy thương xót ngùi ngùi kẻ dại,
Muốn thành công mà lại ngao du;
Phật mang tám nạn cũng tu,
Thầy còn muôn kiếp công phu dãi dầu.
49. Ai dầu được công hầu, khanh tướng,
Mà không lo tiếp dưỡng, tài bồi;
Gốc cây sùng đục đã rồi,
Khôn trông nứt mụt nảy chồi, đơm bông.
50. Tu phước đức bền lòng cho lắm,
Tên quỷ vương hay nhắm người tu;
Mũi tên đã độc lại mau,
Ghim nhằm một mũi khó hầu gỡ ra.
51. Tên nó sắm những là rượu bọt,
Tên nó giồi: gái tốt, vàng ròng;
Muôn ngàn tên độc vô cùng,
Vương nhằm một mũi thì không còn hồn.
52. Tu thì chớ bôn chôn, nóng nảy,
Tu thì cho phải quấy phân minh;
Chánh tà, chơn ngụy được rành,
Phật Trời mới chứng cho mình rằng tu.
53. Tu cho được phụ từ tử hiếu,
Tu cho thành huynh hữu đệ cung;
Gái tu tứ đức, tam tùng,
Trai tu nhơn nghĩa, hiếu trung làm đầu.
54. Thế tưởng vậy là tu Nhơn Đạo,
Nào hay rằng Thiên Đạo bởi đây;
Chẳng lo Nhơn Đạo cho dày,
Mong thành Thiên Đạo mặc may làm gì.
55. Phật đã dạy Tam Quy, Ngũ Giới,
Đời chẳng tuân để hại Nguơn Thần;
Bởi thương nên mới phân trần,
Vì thương nên mới ân cần nhủ khuyên.
56. MỘT, khuyên phải kiền thiềng mộ đạo,
HAI, tuân lời Tam Giáo Thánh Nhơn;
Đạo là chí chánh chí chơn,
Những lời thánh huấn chạm xương ghi lòng.
57. BA, khuyên nhớ tổ tông công đức,
BỐN, lo tu đúng mực cang thường;
Cha sanh, thầy dạy kỷ cương,
Anh em bạn tác, náu nương vợ chồng.
58. NĂM, khuyên nhớ kẻ nông công khó,
SÁU, xót thương tàm phụ nhọc nhằn;
Cày sâu, cấy cạn, bón phân,
Làm nên tơ chỉ trăm phần lao đao.
59. BẢY, liên lạc đồng bào huynh đệ,
TÁM, khuyên đừng dua mị quyền môn;
Sao cho tiếng ngợi danh đồn,
Đáng trang đạo đức phải tôn phải vì.
60. CHÍN, khuyên chớ khinh khi cô quả,
MƯỜI, khuyên tua hỷ xả lỗi người;
Khuyên đừng biết giận hờn ai,
Xót người hoạn nạn, cứu nơi cơ hàn.
61. Được vậy mới gọi trang tu tánh,
Tánh tu rồi mới định tu tâm;
Càng tu càng thấy cao thâm,
Càng tu càng thấy sự lầm lạc xưa.
62. Biết lầm lỗi thì chừa cho gấp,
Đặng mau lo bồi đắp cội lành;
Như vầy mới gọi tu hành,
Như vầy mới gọi chứng minh bồ đề.
63. Khuyên con phải kiêng dè cho lắm,
Mười lời khuyên như tẩm cam lồ;
Đêm ngày dầu tụng nam mô,
Mà không noi giữ, nhành khô rễ còi.
64. Mừng con đặng có mòi tấn phát,
Rưới cho con nước mát mùi thơm;
Bốn mùa hoa nở trái đơm,
Hơi bay bát ngát, nhụy tươm ngọt ngào.
KỆ VIẾT
I. Giáng cơ chỉ rõ máy kiền khôn,
Ghi chép vài trang sách thánh ngôn.
Luân lý cang thường nền cả cội,
Nghĩa nhơn, trung hiếu vốn sâu nguồn.
Thành chơn phước bởi công vô lượng,
Đắc đạo ơn nhờ Đức Chí Tôn.
Khuyên nhủ các con tua gắng chí,
Tam Kỳ muôn thuở tiếng bia đồn.
II. Tiếng bia đồn để ức muôn năm,
Khuyên thế đừng tu độc hiểm tâm.
Thầm tối mưu gài chông lểu lểu,
Cao Xanh lưới bủa dạng tăm tăm.
Vô thường chẳng sợ tay oanh liệt,
Quỷ tốt nào kiêng bực phẩm hàm.
Thiện ác đáo đầu vay có trả,
Hoàng Thiên hữu nhãn chắc không lầm.
III. Chắc không lầm lỗi tiếng mười khuyên,
Thì được tên đề bảng Địa Tiên.
Muốn hưởng lâu dài nền hậu quả,
Phải lo bồi đắp cảnh tiền duyên.
Làm lành lánh dữ, câu thành ngữ,
Tốt đất sung nhành, lẽ tự nhiên,
Chí dốc siêu phàm lên cõi Thánh,
Phải lo vun tưới miếng tâm điền.
Các con, Thầy dạy bài Tu Chơn Thiệp Quyết nầy là chỉ đường ngay lẽ chánh cho các con đi, nẻo vạy thói tà cho các con sửa.
Trong lúc Thầy truyền đạo đây thì chư Thần Tiên ủng hộ theo Thầy, tường vân che phủ, thoại khí bao quanh; lại có Văn Xương Đế Quân ghi chép vào kim thơ ngọc sách, hầu để vào Tàng Kinh Bửu Viện.
Ba bài kệ các con phải giữ dạ nằm lòng, ngày đêm tụng niệm chớ khá bỏ qua, vì tụng kinh nầy đây thì Tứ Trị Công Tào sứ giả thảy hằng nghe mà biên chép công quả.
Thầy dạy bổn mạng Nguơn Thần của mỗi con xét coi trong lúc rảnh rang có trau giồi đạo đức như lời Thầy phán chăng. Các con hãy nghe, chớ rằng Thầy không nói trước.
Lời nào Thầy đã dỉ hơi ra,
Vàng ngọc gìn trau chớ bỏ qua.
Cung kỉnh ấy là nền đạo đức,
Kiêu căng vốn thiệt gốc yêu tà.
Nguơn Thần chiếu mạng người trung chánh,
Nghiệp chướng trì chơn đứa xảo ngoa.
Đừng tưởng Trời cao mà giả dối,
Mắt thần như chớp khó phui pha.
Các con, như có người nào ở ngoài vòng cửa mà muốn cho rõ mùi đạo lý của Thầy, thì các con cũng nên xét và dạy chúng nó bài “Thiệp Quyết” nầy.
Khuyên đời bỏ dữ đặng theo lành,
Ấy cũng là điều giúp chúng sanh.
Tiên tục thấp cao lời giác đát,
Nên hư chỉ rõ tiếng đành rành.
Thiện duyên yếu mối nên thưa thớt,
Nghiệp chướng già cây khó rắp ranh.
Vững lái êm chèo thuyền tế độ,
Đưa người đến bến mựa cành nanh.
- KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Vì sợ sái hoặc là không biết,
Nên mau lo bổ khuyết đủ kinh;
Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,
Giờ nầy đệ tử tất tình ăn năn.
Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,
Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;
Hoặc là sơ sót nơi lòng,
Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.
Tưởng chuyện khác cũng tromg tánh ý,
Hoặc nghỉ suy rối trí gần xa;
Sẳn đây hương quả hoa trà,
Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.
Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,
Những câu kinh tụng thiếu sót sơ ;
Độ giùm tiêu tội kịp giờ,
Ba lần sám hối mong nhờ ơn dư./.
(đọc 3 lần)
NGỌC MINH KINH
LỜI GIỚI THIỆU
Vào đầu thế kỷ thứ 20, đất nước và dân tộc Việt Nam nhỏ bé nhưng tràn đầy lòng hiếu hòa đạo đức của chúng ta đã hạnh ngộ một điều đại lành, đó là được Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế chọn lựa, xuống lằn điển huệ khai minh ra nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ vào Hạ-Ngươn năm Giáp-Tý (1924), với chủ trương quy Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi về mặt tinh thần. Kể từ đó đến nay, chư Phật Tiên Thánh Thần dùng huyền diệu cơ bút ban hành vô số Kinh điển, dạy dỗ nhơn sanh đường tu luyện để trở lại cội nguồn tâm linh, hầu biến thế gian nầy thành một cõi Thiên-Đàng.
Đến năm 1934, Đấng Chí-Tôn nơi Công-Tào Ngọc-Bản đã ban cho thế gian quyển “NGỌC-MINH-KINH” như một phương tiện để cho chúng sanh tụng niệm, cầu khẩn Chư Phật, Tiên, Thánh, Thần giáng hạ cứu khổ phò nguy trong thời Hạ Ngươn mạt kiếp đầy dẫy tai biến nầy.
” NGỌC-MINH-KINH” là quyển Kinh báu quý trọng, thế gian không dễ tìm cầu, nếu muốn đọc để tìm hiểu lý sâu thì không sao, nhưng nếu đã phát tâm tụng niệm để cầu vào diệu lực tế trợ của Bề-Trên thì phải hết lòng thành kính, trai giới tinh nghiêm mới được tụng Kinh nầy. Nếu không y lịnh dạy thì ắt họa thân. Chúng tôi chỉ y lịnh truyền đạt lời dạy của Bề-Trên khi cho Kinh, chứ tuyệt đối không dám thêm bớt điều chi.
Kinh là vật quý trọng, xin chớ khá dể-duôi, nên để nơi tôn kính và chỉ nên đọc cho nghe, hoặc cho mượn coi, chớ khá trao luôn cho người không ham mộ, rồi bỏ rơi rớt mà mang tội với Phật Tiên.
Thi rằng:
Kinh Thần, sách Thánh, giải phân minh,
Có chí kỉnh thành đọc mới linh.
Chọn được người lành trao phép báu,
Uổng truyền kẻ vạy chẳng lòng gìn.
Thiên Lý Bửu Tòa
NGỌC-MINH KINH
NGỌC-CHÂU MINH-ĐẠI CHƠN-KINH,
Cứu ách cứu nạn cả sanh linh,
Kiền khôn thâu Nhựt Nguyệt,
Chuyển vận nước thanh bình.
Chuyển Nhựt Nguyệt Kiền Khôn phút động,
Máy tuần hoàn mở rộng thế gian,
Huyền Khung Thượng Đế Ngọc Hoàng,
Cao Đài độ tận linh căn phản hồi.
Ác vàng bóng cơ Trời tương khắc,
Vầng Đông, Tây, Nam, Bắc ly kỳ,
Tây Cung Kim Mẫu Diêu Trì,
Độ siêu linh đức thoát ly khổ nàn.
Miền Cực Lạc Nhiên Đăng Bồ Tát,
Oai linh thần giải thoát ách tai,
Cỏ cây đượm tược đơm đài,
Ân hồng ban thưởng tháng ngày âu ca.
Tam Giáo Đạo Di Đà Phật Tổ,
Hóa nhơn thân điều độ phàm gian,
Khỏi cơn quỉ mị khuấy loàn,
Sanh linh hối ngộ lập đàng quy y.
Ơn Thái Thượng luân di Nhựt Nguyệt,
Hóa Tam-Thanh trừ diệt mị tà,
Cứu sanh linh thoát ái hà,
Khỏi cơn tai biến lánh xa mị tà.
Chí đức cả cao xa lý rộng,
Thần oai linh Đức Khổng Thánh Nhơn,
Phò nguy tế khổn trần gian,
Sửa đời an thạnh mở mang mối giềng.
Long Hoa hội chiếu truyền Di Lặc,
Bồ Tát linh giải thoát nguyên nhân,
Cầm quyền Đại Hội Phong Thần,
Bảo tồn vạn vật khỏi cơn nạn trần.
Đức Phục Hi, Thần Nông linh hiển,
Độ vạn dân thoát biển trần vơi,
Bốn phương đồng thọ sắc Trời,
Hóa hoằng ngũ cốc độ đời ấm no.
Miền Tây Âu Gia Tô Giáo Chủ,
U hiển linh vỏ trụ oai danh,
Cứu dân thiện nguyện làm lành,
Khỏi cơn phong vỏ thoát gành biển tây.
Nguyền Đại Đế Thiên oai chuyển vận,
Ba sáu phương ngôi đấng Thiên ban,
Bảo tồn trên cõi thế gian,
Thanh bình khắp chốn an bang dân tình.
Miền Cực Lạc vạn linh Chư Phật,
Đức Tổ Sư Bồ Tát từ bi,
Sanh linh gặp lúc loạn ly,
Tổ-Sư rưới chút mầu vi độ điều.
Lòng quảng đại thương đều vạn vật,
Đức Cái Thiên Cổ Phật độ an,
Linh chơn quá khứ kinh hoàng,
Phật-Đà cứu nạn tiêu tan tai trần.
Miền Trung-Giới sắc ân Chơn Võ,
Tuần bốn phương tế độ sanh linh,
Trừ yêu sắc chỉ Thiên Đình,
Chiêu an trăm họ thái bình dân sinh.
Oai Bắc Đế anh linh u hiển,
Thọ sắc Trời vận chuyển bốn phương,
Quỉ ma chẳng dám nhiểu nhương,
Thần thông biến hóa Thần nhường quỉ kinh.
Đông Phương Trấn tà tinh khiếp sợ,
Sắc tứ ban phò trợ phàm trần,
Tam Kỳ phận sự qui Thần,
Chưởng khai bảy sắc hộ dân thoát nàn.
Tây Phương Trấn bảo toàn thế giái,
Xem xét trần thọ phái Ngọc ban,
Xót thương hạ giới mắc nàn,
Một bầu linh dược độ toàn lúc nguy.
Nam Phương Trấn hiển vi độ thế,
Phép Thần Tiên phổ tế oan khiên,
Thiên văn địa lý chủ quyền,
Cảm thương nhơn vật dạy truyền cơ sâu.
Bắc Phương Trấn phép mầu hiển hích,
Chuyển oai linh bút tích phi phong,
Bảo an thế giới đại đồng,
Khử trừ yêu quái tinh thông phép thần.
Sắc Ngọc Đế xuống trần phò khổn,
Tế độ người lành chốn khổ tai,
Năm trăm La Hán thiên oai,
Độ sanh độ tử vẹn hai đều lành.
Cầu Trực Phẩm Chơn Thanh đoái tưởng,
Dạy chơn truyền vô lượng anh linh,
Qui phong, phục thủy, nhiên bình,
Chở che tánh mạng sanh linh mọi đàng.
Công đức trọng Kim Quang La Hán,
Mười tám phương cứu nạn chúng sanh,
Một bầu Nhựt Nguyệt thuốc linh,
Cứu an lê thế ân lành biết bao!
Nguyền Trị Nhựt Công Tào sứ giả,
Chiếu luật Trời cứu cả vạn bang,
Niệm danh u hiển mọi đàng,
Chứng lòng trần tục kíp sang cõi trần.
Oai danh Đức Tinh-Quân Bắc Đẩu,
Chuyển Kiền-Khôn trình tấu Ngọc-Hoàng,
Địa cầu thay xác rõ ràng,
Xin ban Ngọc-Sắc độ an người lành.
Thiên oai bố phước thanh rưới khắp,
Đức Thiện Chơn Bồ Tát Tây Phương,
Lãnh bầu đơn dược hiển dương,
Điểm khai linh tánh thoát đường muội mê.
Chốn Thiên Cung chỉ phê rành rạnh,
Ba sáu phương Sắc Thánh cấp lai,
Án tà, ếm mị thần oai,
Đại tài, đại lực chuyển sai các Thần.
Bát Tiên Chơn xót trần nạn khổ,
Lữ Đồng Tân bảo hộ dương gian,
Xin ơn Tiên Trưởng độ an,
Sắc Trời chiếu mạng băng ngàn cứu nguy.
Lượng Tiên Thánh Tam-Kỳ đồng thọ,
Lý-Dược-Sư chiếu số độ đời,
Phong ba một cuộc rã rời,
Thuốc linh cứu bịnh nghịch thời đặng yên.
Lam Thể Tiên lòng thiền bác ái,
Phép mầu ban đảo hải di san,
Ngày nay trần thế mắc nàn,
Xin cầu phép báu trừ tan tinh tà.
Hàng Tương Công hải hà rộng lượng,
Xin đoái thương chỉ hướng dắt đàng,
Nghe lời thiện niệm vái van,
Giáng lai cõi tục diệt loàn quỉ yêu.
Lòng quảng đại độ điều thế giái,
Trương Quả Tiên phá giải tà ma,
Thần linh phép nhiệm cao xa,
Cứu dân dạo khắp ta bà bố ban.
Cuộc đau đớn nhơn gian thống khổ,
Hớn Chung Tiên xin bố huyền vi,
Giáng lai cứu độ cấp kỳ,
Chúng dân thoát khỏi cơn nguy đảo huyền.
Nguyền Tiên Trưởng từ thiền đức cả,
Tào Quốc Tiên sắc giá cao ban,
Xót thương độ dẫn dân an,
Bịnh trần lắm khổ vì đàng tà tinh.
Thuốc Tiên rưới dân tình tỉnh dậy,
Hà Tiên Nương xem thấy xót thương,
Kiếp căn chỉ rõ dạy tường,
Một bình thuốc quí lạ thường phép linh.
Nơi thanh tịnh Xích Tinh Tử động,
Sắc Ngọc Hoàng phủ tống tà ma,
Hộ đời đặng khỏi tai ba,
Chúng sanh cầu nguyện kíp ra độ đời.
Quảng Thành Công Tiên ngôi rực rỡ,
Vâng sắc Trời giáng thế ân cần,
Một kỳ Đại Hội Phong Thần,
Ra tay tế độ trọn phần sắc ban.
Vương Thiền Công pháp quang tinh tấn,
Giáng chốn trần dìu dẫn nguyên căn,
Chơn truyền máy nhiệm vô ngằn,
Dạy đời linh hiển phép thần thông tri.
Quảng Huệ Tiên từ bi giáng hạ,
Độ đời cơn tai họa đa mang,
Một lòng thành kỉnh vái van,
Chuyển xây tứ hướng truyền ban cơ mầu.
Tôn Tiên Sư truyền câu thánh niệm,
Bảo tồn thân lúc hiểm cơn nguy,
Xuân thu mở hội Tam Kỳ,
Thông thiên lảm địa, lương tri đặng tường.
Chốn động phủ là phương yên lặng,
Xót linh căn mắc nạn thế gian,
Tôn Sư Lý Tịnh oai vang,
Thần khâm, quỉ phục kinh hoàng đức cao.
Chốn trần tục ba đào sóng bủa,
Dương Soái Thần cứu chữa đặng an,
Thủy bình, phong tịnh, vân tan,
Bốn phương cảm đức khỏi cơn ly nàn.
Thông Thiên Đạo hiển vang Giáo Chủ,
Ban ơn lành khắp xứ gội nhuần,
Mở mang nhị hội Phong-Thần,
Ơn dày đức rộng cân phân chơn truyền.
Lời sanh chúng chí nguyền van vái,
Ơn Tiên chơn chỉ dạy cơ mầu,
Bắ Linh hiển hiện lý sâu,
Nghe danh Tiên sắc đâu đâu cũng tùng.
Phép Xiển Giáo chơn công thuyết lý,
Chấp chưởng khai Nguơn Thỉ Thiên Tôn,
Bản Tiên hậu thế bia đồn,
Xin ơn đức cả độ cơn mắc nàn.
Phong Thần hội Thiên Đàng mở hội,
Cảnh Phổ Đà qui lại thọ truyền,
Quan Âm Lực Sĩ đại hiền,
Từ Hàng tế thế khắp miền hạ ban.
Núi Côn Lôn Thiên Quang chưởng lập,
Đức Thiền Sư lãnh pháp hạ trần,
Tam thiên đồ đệ linh thần,
Kíp mau hạ thế thọ ân cứu đời.
Miền Cực Lạc lịnh Trời tế độ,
Hiển hích linh Kheo Tổ Tây-Phương,
Sắc phong bản tạc Thiên Đường,
Hạ Nguơn độ tận Tây Phương trở về.
Minh Quang Phật chỉ quê hương vị,
Ơn đức dày khử mị, trừ yêu,
Trần gian nhờ phước độ điều,
Lánh nơi tục thế các điều oan gia.
Tinh Tấn Phật xót xa phàm tục,
Lãnh mạng Trời cửu khúc kim ngân,
Thừa vân xuống chốn phàm trần,
Sắc truyền điểm tánh Thiên ân Tam Kỳ.
Minh Mẫn Phật truyền y Lục Tự,
Cho chúng dân biết chữ thiện tâm,
Tây Phương linh phướng tay cầm,
Giữ hồn nhơn vật khỏi lầm bàng môn.
Công Minh Phật tâm hồn phút chuyển,
Bảy chơn thần hóa hiện cứu mê,
Truyền khai bảy sắc tư bề,
Một cây linh bút chỉ phê đành rành.
Thiên Quang Phật lòng lành thương thế,
Thập phương lo vớt kẻ mê say,
Trường phong gậy báu cầm tay,
Đầu sanh đầu tử cứu loài sanh linh.
Thanh Văn Phật Thiên Đình Ngọc sắc,
Giáng cõi trần trừ tắt lửa tà,
Phép linh niệm chú mưa sa,
Sanh linh nhờ sức khỏi sa bụi trần.
Thông Minh Phật thọ ân Giáo Chủ,
Bảy hào quang hiện đủ chói lòa,
Tinh tà tiêu tán tránh xa,
Sanh linh khỏi lạc tà ma dỗ dành.
Văn Bình Phật chơn thanh u hiển,
Mười tám câu hô chuyển núi sông,
Phàm gian cầu khẩn hết lòng,
Kíp mau giáng cõi trần hồng cứu nguy.
Tỉnh Thế Phật hộ trì hạ giái,
Bảy chơn ngôn đảo hải di san,
Bồ đề mười tám kim cang,
Trừ tan yêu động khuấy loàn thiện nhơn.
Bảo Thiện Phật mười phần xót thế,
Lãnh lịnh Trời bỏ phế kim ngôi,
Trần gian giáng xuống cứu đời,
Niệm câu “Vô-Cực”, tức thời hiển linh.
Phò Nguy Phật Tam Kỳ độ tận,
Tự viên minh tiếp dẫn linh quang,
Kim đơn lãnh tại Tây Phang,
Xuống trần cứu kẻ mê man phách hồn.
Bảo tồn thế Thiên Tôn Thái Ất,
Ba báu linh cứu cấp muôn loài,
Truyền ban lịnh xuống trần ai,
Chọn người căn vị trao tay linh thần.
Đức Phổ Hiền sắc ân Bồ Tát,
Oai linh thiêng thập bát thần thông,
Độ an Nam, Bắc, Tây, Đông,
Ân cao, đức trọng trần hồng gội ơn.
Động Tiên chơn sắc thần đem chiếu,
Cù-Lưu-Tiên danh hiệu hiển oai,
Phong vân ám hại trần ai,
Ơn cao thọ lịnh ra tài độ an.
Chốn Bồng-Lai thanh nhàn Tiên Trưởng,
Vì sắc Trời dạy xuống phàm gian,
Ban truyền sắc lịnh Kim Quang,
Cứu người đau đớn đặng an tinh thần.
Bách Linh Tiên chiếu căn cứu ách,
Lòng hải hà động thạch sắc ban,
Mười hai đệ tử lịnh truyền,
Giáng lai khử mị trừ tan yêu tà.
Bách Nguơn Tiên ta bà du ngoạn,
Xót nhơn sanh khổ nạn muôn điều,
Phép Tiên cực phẩm Linh Tiêu,
Truyền ban đệ tử độ điều thiện chơn.
Thống Linh Tiên Hạ Nguơn độ thế,
Thọ sắc Trời mau lẹ giáng lâm,
Giờ nay đệ tử chí tâm,
Cầu cho thoát khỏi luân trầm âm cung.
Chưởng Huệ Tiên thọ phong rành rạnh,
Ba sáu câu kệ lãnh hạ trần,
Ngày nay trần thế não nần,
Kíp mau cứu chữa bịnh trần đặng an.
Lương Võ Tiên bảo toàn khắp xứ,
Sắc Thiên-Hoàng lãnh sự trần gian,
Bảy hai kiển tự vẻ vang,
Độ người bước kịp linh phan trở về.
Ngoạn Chơn Tiên vị quê Bồng Đảo,
Sắc Ngọc Hoàng truyền giáo thế gian,
Cho nhơn sanh khỏi tai nàn,
Công cao độ thế bảng vàng tạc ghi.
Long Kim Tiên mầu vi bí yếu,
Dạy trần gian đặng hiểu chơn truyền,
Chở che trong lúc đảo huyền,
Linh căn lánh khỏi khổ miền thế gian.
Buổi Tam Kỳ sắc ban trọng hệ,
Cầm quyền trong bốn bể sanh linh,
Kim Tinh Thái Bạch Trường Canh,
Luật Trời cứu thế quyền hành Giáo Tông.
Khương sắc phong Thái Công thọ lịnh,
Đại Phong Thần chấp chỉnh xét soi,
Cảm lòng bác ái thương đời,
Đả Thần khử mị trừ loài quỉ vương,
Quan Thánh Đế Nam-Phương thọ sắc,
Giữ mối giềng Nam, Bắc, Tây, Đông,
Bảo an con Lạc cháu Hồng,
Giáng bày ân đức Đạo thông khắp tràn.
Đức Đại Thánh oai vang bốn biển,
Lãnh quyền hành vận chuyển cơ Trời,
Trừ tà diệt mị khắp nơi,
Độ cho sanh chúng rõ lời Phật Tiên.
Quan Thế Âm gieo truyền tịnh thủy,
Một nhành dương giải mị tiêu tan,
Độ cho nhơn vật khỏi nàn,
Cơn nguy thiện niệm rõ ràng anh linh.
Đức Cửu Thiên oai danh Huyền Nữ,
Độ phàm gian vạn sự đặng an,
Lòng lành trần tục vái van,
Lượng cao đức cả sắc ban cơ huyền.
Lời chí nguyện tâm thiền niệm tụng,
Đức Hải Triều ân rộng truyền ban,
Thánh Nhân giáng tại trần gian,
Cứu nguy phàm tục khỏi nàn chúng dân.
Đức Định Phước Táo Quân phò trợ,
Bảo hộ cho trăm họ thái bình,
Từ hiền đạo đức tu hành,
Chí tâm khẩn nguyện đạt thành chơn công.
Danh Thánh Mẫu thần thông quảng đại,
Sắc ban cho nữ phái cứu đời,
Lê Sơn tiếng khắp năm nơi,
Cứu nguy sẵn có sắc Trời truyền ban.
Chốn Bồng Lai rở ràng ngôi thứ,
Sắc Diêu Trì ân tứ hạ trần,
Năm trăm Tiên-Nữ ân cần,
Bảo tồn sanh tử linh căn kiếp nầy.
Nguyền một dạ học bài Chánh Đạo,
Cầu Tổ Tiên chỉ bảo giống dòng,
Hồng Bàng tổ quốc chánh tông,
Việt-Nam u hiển con Rồng, cháu Tiên.
Cầu Bồ Tát thọ truyền Văn Thiện,
Hộ Thất Sơn vận chuyển anh linh,
Cứu dân khỏi chốn linh đinh,
Khỏi cơn tai biến, khỏi hình khổ tân.
Thất Thánh Vương mười phần hiển hích,
Độ nhơn dân dấu tích truyền ban,
Oai linh Nam Việt đồn vang,
Bảo an trăm họ đặng toàn tánh linh.
Đức Thánh Lịnh Thiên Đình thọ mạng,
Ngô Đại Tiên chưởng quản mối giềng,
Cứu đời thoát khỏi oan khiên,
Nhơn sanh nhuần gội cơ huyền lý sâu.
Oai Huệ Mạng năm châu tuần khắp,
Tam Giáo Tòa chưởng chấp giữ gìn,
Kim Tiên bản tại Tây đình,
Độ đời chiếu luật công bình giảng phân.
Châu Tước Thần Ngọc ân trừ mị,
Trấn đông phương yêu quỉ kinh hoàng,
Hộ dân cho đặng bình an,
Giữ gìn trách nhiệm bảo toàn trần gian.
Huyền Võ Thần sắc ban hành sự,
Trấn tây phương trừ khử tà tinh,
Hộ sao cho đặng an bình,
Cứu người khỏi chốn hoảng kinh giựt mình.
Thanh Long Thần Thiên Đình thọ mạng,
Trấn nam phương đánh tản tà ma,
Bảo tồn phận sự lịnh ra,
Cứu người mắc nạn khỏi sa nẻo tà.
Bạch Hổ Thần Thiên tòa lãnh lịnh,
Trấn bắc phương quỉ kỉnh yêu nhường,
Sanh linh khỏi cảnh vấn vương,
Mạng Trời độ thế thoát đường tai nguy.
Lâm Sơn Thần hiển vi độ thế,
Nghe sắc Trời mau lẹ cứu nàn,
Biết cơn mạt kiếp thế gian,
Độ an những kẻ đăng san vững vàng.
Biên Hải Thần cao ban chiếu mạng,
Thấy cảnh nguy phải rán hộ trì,
Thủy sơn tràn dậy cấp kỳ,
Thì mau lãnh sắc phò nguy dân lành.
Bổn Cảnh Thần cao xanh sắc tứ,
Phải gìn theo phận sự hộ an,
Khử trừ quỉ mị rối loàn,
Kinh ban cứu nạn, cứu nàn chúng sanh.
* Nam-Mô HUYỀN-KHUNG-CAO THƯỢNG-ĐẾ NGỌC-HOÀNG ĐẠI-THIÊN-TÔN.
* Nam-Mô CHƯ PHẬT BỒ-TÁT chuyển thế THIÊN-TÔN.
* Nam-Mô CHƯ TIÊN linh cảm phổ hóa THIÊN-TÔN.
* Nam-Mô CHƯ THÁNH tỉnh thế độ nguy THIÊN-TÔN.
* Nam-Mô CHƯ THẦN thọ sắc hộ mạng THIÊN-TÔN.
- KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Vì sợ sái hoặc là không biết,
Nên mau lo bổ khuyết đủ kinh;
Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,
Giờ nầy đệ tử tất tình ăn năn.
Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,
Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;
Hoặc là sơ sót nơi lòng,
Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.
Tưởng chuyện khác cũng tromg tánh ý,
Hoặc nghỉ suy rối trí gần xa;
Sẳn đây hương quả hoa trà,
Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.
Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,
Những câu kinh tụng thiếu sót sơ ;
Độ giùm tiêu tội kịp giờ,
Ba lần sám hối mong nhờ ơn dư./.
(đọc 3 lần)
KINH THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG
DIỄN NGHĨA ⁽ [24] ⁾
Kiền tâm kỉnh lễ
1. Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Huyền Khung Cao Thượng Đế.
2. Tầm Thinh Phó Cảm Thái Ất, Cứu Khổ Thiên Tôn.
3. Cửu Thiên Ứng Nguơn Lôi Thinh, Phổ Hóa Thiên Tôn.
4. Huyền Thiên Thượng Đế, Kim Khuyết Hóa Thân, Đảng Ma Thiên Tôn.
5. Cửu Thiên Khai Hóa, Thất Khúc Văn Xương Tử Đồng Đế Quân Thiên Tôn.
6. Tam Giới Phục Ma Đại Đế, Thần Oai Viễn Trấn Thiên Tôn, Quan Thánh Đế Quân.
7. Ngọc Hư Sư Tướng, Kim Khuyết Tuyển Tiên, Phù Hựu Đế Quân, Diệu Đạo Thiên Tôn.
8. Tam Nguơn Tam Phẩm, Tam Quang Đại Đế, Tam Cung Cửu Phủ, Cảm Ứng Thiên Tôn.
Nam mô Thái Thượng Đạo Tổ
Nam mô Cao Đài Tiên Ông
(Mỗi câu lạy một lạy)
☸
Tiên ông Thái Cực tặng rằng:
Nhờ nơi kinh sám đạo hằng dạy dân.
Thiên Tôn Thái Thượng hồng ân,
Truyền kinh cảm ứng độ trần một thiên.
Muốn cho rảnh nợ tiền khiên,
Mỗi ngày một biến, tụng liền tội tiêu.
Ăn năn Trời cũng dung nhiêu,
Thọ trì một tháng, phước nhiều bền yên.
Muốn cho thất tổ thăng thiên,
Trọn năm giữ vẹn, phước liền lần lên.
Mong chờ lộc cả bề trên,
Lâu ngày chẳng trễ vào nền tiên căn.
Tiên ông Thái Thượng dặn rằng:
Rủi may không cửa, níu phăng tại mình.
Đạo Trời thưởng phạt chí minh,
Dữ lành như bóng theo mình chẳng sai.
Thứ nhất minh nghĩa tỏ bày,
Ai người tỉnh ngộ lánh rày họa tai.
Thưởng răn Trời chẳng phụ ai,
Sai thần tiên chép hôm mai chẳng lầm.
Cân theo tội lỗi khinh thâm,
Giảm thâu phúc lộc cũng năm ba phần.
Khó nghèo chờ đợi trước sân,
Gặp nhiều ưu hoạn tìm lần đến thân.
Hễ là chẳng giữ nghĩa nhân,
Khiến người đều ghét, họa gần chẳng sai.
Nếu theo việc dữ gây hoài,
Điều lành xa lánh họa tai khó rời.
Khuyên đời chẳng gọi rằng chơi,
Lộc Trời đã hết lưng vơi khó nài.
Dữ lành báo ứng chẳng sai,
Có thần Bắc Đẩu Tam Thai trên đầu.
Hễ ai tính việc cơ cầu,
Biên cho đúng tội, giảm thâu số người.
Luật Trời chớ khá dễ ngươi,
Trong mình sẵn có ba người thần linh.
Ngay gian chép đủ sự tình,
Đến ngày Canh nhật thiên đình cáo tâu.
Lại còn thần Táo trên đầu,
Ba mươi mỗi tháng đều âu y lời.
Hễ là tính việc lưng vơi,
Nhẹ thời giảm toán, nặng mười hai năm.
Thần Tiên giữ sổ chẳng lầm,
Tùy làm nạêng nhẹ mỗi năm ghi vào.
Ở đời chớ tính thấp cao,
Muốn cho trường thọ chớ vào thị phi.
Thứ hai tra xét biên y,
Làm người phải biết thạnh suy theo thì.
Gìn lòng nhớ chữ tu trì,
Hai đường phải quấy lựa đi cho nhằm.
Lưới Trời tuy rộng thâm thâm,
Chớ khi nhà tối mà lầm điều ngoa.
Xét cho rõ lẽ chánh tà,
Tu bồi công đức thương qua thú cầm.
Bỏ điều độc ác hiểm tâm,
Sửa mình ngay hảo chính tâm dạy người.
Giữ bền đạo đức tốt tươi,
Thương đàn goá bụa giúp người mồ côi.
Khá lo lễ nghĩa trau dồi,
Kính người tuổi tác, thường hồi bé thơ.
Điều lành khá nỡ lấp ngơ,
Côn trùng thảo mộc đừng quơ hại nhầm.
Hễ là đứng bậc hảo tâm,
Thươngngười hung ác, mừng thầm người nhơn.
Biết câu thiên địa tuần huờn,
Giúp người nguy cấp ra ơn cứu nàn.
Gổ ganh dạ chớ cưu mang,
Thấy ngưòi đặng việc hân hoan như mình.
Cùng là học tánh háo sinh,
Thấy người thất việc như mình đồng lo.
Dặn lòng chớ khá so đo,
Đừng chê người xấu, đừng cho hơn người.
Rèn lòng đạo lý tốt tươi,
Xấu che tốt tặng việc người mới ngoan.
Ở đời cho có chánh đoan,
Chia tiền chia vật phải toan nhượng người.
Chớ lo kẻ quấy chê cười,
Nhịn người mà chẳng giận người mới hay.
Hễ là đứng bậc nhân tài,
Đặng quan yêu chuộng sợ hoài xét thân.
Giữ bền đạo đức nghĩa nhân,
Ra ơn giúp chúng mựa cần trả ân.
Muôn điều âm chất là hơn,
Cho người nhiều ít đừng cơn tiếc thầm.
Thứ ba điều luật thiện tâm,
Chứa nhiều âm chất, phước lâm khỏi tầm
Nên hư do tại chữ tâm,
Làm người đạo đức tri âm kính nhường.
Ở đời cho vẹn nghĩa phương,
Đạo Trời ủng hộ, lộc thường đến thân.
Giữ tròn đạo đức nghĩa nhân,
Tà ma xa lánh, phước Thần giúp nên.
Lòng thành thấu đến ơn trên,
Những điều làm phải ắt nên chẳng lầm.
Tu hành luyện đặng chữ tâm,
Có ngày trông cậy đặng tầm thần tiên.
Muốn cầu đặng bậc thiên tiên,
Làm cho đủ số một thiên ba hiền.
Muốn cầu đặng bậc địa tiên,
Ba trăm điều thiện lòng chuyên lo toàn.
Thứ tư điều luật nghiêm trang,
Làm lành gặp phước Trời ban rõ ràng.
Phải thông trông máy hành tàng,
Chớ tham việc quấy mà toan động lòng.
Xét suy cho rõ đục trong,
Những điều trái lẽ đừng mong dự vào.
Phải kiêng có luật Thiên tào,
Đừng làm việc dữ hùng hào khoe khoang.
Bỏ điều kế xảo mưu gian,
Giả đò nhịn nhục lòng toan hại ngầm.
Cũng đừng có việc hiểm tâm,
Bề ngoài giả lả hại ngầm thiện lương.
Làm người chẳng biết lư hương,
Khi thầm cha mẹ quân vương tội dầy.
Chẳng lo báo ứng liền tay,
Dễ dui trên trước cùng thầy dạy khuyên.
Lòng không kính mến Tổ tiên,
Phụng thờ giả dối, huỳnh tuyềnkhổ thân.
Chẳng lo họa phước xoay vần,
Gạt người dốt nát đặng phần mình hơn.
Không cần giữ nghĩa gìn nhơn,
Chê bai bạn học khoe hơn tài mình.
Còn làm nhiều việc bất minh,
Vu oan cho kẻ thiệt tình thảm thưong.
Những người dạ ở vô lương,
Bói xoi thân tộc lẽ thường tội sâu.
Chẳng kiêng thiên ốc thiềm đầu,
Hung hăng tánh nết bất câu trẻ già.
Hiền ngu cũng chẳng dung tha,
Ỷ mình mạnh bạo hiếp hà thiện nhơn.
Hằng ngày tính thiệt so hơn,
Ngay gian chẳng xét, ỷ quờn hiếp cô.
Thói quen làm sự hồ đồ,
Đua nhau chỗ quấy việc mô chẳng nhằm.
Lại thêm độc tánh hiểm tâm,
Hiếp xô kẻ dưới đặng tầm lập công.
Ấy là xử thế chẳng thông,
Dễ dui dèm siểm phép công khi thầm.
Làm người chẳng có lương tâm,
Thọ ân chẳng nhớ, oán thầm chẳng quên.
Không kiêng Thần Thánh hai bên,
Khi dân tạo hóarối trên nước nhà.
Chẳng phân hai lẽ chánh tà,
Thưởng người phi nghĩa, tội gia người lành.
Hằng ngày tính việc cạnh tranh,
Giết người lấy của hoành hành đoạt ngôi.
Chẳng lo thiên võng khôi khôi
Giết người hàng phục, tội thôi dư ngàn.
Quen theo tánh nết lăng loàn,
Biếm người chánh trực chê người nghĩa phương.
Lại thêm lòng dạ vô lương,
Mồ côi góa bụa chẳng thương, hiếp đành.[13]
Làm quan chẳng giữ chữ thanh,
Lấp che phép nước, ăn đành của dân.
Ưa làm nhiều chuyện bất nhân,
Lấy ngay làm vạy, cầm cân không bằng.
Ỷ mình là bậc tài năng,
Đem điều gian trá gọi rằng sự ngay.
Chẳng lo báo ứng liền tay,
Tội nhẹ làm nặng hại rày lương dân.
Ở đời thiếu đức thiểu nhân,
Thấy người tội thác còn phân lỗi người.
Thương đời chẳng biết hổ ngươi,
Đã làm việc quấy vui cười chẳng nao.
Ít ai xét kỹ âm hao,
Điều lành chẳng muốn đem vào trong tâm.
Cứ theo làm viêïc lỗi lầm,
Biết mình có tội còn xâm đến người.
Lại thêm có tánh móc bươi,
Gổ ganh che lấp những người tài năng.
Chẳng tuân kinh sám khuyên răn,
Chê bai thần thánh gọi rằng tài hay.
Tưởng rằng giỏi chạy cao bay,
Xâm lăng đạo đức lại bày kiêu căng.
Chẳng tin tội dữ gia tăng,
Đuổi loài thú chạy, bắn săn thượng cầm.
Còn làm nhiều chuyện ác tâm,
Phá loài bu đậu, lấp hầm lỗ hang.
Chẳng lo vướng việc trái oan,
Hai thai phá trứng lại càng tội sâu.
Hư nên báo ứng nào lâu,
Trù người mất việc, lỗi âu về mình.
Lòng hung dạ hiểm trớ trinh,
Bày mưu hủy phá công trình người ta.
Lại thêm tánh nết chẳng hòa,
Hại người hư việc đặng mà an thân.
Lòng tham, tội phước chẳng cần,
Bớt người của cải, nhập phần mình hơn.
Lòng không đặng chút từ nhơn,
Lấy điều hung ác gọi hơn sự lành.
Chẳng kiêng trên có cao xanh,
Lo điều ích kỷ, bỏ đành việc công.
Trả vay mau nhặt chí công,
Trộm nghề, cắp kiểu, tội không nhỏ gì.
Chẳng lo họa phước liền ghi,
Việc lành của chúng phân bì lấp che.
Rủi may dạ chẳng kiêng dè,
Những điều xấu bạn, đem khoe ngạo cười.
Gổ ganh lòng chẳng hổ ngươi,
Trông mong xoi bói của người việc riêng.
Không kiêng trên có Hoàng Thiên,
Làm hư nghiệp sản bạc tiền của dân.
Ở đời chẳng giữ nghĩa nhân,
Xúi cho cốt nhục rẽ phân nhà người.
Hằng lo cuộc thế móc bươi,
Thầm mưu xâm lấn của người mến yêu.
Chẳng lo thiên võng nan điều,
Mong lòng giúp chúng làm nhiều sự gian.
Ỷ mình tàn bạo nghinh ngang,
Làm oai hiếp chúng phá làng dọa dân.
Không kiêng tạo hóa cầm cân,
Dương oai, nhục chúng để phần mình hơn.
Hung hăng chẳng sợ Trời hờn,
Phá đồ công nghệ, hôn nhân của người.
Tánh ngay chẳng biết hổ ngươi,
Gặp may đặng của thị đời kiêu căng.
Người ngu chẳng biết ăn năn,
Tội tình qua khỏi chẳng răn sửa mình.
Vụng về nào biết phân minh,
Kể ơn với chúng, trừ mình lỗi xưa.
Lòng hung dạ dữ chẳng chừa,
Bán tai, gieo họa, mua bừa tiếng khen.
Hằng gây việc quấy đua chen,
Chứa lòng độc ác nhiều phen gạt lường.
Làm người chẳng dạ tư lương,
Phá cho nhuế lụt sở trường người ta.
Lại thêm tánh quỉ nết tà,
Ém điều hư dở mình mà gạt dân.
Làm người thiếu đức thiếu nhân,
Thừa oai bức hiếp ép dân thiệt thà.
Tưởng rằng Trời Phật ở xa,
Túng dung kẻ dữ đặng mà sát nhơn.
Chẳng lo quỉ giận thần hờn,
Khi không bứng gốc chặt chơn nhánh chồi.
Hung hăng tánh dữ chẳng thôi,
Sát sanh chẳng phải nhằm hồi lễ chi.
Hà Tăng chuyện cũ còn ghi,
Phá hao ngũ cốc chẳng vì tội căn.
Lòng tham tính việc lăng xăng,
Âm mưu quấy rối đạo hằng chúng sanh.
Tham lam dạ lại gổ ganh,
Phá nhà lấy vật báu lành của dân.
Chẳng kiêng trên có thánh thần,
Đốt nhà phá cảng chẳng cần sợ ai.
Không lo họa phước tương lai,
Làm cho dân sự lạc loài gia cư.
Hằng quen ghẹo kẻ nhân từ,
Khuấy đồ kiểu vỡ cho hư công người.
Lòng phàm tánh tục móc bươi,
Phá hao vật dụng của người uổng oan.
Thấy ai đang lúc vinh vang,
Cầu cho mắc việc vào đàng tân toan.
Thấy ai đang lúc giầu sang,
Cầu cho thất bát nghèo nàn tiêu hao.
Lại thêm ghẹo nguyệt trêu đào,
Thấy người sắc tốt đem vào lòng thương.
Lại thêm có tánh gạt lường,
Thiếu người tiền bạc lo phương rủa người.
Bởi lòng chẳng đặng tốt tươi,
Nguyện cầu không ứng, hổ ngươi oán hờn.
Chẳng suy xét việc tiền duơn,
Thấy người đói khổ, thừa cơn siểm dèm.
Gặp ai tướng xấu khó xem,
Chẳng lo quả báo, siểm dèm cười chê.
Thấy người tài trí chỉnh tề,
Đã không kính phục, lại chê cũng kỳ.
Thứ năm luật phạt chép ghi,
Những là tội ác biên ghi mỗi người.
Chẳng lo vay một trả mười,
Chôn bùa luyện phép ếm người mạng căn.
Không tin tội phước giáng thăng,
Dùng đồ thuốc độc giết căn cội nhành.
Tánh ưa lỗ mãng đua tranh,
Trêu gan thầy thợ, lại giành mình khôn.
Nghịch thiên thì tội dập dồn,
Xâm lăng anh chị, không tôn nghiêm đường.
Chẳng lo thiên lý chiếu chương,
Tham lam của chúng, gạt lường xin ngang.
Quen theo tánh nết bạo tàn,
Ưa điều xâm phạm giật ngang tranh giành.
Chẳng lo nhớp kiếp nhơ danh,
Làm nghề cướp giật vui đành giàu sang.
Tưởng mình là bậc khôn ngoan,
Lập mưu xảo trá cầu ban đổi dời.
Lòng còn tính việc lưng vơi,
Thưởng răn kẻ dưới chẳng lời nào công.
Ở đời đạo lý chẳng thông,
Vui chơi phí lãng, dạ không tiếc tiền.
Lại lòng chẳng sợ oan khiên,
Hiếp xô kẻ dưới, không kiêng lưới trời.
Tập tành tánh nết lộng khơi,
Dọa hăm dân chúng cậy lời mình hung.
Ngỗ ngang thần thánh khó dung,
Oán hờn trời phật, giận khùng thế gian.
Cứ quen tánh nết bạo tàn,
Chưởi mưa mắng gió tội càng thêm sâu.
Xúi mưu là tội đứng đầu,
Đua nhau kiện cáo đặng cầu mình hơn.
Làm người chẳng giữ nghĩa nhơn,
Dua theo phe đảng thiệt hơn khuấy đời.
Tánh tình dời đổi nay mơi,
Nghe theo thê thiếp, bỏ lời mẹ cha.
Chẳng suy xét việc gần xa,
Dùng điều mới, tính bỏ qua việc rồi.
Chẳng lo thiên võng khôi khôi,
Lòng ưa việc quấy, miệng lời ngọt ngon.
Chẳng lo phước đức hao mòn,
Tham lam vô yếm, càng bòn của dân.
Làm người chẳng biết tứ ân,
Dễ duôi phép nước gạt lần bề trên.
Không tin báo ứng hư nên,
Dùng lời độc ác, dựa bên miệng hoai.
Chẳng lo tránh việc họa tai,
Siểm dèm, kích bác, chê bai kẻ thường.
Chẳng thông hữu xạ nhiên hương,
Chỉ người chỗ vạy, khoe đường mình hay.
Không lo báo ứng liền tay,
Xưng mình chánh trực, mắng rày thần linh.
Vạy ngay chẳng xét phân minh,
Bỏ thuận theo nghịch không gìn lễ nghi.
Dữ lành trời phạt thưởng y,
Người ngoài khắng khít, chẳng vì người trong.
Liều thân thề thốt như giông,
Chỉ trời đất nguyện chứng lòng xấu xa.
Nghinh ngang ưa thói xiên tà,
Cầu thần xem xét những là điều nhơ.
Mua khen thiệt dạ chẳng ngờ,
Thí cho kẻ đói còn mơ ước hoài.
Tánh tham, dạ xấu không phai,
Dối lòng mượn của, để hoài giả quên.
Chẳng suy xét việc hư nên,
Cầu điều vô ích xin trên chứng nguyền.
Thạnh suy bĩ thới chẳng kiêng,
Ăn xài quá mức coi tiền như rơm.
Làm người chẳng giữ danh thơm,
Dục dâm quá độ, bệnh hờmmột bên.
Nhiều người chẳng sợ oai trên,
Bề ngoài giả dối, gươm tên chứa lòng.
Chẳng suy xét việc đục trong,
Lấy đồ dơ uế ép lòng người ăn.
Xưng mình tả đạo tài năng,
Phép phù gạt chúng, xưng mình hiển linh.
Bán buôn tính việc trọng khinh,
Thước non đo thiếu phạm tình tham gian.
Chác lòng những việc hổ hang,
Giạ non gạt hụt làm đàng sai ngoa.
Lại thêm ưa việc vạy tà,
Dùng hư trộn thật đặng mà lợi riêng.
Chẳng lo quả báo nhãn tiền,
Lượm đồ gian giảo tội truyền cháu con.
Không tin tội chứa phước mòn,
Ém điều lành tốt đổi lòn điều hư.
Trớ trinh dạ chẳng nhơn từ,
Gạt người khờ dại tội dư muôn ngàn.
Hằng lo kết việc trái oan,
Tham lam phải chịu tai nàn ngày sau.
Rủi may thiên võng nan đào,
Dối trù nguyện thấu thiên tào cầu ngay.
Lòng phàm tánh tục dại ngây,
Say sưa quá độ, sanh rầy đệ huynh.
Đạo nhà xử chẳng phân minh,
Trai không hiếu thảo, gái sinh ngang tàng.
Chẳng gìn tứ đức tam cang,
Không hoà gia thất, ngỗ ngang với chồng.
Làm người tánh nết chẳng thông,
Khoe khoang tài giỏi lòng không kiêng dè.
Công dung ngôn hạnh vắng hoe,
Cố điều ghen ghét, chẳng nghe lời chồng.
Làm trai xử phận chẳng thông,
Ở ăn không hạnh, nặng lòng thê nhi.
Chẳng tròn phận gái vu qui,
Lỗi cùng cha mẹ, tôn ti bên chồng.
Chẳng kiêng trên có thiên công,
Vong linh trên trước lòng không kiêng vì.
Làm con chẳng giữ lễ nghi,
Nghịch lời cha mẹ, không vìbỏ qua.
Chẳng suy xét việc gần xa,
Làm điều trái lẽ lại hoà ý riêng.
Lẽ trời báo ứng chẳng kiêng,
Giả đò rủa phận, tự nhiên rủa người.
Chẳng ham học tánh tốt tươi,
Ghét thương vô độ, làm người chẳng công.
Rủi may chẳng lọt mảy lông,
Bước ngang lò giếng, không phòng tội sau.
Nào hay tội phước là đâu,
Bước ngang vật thực, trên đầu người ta.
Chẳng lo đọa xuống diêm la.
Hại thai phá trứng tội đà dư muôn.
Trả vay tội phước in khuôn,
Làm điều khuất lấp ra tuồng gian nhơn.
Oai linh thần thánh đã lờn,
Ba mươi, mồng một hát hờn rầy la.
Tánh tình ăn ở xông pha,
Day qua hướng bắc đái, và khạc dơ.
Lại thêm lòng chẳng kính thờ,
Day vô bếp núc ngâm thơ rủa trù.
Ở ăn theo thói phàm phu,
Đốt hương trong bếp, giảm lu phước nhàn.
Cùng người tánh chẳng kỹ càng,
Củi dơ nấu nướng ăng càng mùi tanh.
Chẳng phân chỗ trược, chỗ thanh,
Ban đêm lõa lộ, chẳng gìn vóc thân.
Luông tuồng chẳng biết xét phân,
Hành hình tám tiết bội phần chẳng nao.
Không lo tội phước âm hao,
Nhổ phun sao giá, biết bao lỗi lầm.
Ngỗ ngang taánh ở phạm xâm,
Lấy tay chỉ mống như hăm dọa trời.
Chẳng lo hồn phách lưng vơi,
Chỉ ba ánh sáng buông lời khinh khi.
Dễ ngươi trời phật từ bi,
Ngó lâu nhật nguyệt cũng khi lỗi lầm.
Ham vui tập thói hung tâm,
Mùa xuân săn bắn đốt lầm rừng hoang.
Ở ăn tánh nết bạo tàn,
Day qua hướng bắc mắng ngang rủa bừa.
Sát sanh hại mạng chẳng chừa,
Khi không đập rắn, giết bừa rùa qui.
Thứ sáu điều luật chép ghi,
Những là tội dữ biên y mỗi kỳ.
Trọng khinh các tội đều ghi,
Táo thần tra xét giảm kỳ số căn.
Đạo trời lành thưởng, dữ răn,
Chẳng cần đợi số, dứt căn nguyên người.
Luật trời khuyên chớ dễ ngươi,
Tội dư dồn lại cho người đời sau.
Trả vay thiên võng nan đào,
Tai ương các tội biên vào cháu con.
Cũng như cối đá hao mòn,
Cướp người của cải, vợ con tội đồng.
Trả vay chẳng lọt mảy lông,
Phạt lây gia quyến cũng trong luật điều.
Nếu không đổi tánh khoan nhiêu,
Phạt cho đến thác chưa tiêu tội trần.
Nếu mà chưa tới căn phần,
Thủy hỏa đạo tặc lần lần đến xâm.
Hung tinh bịnh hoạn đến tầm,
Mất đồ, khẩu thiệt cũng thâm nhập mình.
Lẽ trời báo ứng rất minh,
Phạt cho vừa tội ỷ mình giật ngang.
Lại còn những kẻ bạo tàn,
Sát nhân hại mạng lại càng tội sâu.
Trớ trinh là tội đứng đầu,
Mượn tay đổi giáo ngõ hầu giết nhau.
Tham lam phước đức mòn hao,
Dụng tài phi nghĩa lẽ nào bền lâu.
Xét suy nghĩ rõ cạn sâu,
Cũng như thịt độc ăn hầu đỡ lao.
Rượu ngâm chim trấm uống vào,
Đã không đỡ khát lại hao tinh thần.
Làm người chẳng biết xét phân,
Dầu cho quỉ quyệt cũng phần tử sinh.
Đạo trời báo ứng chí minh,
Nhằm điều thứ bảy phạt hình trả vay.
Nếu lòng muốn khởi thiện tai,
Lành chưa làm tới, phước lai chẳng lầm.
Còn lòng muốn khởi ác tâm,
Ác tuy chưa khởi họa xâm đến mình.
Kiết hung hai lẽ phân minh,
Là điều thứ tám sửa mình thiện lương.
Nên hư báo ứng tỏ tường,
Ai người tỉnh ngộ còn phương chuộc trừ.
Dầu mà làm lỡ ác dư,
Ăn năn chừa lỗi cũng trừ đặng cho.
Trong khi rảnh việc sánh so,
Những điều độc ác chớ cho vướng nhầm.
Việc lành chất để vào tâm,
Lâu lâu ắt gặp phước lâm môn đình.
Lành ban, dữ phạt phân minh,
Mới rằng đổi hoạ cho mình phước lai.
Thứ chín tội phước đều cai,
Ăn năn sám hối tiêu tai nạn trừ.
Cho nên những kẻ nhân từ,
Lời lành, làm phải, xem chư việc lành.
Tánh tình vẹn giữ trong xanh,
Một ngày đều đặng ba lành vào tâm.
Xét thân mỗi bữa chẳng lầm,
Ba năm trời thưởng, phước cầm bền lâu.
Còn người có dạ hiểm sâu,
Lời ngang, xem quấy, ác âu lo làm.
Bởi lòng chứa quấy bạo tham,
Một ngày ba ác đều cam vào lòng.
Cứ điều độc ác cố mong,
Ba năm trời phạt, khó hòng nài kêu.
Dữ lành tội phước đều nêu,
Sao mà chẳng bỏ những điều hiểm sâu?
Trăm năm trong cuộc biển dâu,
Lỗi lầm mau khá hồi đầu lánh tai.
Thứ mười luật định chẳng sai,
Khuyên trong già trẻ gái trai sửa mình.
- KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Vì sợ sái hoặc là không biết,
Nên mau lo bổ khuyết đủ kinh;
Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,
Giờ nầy đệ tử tất tình ăn năn.
Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,
Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;
Hoặc là sơ sót nơi lòng,
Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.
Tưởng chuyện khác cũng tromg tánh ý,
Hoặc nghỉ suy rối trí gần xa;
Sẳn đây hương quả hoa trà,
Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.
Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,
Những câu kinh tụng thiếu sót sơ ;
Độ giùm tiêu tội kịp giờ,
Ba lần sám hối mong nhờ ơn dư./.
(đọc 3 lần)
KINH CHÚC CẦU GIA TÔ GIÁO CHỦ
Lạy cầu con một Chúa Cha,
Gia Tô cứu thế xót xa tôi cùng,
Cũng vì nơi tội Tổ Tông,
Ngôi Hai phải dưng máu hồng rửa tan,
Chúng con chơn giáo mơ màng,
Cho nên ngày trước daajo vàng lãng lơ.
Xa xôi khác cõi cách bờ,
Đông Dương một cõi Thiên thơ chưa tường.
Cúi xin chỉ lối đưa đường,
Nước Cha chầu chực xót thương trao lời.
Chúa Cha chín ngự ngôi Trời,
Chúa con ngai hữu đồ đời hiển vang.
Bởi nơi chúa thác rõ ràng,
Mà sao sống lại được ban ân lành.
Chúng con muôn tội cam đành,
Vi chưng tối mắt chưa nhìn biết Cha.
Cả kêu một tiếng lạy Cha,
Chúng con biết tọi xin tha con mà.
Lạy cầu con một Chúa Cha,
Gia Tô cứu thế xót xa tôi cùng.
KINH CHÚC TỤNG ĐỨC NGÔ ĐẠI TIÊN
Lòng thành kính khấn cầu minh đức,
Ngô Đại Tiên vào bực Thiêng liêng;
Ngày nay đệ tử khẩn nguyền,
Chí tâm đảo cáo lòng thiền niệm hương.
Ơn chí cả tô đường từ thiện,
Nghĩa soi truyền dạy luyện linh đơn;
Ghi xương tạc dạ chi sờn,
Dễ đâu dám phụ cái ơn dắt dìu.
Thầy xuống thế trăm điều cay đắng,
Chịu thai phàm mà chẳng nhiễm tâm;
Miệng không gậm sửa xác phàm,
Treo gương tạc để nêu làm sử xanh.
Còn thọ đủ nhọc nhằn lao khổ,
Nhờ siêng năng báo bổ cù lao;
Cà sa chẳng đổi sắc màu,
Trọn niềm chung thủy đổi trao bạn hiền.
Thầy vĩnh trấn Hà Tiên Tầm đạo,
Đức Chí Tôn dạy bảo huyền vi;
Mở mang Đại Đạo Tam Kỳ,
Chúng sanh tu niệm kịp kỳ Long Hoa.
Người lương thiện trẻ già sùng bái,
Kẻ từ tâm kính lạy chơn linh;
Xin thương chút phận thật tình,
Dắt dìu cho đặng hồn linh khỏi phiền.
Ngày mùng bảy tháng giêng sanh nhựt,
Năm Mậu Dần hiện xuất Thánh Nhơn;
Tháng ba, giờ Ngọ, Nhâm Thân,
Mười ba Thầy đã quy thần Cửu Long.
Người lương thiện tồn vong ghi để,
Ngày hôm nay kẻ thế mến yêu;
Dụng trong tam bửu ít nhiều,
Có thương về chứng dắt dìu chúng anh.
KINH DI ĐÀ⁽ [25] ⁾
LƯ HƯƠNG TÁN
Lư hương đốt khói hòa ngút toả,
Mùi thơm bay khắp cả thành tâm;
Các vì Phật ở biển Nam,
Thấy mùi thơm ấy dương trần thành tâm.
Vì mùi hương tốc trầm thành thật,
Các chư Tiên cùng Phật khinh thanh;
Chứng lòng thế sự tâm thành,
Đằng vân xuống chốn dương trần chứng minh.
PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ
Phật ra lời dạy kinh nầy,
Tụng kinh Tam Bảo phải dày lương tâm.
Dầu cho tụng niệm mãn năm,
Bụng không cố tưởng như cầm mà chơi.
Kinh Di Đà
Thích ca mới sang qua Xá Vệ,
Cội Bồ Đề thành lễ thi ân;
Dạy cho dân biết sự lành,
Nước này lại có một thành mồ côi.
Ngàn đồ đệ ra đời thành Phật,
Lại hai trăm năm chục lòng thành;
Mấy vì La Hán có danh,
Di Đà coi hết cho rành thiệt hơn.
Xá Lợi chỉ nguồn cơn Trưởng Lão,
Hiểu cho tường Tôn giáo trung lương;
Từ đây qua tới Tây Phương,
Mười muôn ức cảnh Phật đường đến nơi.
Chốn cực lạc thảnh thơi phép lạ,
Tánh từ nhiên khỏi hoạ như đời;
Nước nầy thiên hạ rạng ngời,
Hưởng bề vui toại ăn chơi cả đời.
Di Đà Phật hiệu thời chánh giáo,
Người còn đương giảng đạo nhơn sanh;
Dân thành Xá Vệ làm lành,
Không điều cực khổ nhọc nhành tấm thân.
Xá Lợi lóng nghe phân cho thạo,
Cực lạc là cảnh báo Tây Phang;
Hàng rào bảy lớp lan can,
Cả đều bao lưới bảy hàng cội xanh.
Cây đại thọ báu lành các nhánh,
Nhìn xem thôi thắng cảnh nguy nga;
Nhắm xem vui đẹp lắm mà,
Thế gian nào có được toà thiên nhiên.
Xá Lợi rõ căn duyên Phật đạo,
Chốn Tây phang cảnh báu xiết bao;
Cảnh này có một cái ao,
Tên là Thất Bửu, báu châu thiếu gì.
Châu mả não, lưu ly, xích phát,
Vàng tốt cao lộn cát thềm ao;
Trong ao tám thứ báu mầu,
Ngày đêm tỏ rạng, có cầu quyền oai.
Trên ao có lầu đài kim cổ,
Xa cừ, san, cẩn đổ bốn bên;
Trong ao nhiều thứ bông sen,
Hình như cái bánh xe đèn rất to.
Hơi bay khắp thơm tho các xứ,
Chiếu hào quang nhiều thứ lạ thường;
Vàng, xanh, trắng, đỏ sắc hường,
Hào quang lại chiếu âm dương chập chồng.
Chiếu dọi bốn thứ bông phưởng phất,
Chốn Bồng lai Tây vức thiệt vui;
Xá Lợi Trưởng Lão ngài ôi!.
Cực lạc chốn ấy đủ thời báu châu.
Thiệt phước đức nhiệm mầu rộng rãi,
Thiệt trang nghiêm quảng đại cao sâu;
Trưởng lão phải rõ cơ cầu,
Chốn ấy nghe tiếng nhạc âu khua hoài.
Vàng dưới đất động thay văng vẳng,
Giọng thấp cao dài vắn êm tai;
Thật vui nơi cảnh Tây đài,
Ước cho trần thế gặp ngày hậu lai.
Đêm có sáu giờ ngoài bông rụng,
Mạng Đà La bay xuống như mưa;
Người người nước ấy sớm trưa,
Sáng ra đi lượm đem đưa người dùng.
Ăn bông thể như cơm chẳng khác,
Chốn Tây Phang Cực Lạc độ đời;
Đến trưa về mới tới nơi,
Thường ngày tế độ cho người dùng ăn.
Cho Xá Lợi rõ căn lịch sử,
Chim Tây Phương nhiều thứ biết kêu;
Giống như hạt trắng rất nhiều,
Chim công, anh võ tiếng kêu khác thường.
Xá Lợi rõ thấy thương cộng mạng,
Lăng Tần Đà được hản đông tây;
Giọng cao lảnh lót ghê thay,
Giọng trầm như nhặt nào khuây tất lòng.
Kêu như biết luật thông giảng đạo,
Vọng từ ngằn thiện bảo rất hay;
Khi dân nghe tiếng chim này,
Bâng khuâng tưởng Phật, nhớ Thầy đòi cơm.
Xá Lợi tưởng thiệt hơn chưa rõ,
Tưởng chim kia gốc nọ luân hồi;
Đầu thai chốn ấy đền bồi,
Vì căn kiếp trước chưa rồi trả vay.
Tưởng vầy ắt lầm sai đó hẳn,
Bởi nơi đây thật chẳng lỗi lầm;
Từ nhiên giữ trọn đức âm,
Làm lành lánh dữ, đừng ham tranh đời.
Giữ ba điều được rồi không khó,
Mà tại sao chim có líu lăng;
Di Đà người hoá chim sang,
Đặng cho cả nước biết đàng từ bi.
Xá Lợi rõ lời ni thành Phật,
Gió cây đưa phưởng phất bảy vòng;
Lớp thì bao lưới phủ giăng,
Tiếng kêu trầm nhặt đau lòng thiệt hơn.
Lưới cây tợ giọng đờn rỉ rã,
Dân đồng nghe hòa nhã nào khuây;
Bổng liền nhớ Phật nhớ Thầy,
Nhớ trong kinh kệ luận đầy trang nghiêm.
Xá Lợi rõ căn duyên tiêm tất,
A Di Đà hiệu Phật cớ sao;
Bởi người có phép tài cao,
Thần thông quảng đại soi vào mười phương.
Gồm thế giới tỏ tường hiện thấy,
Nên người xưng hiệu ấy độ đời;
Than rằng Xá Lợi Ngài ôi !
Người bên cực lạc sống đời nguy nga.
Cũng như Phật Di Đà tan hiệp,
Người tử sanh mười kiếp thiêng liêng;
Xá Lợi nge rõ phỉ nguyền,
Bởi vì đệ tử khó biên tất lời.
Hằng hà rõ độ đời một dạ,
Đồng xét ra công quả cao xa;
Những người đệ tử Di Đà,
Thành tâm tu niệm gọi là thiêng liêng.
Đồng một ý kiền thiền tưởng Phật,
Đồng nhứt tâm âm chất công miên;
Số dân nước ấy uyên thiên,
Gọi là vô lượng, vô biên hằng hà.
Xá Lợi rõ người mà tin tưởng,
Vì hồn ai cũng muốn sang đây;
Cầu xin Trời Phật đầu thai,
Xá Lợi sau rõ hồn ai sở nguyền.
Hồn muốn dựa thiêng liêng cho khoẻ,
Đặng cầu gần với kẻ tu tâm;
Tránh nơi thế tục lạc lầm,
Thiên đường Phước đức muôn năm khỏi tầm.
Xá Lợi nghĩ suy thầm biết được,
Người không duyên ít phước dễ sao?
Muốn qua cực lạc được nào,
Xá Lợi nghe rõ âm hao thì rành.
Thế nam nữ trọn lành bổn tánh,
Nghe từ bi đức hạnh xót xa;
Mến thương đức Phật Di Đà,
Giữ lòng tín ngưỡng gọi là thảo ngay.
Niệm thầm dạ để hoài biến lấy,
Một ngày cho tới bảy thành tâm;
Chẳng nên nhớ việc khác lầm,
Làm lành lánh dữ đừng ham gây thù.
Rán bòn mót công phu cho rạng,
Đến ngày sau chung mạng chẳng xa;
Đệ tử cùng Đức Di Đà,
Lại gần trước mặt khuyến mà hồn yên.
Dặn hồn chớ đảo điên bồ bặc,
thường đâu dám bắt đem đi;
Từ nhiên hồn đặng hồi qui,
Về nơi đất Phật một khi thanh nhàn.
Đó là chốn Tây phang phước đức,
Đó là tâm tưởng Phật thiêng liêng;
Xá Lợi nghe rõ xứ Tiên,
Bởi vì, sự quý nên khuyên cho đời.
Nam nữ có nghe lời cầu phước,
Thì ngày sau về được Tây phang;
Đặng làm dân Phật ở an,
Phải nghe lời dạy bảo toàn vẹn thân.
Xá Lợi rõ lời phân chơn thật,
Nảy giờ đây tích Phật kể ra;
Ta khen Đức Phật Di Đà,
Phật là tài cả cao xa tỏ tường.
Nay ta kể sáu phương cao thấp,
Cho hiểu rành lục thập vân vi;
Hướng Đông Phật A Súc Tì,
Tu Di Tướng Phật tên thì của ông.
Đại Tu Di nhìn vong thương xót,
Tu Di Quang đức Phật độ dân;
Diệu Âm là Phật ân cần,
Hằng hà Phật nhỏ muôn phần dày công.
Đều có phép thần thông quảng đại,
Khắp ba ngàn thế giới tuần coi;
Thốt lời chơn chánh hẳn hoi,
Các người rán niệm Phật Trời cứu cho.
Lời dạy biểu đắn đo khó nhớ,
Ngài xót thương ủng hộ vẹn toàn;
Khuyên người trong cõi thế gian,
Rán mà tu niệm biết đàn pháp tăng.
Phương Nam Nhựt Nguyệt Đăng âm chất,
Đức Danh Văn Quang Phật từ bi;
Đại Diệm Kiên Phật rộng suy,
Tu Di Đăng Phật Ngài thì ra ân.
Vô lượng Phật chuyên cần tế độ,
Phật hằng hà sa số thiếu chi;
Hết lòng niệm chữ A Di,
Thần thông quảng đại thua gì phương Đông.
Phương Tây Lương Thọ Ông tánh chất,
Vô Lương Đài Tướng Phật siêu thăng;
Lại có Vô Lượng Phật Tràng,
Đại Quang Minh đức cận hàng Tịnh Quang.
Bửu Tướng đức Phật toan độ dẫn,
Thế lâm nàn cầu khẩn được qua;
Các hàng chư Phật hằng hà,
Ba ngàn thế giới gọi là tư lương.
Phương Bắccó Diệm Vương đại đức,
Tối Thắng Âm thành Phật độ đời;
Nan Thơ cùng Phật độ người,
Võng Minh vì Phật gần thì Nhựt Sanh.
Hằng hà Phật đức lành hà hải,
Xem ba ngàn thế giái quản cai;
Dặn lòng trần thế chớ sai,
Rán mà tu niệm có ngày siêu thăng.
Phương Dưới có Danh Văn Sư Tử,
Phật Danh Quang công cứ độ nàn;
Đạt Ma với Phật Pháp Tràng,
Cùng là Trì Pháp Tây phang thanh nhàn.
Hằng hà Phật khó toan kể lại,
Coi ba ngàn thế giái được an;
Như ai tin tưởng vái van,
Từ bi theo Phật được toàn linh tâm.
Phương Trên có Phạm Âm thành Phật,
Túc Vương cùng đức Phật Thượng Hương;
Thương đời nên mới lo lường,
Đại Diệm Kiên Phật chung đường Hương Quang.
Tạp Sắc Bửu Hoa toan cầu phước,
Nghiêm Thân, Ta La Phật Thọ Vương;
Bửu Hoa Đức Phật tỏ tường,
Kiến Nhứt Thiết Nghĩa chung đường từ bi.
Như Tu Di rộng suy quảng đại,
Coi ba ngàn thế giái công minh;
Chúng sanh có dạ tu hành,
Trọn đời thong thả, hồn linh nhẹ nhàng.
Xá Lợi luận người toan tưởng Phật,
Sau Phật dùng âm chất độ cho;
Trẻ già trai gái biết lo,
Niệm kinh lòng tưởng rủi ro có Ngài;
Dặn lòng chớ đơn sai tín ngưỡng,
Dạ từ bi tín ngưỡng hồn linh;
Mảng đời có chí làm lành,
Sau về chánh quả nhập thành Nhuỵ châu.
Ai phát nguyện lòng tu tập luyện,
Hoặc là gần phát nguyện sở nguyền;
Về nơi cực lạc ở yên,
Xin đừng xao lảng sở nguyền đừng quyên.
Thành chánh quả vững bền được đắc,
Nắm Phật tâm gắn chặt thiêng liêng;
Đầu thai qua đó khỏi phiền,
Bởi lời nguyện trước dạ thiền ước mơ.
Kẻ sanh sau đợi chờ nào trễ,
Rồi đến sau đâu để mất phần;
Nếu mà nam nữ hiền nhân,
Có lòng sở nguyện được phần siêu thăng.
Nếu giờ kể Thiên đàng phước đức,
Ta đáng khen chư Phật cao sâu;
Thiệt là tài cả nhiệm mầu,
Từ Bi quảng đại ai hầu dám đương.
Phận ta nghĩ mà thương cho phận,
Đắc quả thành lận đận hiểm nguy;
Quý danh Thích Ca Mâu Ni,
Nhọc nhành rất khó xiết chi buộc ràng.
Ta thường dạo Thiên đàng trông thấy,
Nhìn trần gian thế giái luân hồi;
Năm điều uế trược ôi thôi,
Tai nghe mắt thấy, gẫm thời trược ô.
Đông người trược biết mô tránh được,
Mạng ở gần cũng trược biết bao;
Thảm phiền cũng trược dễ nào,
Thể nào trược cả thấp cao năm điều.
Rán sửa tánh dắt dìu tu niệm,
Rán thành tâm đặng kiếm công phu;
Soi lòng vẹt ngút mây mù,
Khác nào bóng nguyệt đêm thu rõ ràng.
Trong cõi trược khó toan tu luyện,
Mà lòng chuyên thiện nguyện mới thành;
Về lòng của thế chúng sanh,
Giảng điều công quả dạ đành không tin.
Thế ít chịu nghe kinh cải hoá,
Ta được thành đắc quả thạm nan;
Giảng lành cho chúng tỏ tàng,
Thật là rất khó không màng không tin.
Khuyên bá tánh giữ gìn bổn tánh,
Đặng ngày sau đức hạnh công minh;
Phật ngồi giải nghĩa chơn tình,
Với ông Xá Lợi bổn kinh vẹn toàn.
Các chư Phật luận bàn tập luyện,
Vui lòng theo tình nguyện tu hành;
Cúi đầu làm lễ Tiên sanh,
Di Đà giải nghĩa phân rành trước sau./.
CHÚ VÃNG SANH
Nam Mô A Di Đà bà dạ, Đa tha già đa dạ, đa điệc dạ tha. A Di rị đô bà tì, A Di rị đa, tất đam bà tì. A Di rị đa tì ca lang đế, A Di rị đa tì ca lang đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
(đọc 3 lần)
KHEN PHẬT A DI ĐÀ
Tây phương Giáo chủ Phật Di Đà,
Tịnh độ, Năng nhân tạo hóa ra.
Bốn tám nguyện xưa hằng độ chúng,
Lời thề rộng lớn thật sâu xa.
Thượng phẩm Thượng sanh đều tế khắp,
Đồng lên chín phẩm Bửu liên tòa.
KÍNH LỄ MƯỜI HAI HIỆU NHƯ LAI
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Vô Lượng Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Vô Biên Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Vô Ngại Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Vô Đối Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Diệm Vương Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Thanh Tịnh Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Hoan Hĩ Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Trí Tuệ Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Nan Tư Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Bất Đoạn Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Vô Xưng Quang Như Lai.
Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giái. Di Đà Hải hội, Siêu Nhựt Nguyệt Quang Như Lai./.
BỔ KHUYẾT
Bổ khuyết tâm kinh đời cải hóa,
Tiếng Ba La Bát Nhã Mật Đa;
Khuyên người hiểu chỗ chánh tà,
Nơi mình mơ ước Phật ma ở lòng.
Vị Bồ Tát ước mong thì đặng,
Chớ trù trì dùn thẳng hư tâm;
Có khi sa hố, sụp hầm,
Có khi còn phải lạc lầm Bàng Môn.
Thời chiếu kiến giai không ngũ uẩn,
Phải tập rèn cho xứng Thánh minh;
Lỗ tai con mắt công bình,
Cái miệng, lỗ mũi, thân hình là năm.
Tai đừng lóng giọng phàm phân giải,
Mắt đừng xem sự quấy sắc tà;
Miệng đừng vọng ngữ kêu ca,
Tránh điều thất đức giục hòa tục ngôn.
Mũi chớ hửi mùi thơm hương sạ,
Đừng dục ưa thịt cá là ngon;
Cái thân tránh khỏi quyền môn,
Năm điều giữ đặng bảo tồn Phật thân.
Lánh ách nạn chớ gần hung dữ,
Hiểu chăng Xá Lợi Tử là chi?
Đó là lòng Phật Mâu ni,
Trọng tâm cho lớn việc chi chẳng màng.
Đời dầu có muôn ngàn đâu ắt,
Mãnh hồng trần chưa chắc còn không.
Huống chi của cải mênh mông,
Để cho trong sạch, tâm không Đại đồng.
Thấy việc có tưởng không, không đó,
Thấy việc không tưởng có, có đâu;
Đắm say trần lụy sang giàu,
Thân mình còn mất chừng nào đâu hay.
Xá Lợi Tử tâm này quả quyết;
Không sanh ra, không chết, không ngờ;
Không hư, không sạch, không dơ,
Không thêm, không bớt, như tờ tự nhiên.
Nên hồn ở Trung thiên không sắc
Không quấy tham con mắt lỗ tai;
Miệng cùng cái mũi chân mày,
Cái mình, cái ý hình hài lục căn.
Đừng động tới, đừng phăng quyến tưởng,
Còn lục trần chớ vướng vụ thần;
Thinh hương vị xúc sắc thân,
Tốt lành để lóng giọng đờn êm tai.
Mùi ngon ngọt giọng dài tư tưởng,
Giục thần hồn ảnh hưởng mê tân;
Mắt không nên ngó sắc trần,
Tai không nghe lóng lời phân tiếng cười.
không hửi nơi mùi thơm ngọt,
Miệng không thèm chuốc ngót ước ao;
Ý không giai động sắc màu,
Ý mình chớ tưởng thấp cao pháp tà.
Mắt không ngó lòng ta không động,
Lửa vào lòng ắt nóng tối đen;
Mệt thần sanh dữ thấp hèn,
Tưới cho tắt đặng nhúm nhen tinh thần.
Không hờn giận tấm thân mát mẻ,
Thanh tịnh hoài được khỏe tâm cang;
Không sanh bịnh hoạn khốn nàn,
Không già, không chết đạo tràng bửu minh.
Chớ tính kế mà sinh sợ hãi,
Đừng âm mưu nghi ngại nơi tâm;
Luyện thần tránh chỗ lo thầm,
Lòng đừng tráo trở lạc lầm khó toan.
Suy nghĩ hội Niết Bàn mồng tám,
Trong tháng mười xúc cảm Mâu Ni;
Thích Ca giảng đạo vô vi,
Truyền bá chữ mặc một khi đắc thành.
Đạo Tiên dạy làm thinh lặng lẽ,
Dưỡng khí Thần mát mẻ nơi tâm;
Tâm kinh dạy bảo kiếm tầm,
Dạy đời cho hiểu chữ Tâm mà lần.
Tam thế Phật tưởng trần khó nghĩ,
Phật Di Đà, Thế Chí, Quan Âm;
Ba đời chư Phật không lầm,
Chơn kinh giữ đặng tu nhằm Phật xưa.
Dạy những kẻ Thượng thừa, Trung, Hạ,
Noi theo lo công quả mà tu;
Thiên đàng bền vững ngàn thu,
Chí tâm sửa tánh công phu lọc lừa.
Tầm đặng đến Thượng thừa quả vị,
Tam diệu Tam địa chỉ Bồ Đề;
Này là thần chú giác mê,
Trừ phiền khổ não chẳng hề đơn sai.
Ở được vậy thường hoài là Phật,
Bát Nhã Ba La Mật Thị Đa;
Lời khuyên trai, gái, trẻ, già,
Tâm kinh bổ khuyết diễn ca cạn lời./.
-KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Vì sợ sái hoặc là không biết,
Nên mau bổ khuyết đủ kinh;
Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,
Giờ này đệ tử tất tình ăn năn.
Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,
Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;
Hoặc là sơ sót nơi lòng,
Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.
Tưởng chuyện khác cũng trong tánh ý,
Hoặc nghĩ suy rối trí gần xa;
Sẵn đây hương, quả, hoa, trà,
Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.
Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,
Những câu kinh tụng thiếu sót sơ;
Độ giùm tiêu tội kịp giờ,
Ba lần sám hối mong nhờ ân dư.
(đọc 3 lần)
KINH VU LAN⁽ [26] ⁾
LƯ HƯƠNG TÂN
Lư hương đốt khói hòa ngút tỏa,
Mùi thơm bay khắp cả thành tâm;
Các vị Phật ở biển Nam,
Thấy mùi thơm ấy dương trần thành tâm.
Vị mùi hương tốc trầm thành thật
Các chư Tiên vùng Phật khinh thanh;
Chứng lòng thế sự tâm thành,
Đằng vân xuống chốn dương trần chứng minh.
KHAI KINH
Vô thượng thậm thâm huyền diệu pháp,
Trăm ngàn muôn kiếp khác gặp kinh;
Ta nay thấy rõ tất tình,
Giải quyền thiệt rõ chơn tình như lai.
Phật ra lời dạy kinh này,
Tụng kinh Tam bảo phải dày lương tâm.
Dầu cho tụng niệm mãn năm,
Bụng không cố tưởng như cầm mà chơi.
Kinh vu Lan Bồn
Nghe cho rõ một giờ cõi Phật,
Xá vệ thành chỉ thật căn nguyên;
Phật ngồi giải nghĩa chơn truyền,
Nơi vườn cô độc thọ viện phỉ nguyền.
Thuở ấy có mục Liên thành Phật,
Mắt Thánh xem rõ bậc chánh tà;
Dục lòng tu độ mẹ cha,
Thảm thương từ mẫu Diêm La tội tình.
Làm ngạ quỉ cơ hàn đói khát,
Mình da xương tóc bạc nhiễu nhương;
Khóc than mẹ chịu đoạn trường,
Phận làm con thảo tầm phương lo lường.
Mục liên thấy thảm thương đổ lệ,
Hóa bát cơm liệng kế từ thân;
Mẹ người thấy bát cơm gần,
Liền kề lượm lấy để ăn no lòng.
Tay trái sè che vong chẳng thấy,
Tay mặt cầm cơm lấy bóc ăn;
Đưa vào lửa đổ lăng quằng,
Lửa phừng trong miệng nào ăn được gì.
Mục liên nỗi lâm ly khóc lớn,
Xót tâm bào về tấu phật đàng;
Thưa rằng xưa mẹ thế gian,
Nhiều điều thất đức mới mang tội tình.
Rằng thiên địa chí minh hành tội,
Mà người toan lụy xối thảm thay;
Một mình người khó liệu rày,
Người tu đại hiếu đất trời rõ thông.
Thiên thần địa kỳ vong ngoại đạo,
Đạo thiên vương khó bảo oai thần;
Dễ đâu thấy lực thiên ân,
Làm sao cứu đặng từ thân thoát vòng.
Ta nay chỉ đục trong thuyết cứu,
Tế cấp người bị tội nạn to;
Minh Tâm nhứt thiết lần dò,
Có tâm cứu mẹ cơ đồ Diêm la.
Chỉ Mục Liên thật thà nhứt đức,
Ở mười phương nhờ lực tăng sư;
Ngày rằm tháng bảy tâm từ,
Là ngày ân xá thiên tư vong nhờ.
Rằng trẻ biết lo cho người thế,
Mẹ cha còn cúng tế đại tiền;
Tai bai họa gởi từ nhiên,
Phù sanh được khỏi nợ tiền duyên xưa.
Hội trăm món lo lừa lòng thảo,
Năm thứ cây quí báu chung mâm;
Nhang đèn chong đốt nguyện thầm,
Cúng dường đãi các tăng tâm đức dày.
Cùng ngày ấu phô bày thiết cúng,
Thảy một lòng thánh chúng núi sông;
Dặn lòng cho chặt với lòng,
Hoặc là tu niệm rõ hằng tụng kinh.
Hoặc lục thông giả hình giáo hóa,
Bực thinh văn duyên giác dạy tu;
Hoặc là Thập Điện vẹt mù,
Dạy người biết tánh lòng tu đức nhiều.
Tỳ khưu ở theo chìu lòng thế,
Đại đồng trong đồng để một tâm;
Chịu hòa cơm lạc niệm thầm,
Thánh tâm tịnh giái đức âm rộng càng.
Hiệp đức chủ tựu cùng đàn tự,
Bốn tăng sư độ dẫn chánh tâm;
Mẹ cha còn tại khỏi lầm,
Khỏi điều tai nạn cơ thâm hiểm nghèo.
Trong sáu chứ y theo quyền thuộc,
Khỏi tam-đồ vào cuộc khổ thân;
Giờ linh giải thoát nợ trần,
Bằng cha với mẹ cõi trần bằng an.
Phước vui vẻ trăm năm tự toại,
Bằng bảy đời sao lại đào sanh;
Qua nơi thế giới khác lành,
Nhờ nơi chư Phật sẵn dành hiếu tâm.
Liền Phật xuống mười phương tăng chúng,
Chỉ dạy cùng hiệp chủng đồng tâm;
Mục Liên đại hiếu chí tâm,
Cầu vì từ mẫu ân thâm tội càng.
Phiền tăng chúng lo toan định ý,
Ý định rồi mới quí nơi tâm;
Vào đàng khuyên chớ lạc lầm,
Chủ tâm dọn bữa chớ cầm trước ăn.
Để bụng đói đặng dằn phàm tục,
Tụng cho rồi phút chút ăn sau;
Bằng ăn lỡ trước ban đầu,
Phải ngồi tưởng Phật cho lâu tại tiền.
Mục Liên luống ưu phiền vì mẹ,
Các tỳ kheo nhặm lệ vui mừng;
Cùng nhau định ý trùng phùng,
Tụng cầu người tội âm cung siêu liền.
Mẹ của Đức Mục Liên giải thoát,
Ra khỏi hình đầu bạc phơi phơi;
Nhứt thời giải thoát được rồi,
Lánh vòng ngạ quỉ khỏi nơi tội tình.
Mục Liên mới bạch trình Đức Phật,
Đệ tử nhờ công đức tăng sư;
Mang ơn tam bửu phước dư,
Vu lan cứu độ mẫu từ đệ đây.
Mà chẳng rõ sau này người thế,
Còn ai chăng hai có một tôi;
Vào thưa cùng Phật cạn lời,
Thế gian nhiều tội đời đời thảm thay.
Phật mới thốt khen hay thiện tánh,
Ta muốn bày đức hạnh đời sau;
Mà chưa kịp thốt cơ mầu,
Người liền trước hỏi buổi đầu thiện tâm.
Rằng nam nữ đức âm chư Phật,
Cùng các quan tước lộc vạn dân;
Thứ nhơn biết nghĩa thọ ân,
Hiếu tình con thảo lo tròn phận trai.
Điều trước chỉ đầu bái xin nhớ,
Cha mẹ còn đương ở thế gian;
Làm chay y dạy hưởng nhàn,
Bảy đời mắc đọa ân ban siêu liền.
Nội tháng bảy tâm thiền thiện tánh,
Ngày mười lăm tự tĩnh vong tiên;
Bồn ngày ân xá tội tiền,
Dùng cơm trăm món con thuyển quảy đơm.
Sao cho rạng danh thơm đạo đức,
Sao gọi rằng tích đức dài lâu;
Bâng khuâng nhớ cảnh dãi dầu,
Nhớ người hóa vãng chan sầu sớm hôm.
Nhơn khi tụng cúng lan bồn,
Một mân lễ hiến khôn cùng phận trai.
Mười phượng chư chúng đức tài,
Tăng sư đồng niệm là ngày siêu thăng.
Nguyện sau hiền đức tăng cha mẹ,
Được mạng tồn tợ thể thái sơn;
Trăm năm không bệnh chớ hờn,
Muôn điều cả thảy thiệt hơn vui vầy.
Khỏi lao khổ khỏi gầy hoạn nạn,
Được nhơ lòng mới hản phép công;
Bữa rằm nhớ chẳng đổi lòng,
Yên tâm lễ cúng ngô ông đạo đồng.
Còn bảy lớp dầu không biết mặt,
Mắc tội tình bờ bặc hiểm thâm;
Đành cam ngạ quỉ luân trầm,
Cháu con mà biết tưởng tầm tổ tiên.
Đồng tâm tăng chúng siêu liền,
Về nơi cực lạc tây thiên hưởng nhàn.
Dạy đệ tử tu an hiếu thuận,
Miệng niệm thường Phật chứng độ nhơn;
Mẹ cha bảy lớp cửu huyền,
Mỗi năn tháng bảy ngày rằm hiếu thân.
Làm con thần tỉnh mộ khan,
Đền ơn cúc dục bảo tồn cù lao.
Vu Lan bồn lời trao lẽ dạy,
Đáp ơn đền lẽ phải dưỡng nuôi;
Cám ơn trưởng dưỡng ngậm ngùi,
Biết ơn mới phải là người lập tu.
Giải hết cuốn vẹt mù mây ngút,
Giải lương tâm phút chút hiếu thân;
Mục Liên bốn lạy ân cần,
Vui mừng mẹ khỏi vương trần lao lung.
KỆ
Vu Lan lẻ chánh giải trần,
Mục Liên ai khẩn từ thân khỏi nàn.
Biết rằng thần lực huệ quang,
Thoát vòng lao khổ toàn thân danh truyền.
Cầu cho hậu thế chép biên,
Ai người chi hiếu được tiên linh thiền.
Bút cơ giải nghĩa chơn truyền,
Lòng thành tu niệm cửu huyền siêu thăng.
BỔ KHUYẾT
Bổ khuyết tâm kinh đời cải hóa,
Tiếng Ba La Bát Nhã Mật Đa;
Khuyên người hiểu chỗ chánh tà,
Nơi mình mơ ước Phật ma ở lòng.
Vị Bồ Tát ước mong thì đặng,
Chớ trù trì dùn thẳng hư tâm;
Có khi sa hố, sụp hầm,
Có khi còn phải lạc lầm Bàng Môn.
Thời chiếu kiến giai không ngũ uẩn,
Phải tập rèn cho xứng Thánh minh;
Lỗ tai con mắt công bình,
Cái miệng, lỗ mũi, thân hình là năm.
Tai đừng lóng giọng phàm phân giải,
Mắt đừng xem sự quấy sắc tà;
Miệng đừng vọng ngữ kêu ca,
Tránh điều thất đức giục hòa tục ngôn.
Mũi chớ hửi mùi thơm hương sạ,
Đừng dục ưa thịt cá là ngon;
Cái thân tránh khỏi quyền môn,
Năm điều giữ đặng bảo tồn Phật thân.
Lánh ách nạn chớ gần hung dữ,
Hiểu chăng Xá Lợi Tử là chi?
Đó là lòng Phật Mâu ni,
Trọng tâm cho lớn việc chi chẳng màng.
Đời dầu có muôn ngàn đâu ắt,
Mãnh hồng trần chưa chắc còn không.
Huống chi của cải mênh mông,
Để cho trong sạch, tâm không Đại đồng.
Thấy việc có tưởng không, không đó,
Thấy việc không tưởng có, có đâu;
Đắm say trần lụy sang giàu,
Thân mình còn mất chừng nào đâu hay.
Xá Lợi Tử tâm này quả quyết;
Không sanh ra, không chết, không ngờ;
Không hư, không sạch, không dơ,
Không thêm, không bớt, như tờ tự nhiên.
Nên hồn ở Trung thiên không sắc
Không quấy tham con mắt lỗ tai;
Miệng cùng cái mũi chân mày,
Cái mình, cái ý hình hài lục căn.
Đừng động tới, đừng phăng quyến tưởng,
Còn lục trần chớ vướng vụ thần;
Thinh hương vị xúc sắc thân,
Tốt lành để lóng giọng đờn êm tai.
Mùi ngon ngọt giọng dài tư tưởng,
Giục thần hồn ảnh hưởng mê tân;
Mắt không nên ngó sắc trần,
Tai không nghe lóng lời phân tiếng cười.
Mũi không hửi nơi mùi thơm ngọt,
Miệng không thèm chuốc ngót ước ao;
Ý không giai động sắc màu,
Ý mình chớ tưởng thấp cao pháp tà.
Mắt không ngó lòng ta không động,
Lửa vào lòng ắt nóng tối đen;
Mệt thần sanh dữ thấp hèn,
Tưới cho tắt đặng nhúm nhen tinh thần.
Không hờn giận tấm thân mát mẻ,
Thanh tịnh hoài được khỏe tâm cang;
Không sanh bịnh hoạn khốn nàn,
Không già, không chết đạo tràng bửu minh.
Chớ tính kế mà sinh sợ hãi,
Đừng âm mưu nghi ngại nơi tâm;
Luyện thần tránh chỗ lo thầm,
Lòng đừng tráo trở lạc lầm khó toan.
Suy nghĩ hội Niết Bàn mồng tám,
Trong tháng mười xúc cảm Mâu Ni;
Thích Ca giảng đạo vô vi,
Truyền bá chữ mặc một khi đắc thành.
Đạo Tiên dạy làm thinh lặng lẽ,
Dưỡng khí Thần mát mẻ nơi tâm;
Tâm kinh dạy bảo kiếm tầm,
Dạy đời cho hiểu chữ Tâm mà lần.
Tam thế Phật tưởng trần khó nghĩ,
Phật Di Đà, Thế Chí, Quan Âm;
Ba đời chư Phật không lầm,
Chơn kinh giữ đặng tu nhằm Phật xưa.
Dạy những kẻ Thượng thừa, Trung, Hạ,
Noi theo lo công quả mà tu;
Thiên đàng bền vững ngàn thu,
Chí tâm sửa tánh công phu lọc lừa.
Tầm đặng đến Thượng thừa quả vị,
Tam diệu Tam địa chỉ Bồ Đề;
Này là thần chú giác mê,
Trừ phiền khổ não chẳng hề đơn sai.
Ở được vậy thường hoài là Phật,
Bát Nhã Ba La Mật Thị Đa;
Lời khuyên trai, gái, trẻ, già,
Tâm kinh bổ khuyết diễn ca cạn lời./.
KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Vì sợ sái hoặc là không biết,
Nên mau bổ khuyết đủ kinh;
Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,
Giờ này đệ tử tất tình ăn năn.
Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,
Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;
Hoặc là sơ sót nơi lòng,
Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.
Tưởng chuyện khác cũng trong tánh ý,
Hoặc nghĩ suy rối trí gần xa;
Sẵn đây hương, quả, hoa, trà,
Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.
Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,
Những câu kinh tụng thiếu sót sơ;
Độ giùm tiêu tội kịp giờ,
Ba lần sám hối mong nhờ ân dư./.
(đọc 3 lần)
KINH PHỔ MÔN⁽ [27] ⁾
Lư Hương Tán
Lư hương đốt khói hòa ngút tỏa,
Mùi thơm bay khắp cả thành tâm:
Các vì Phật ở biển nam,
Thấy mùi thơm ấy dương trần thành tâm.
Vì mùi hương tóc trầm thành thật,
Các chư Tiên cùng Phật khinh thanh;
Chứng lòng thế sự tâm thành,
Đằng vân xuống chốn dương trần chứng minh.
Khai Kinh Kệ
Vô thượng thậm thâm huyền diệu pháp.
Trăm ngàn muôn kiếp khác gặp kinh;
Ta nay thấy nghĩa tất tình.
Giải quyền thiệt rõ chơn tình Như Lai.
Phật thuyết A Di Đà
Phật ra lời dạy kinh này,
Tụng kinh Tam Bảo phải dày lương tâm;
Dầu cho tụng niệm mãn năm,
Bụng không cố tưởng như cầm mà chơi.
Kinh Phổ Môn
Kinh mầu nhiệm thậm thâm huyền bí,
Vườn hoa sen rất quý chi hơn;
Đó là kinh báu Phổ Môn,
Quan Âm Bồ Tát Thiên Tôn độ đời.
Phật Bồ Tát hiện thời Tận Ý.
Ngồi đang chầu một vị Thích Ca.
Áo tràng vai hữu bày ra,
Dường như có tội ngó mà Thích Ca.
Ngài thủ lễ, bạch ra thành thật,
Hiểu sao gọi Phật Thế Âm;
Thấp hèn chưa thấy chỗ tầm,
Sao rằng xưng Phật Thế Âm làm gì.
Thích Ca mới khen hay Thiện Sĩ,
Thiệt trai lành hỏi kỷ lời ni;
Bởi vì ức vạn lâm nguy,
Chúng sanh khổ não xiết chi chan dầm.
Mà nhớ đến Thế Âm cầu nguyện,
Quan Thế Âm nghe tiếng xiết than;
Tức thì cứu khổ khỏi nàn,
Lòng thành niệm tưởng Tây phang thấu liền.
Người ở thế tâm thiền thờ phượng,
Rủi ro thay té vướng lửa trần;
Có vì phò hộ xác thân,
Khỏi thiêu vào ngọn lửa trần lao lung.
Bằng vắp té xuống sông nước ngập,
Niệm Thế Âm Bồ Tát độ nàn;
Được vào chỗ cạn thân an,
Vì lòng triêm ngưỡng bảo toàn khỏi lâm.
Bằng như có ức trăm muôn vạn,
Ra biển khơi mấy đoạn thương tâm;
Kim ngân mã não quyết tầm,
San hô hổ phách đang trầm biển sâu.
Xa cừ với trân châu vật báu,
Ước lưu ly thuyền đảo vòng xanh;
Vì lòng tham muốn nhọc nhành,
Rủi thay bảo tố đã đành thuyền trôi.
Trong biển khổ giữa vời nguy ngặt,
Thuyền tấp qua La Sát Quỷ Vương;
Nơi thuyền không thế lo lường,
Một người định tỉnh tầm phương niệm thầm.
Niệm Bồ Tát Quan Âm cứu vớt,
Thuyền khiến xui khỏi nước Quỷ vương;
Lạc lầm Bồ Tát chỉ đường,
Nên xưng Quan Thế vì thương kẻ trần.
Nghe lời nguyện ân cần triêm ngưỡng,
Những hung hoang chẳng lượng từ bi;
Gặp đạo những kẻ vô nghì,
Niệm cầu cứu khổ tức thì được an.
Bằng thế giái ba ngàn các nước,
Nước Mãng Trùng bày trước hung hoang;
Dạ xoa đáy biển lăng loàn,
Cùng là La Sát lòng toan hại lành.
Người lành thấy, tâm thành cầu nguyện,
Quan Thế Âm xui khiến kẻ hung;
Mắt không dám ngó tận cùng,
Có đâu dám hại vì hung đổi lòng.
Nói cùng kẻ trong vòng tội lỗi,
Hoặc là oan bị nỗi xiềng gông;
Ăn năn niệm tưởng nơi lòng,
Quan Âm cứu khổ khỏi vòng trái oan.
Ba ngàn thế giái, ngàn thế giái,
Giặc thù vơ kẻ quấy đón ngăn;
Chủ thoàn thương mãi kinh hoàng,
Những người buốn bán đi ngang hải hùng.
Vì vật báu chở trong thuyền nội,
E rủi ro, e nổi lụy thân;
Gặp người định tĩnh tinh thần,
Dạy cầu cứu khổ toàn thân khỏi liền.
Người lâm nạn các thoàn liền niệm,
Quan Thế Âm trợ hiểm cứu nguy;
Các thoàn khỏi họa tức thì,
Bao nhiêu tai nạn gặp khi vui vầy.
Vô tận ý lời nầy thật quả,
Vì huyền vi độ cả tu tâm;
Nên xưng hiệu Phật Thế Âm,
Cứu nguy trợ khốn, ân thâm muôn đời.
Bằng thế sự sa nơi dâm dục.
Mà hư thân, phút chút khổ thân;
Muốn lìa khỏi hại, niệm thầm,
Nguyện cầu Bồ Tát Thế Âm giải liền.
Kẻ hờn giận đảo điên chẳng dứt,
Khá thành tâm niệm đức Quan âm;
Từ nhiên tránh chỗ lạc lầm,
Giận hờn phiền não khổ tâm được liền.
Người khờ dại quen đàng ngu xuẩn,
Cầu Thế Âm độ vững kẻ mê;
Oai linh huyền diệu tràn trề,
Quan Âm Bồ Tát độ lê dân lành.
Đàn bà bởi chưa sanh trai nối.
Nguyện Thế Âm sớm tối kế truyền;
Trai lành sanh đặng hữu duyên,
Đoạn trong tướng mạo phước liền về sau.
Muốn cầu đặng âm hao sanh gái.
Thì tự nhiên nguyện toại lòng thành;
Nữ nhi tướng diện tốt lành,
Nối đàng nhơn đức chúng sanh yêu vì.
Vô Tận Ý lời ni nghe thấu.
Quan Thế Âm đức hậu lực oai;
Chúng sanh cung kỉnh lạy Ngài,
Phước nhiều không mất lâu dài thảnh thơi.
Nếu thế sự kỉnh lời thường nhắn.
Quan Thế Âm Bồ Tát hiệu danh;
Vái họ chí nguyện đắc thành,
Lâm nguy để dạ, tâm lành được an.
Vô Tận Ý tỏ tàng cao thượng.
Cả thế gian thờ phượng gần xa;
Sáu mươi hai ức hằng hà,
Họa hình chư Phật gọi là kỉnh phô.
Lòng chí dốc sắm đồ y phục.
Sắm đồ ăn cụ túc thuốc thang;
Tốn hao mà chẳng phàn nàn,
Nếu trần được vậy phước ban thế nào?
Vô Tận Ý âm hao biện bạch.
Kẻ thế trần khí phách tưởng tin;
Tốn hao mà dạ được thình,
Thiệt là phước đức hiển vinh cả đời.
Phật mởi thốt đôi lời bày giải.
Vã như người kỉnh lạy Quan Âm;
Một giờ có dạ ân thâm,
Bằng người thờ Phật lâu năm khác nào.
Dầu muôn ức kiếp sau chẳng hết.
Vô Tận nghe rõ rệt nơi tâm;
Ân cần thờ kỉnh Quan Âm,
Phước sau lợi cả ân thâm biển bùng.
Vô Tận Ý khôn cùng bạch Phật.
Bạch Thế Tôn thành thật phân minh;
Cớ nào Quan Thế đăng trình,
Ta bà khắp xứ giảng kinh độ đời.
Bày phương pháp các nơi cải ác,
Có ích chi Bồ Tát hay không?
Thế Tôn lượng cả vui lòng,
Phân minh đồ đệ hiểu trong lời này.
Phật Thế Tôn khen hay Tận Ý.
Thiệt trai lành hỏi kỹ lời ni;
Bởi vì Bồ Tát từ bi,
Xót thương sanh chúng lâm nguy tâm bào.
Hễ nghe nói nước nào mộ Phật.
Thì hóa thân tánh chất giảng kinh;
Tùy theo trình độ hóa hình,
Giảng lành cho thế quyên sinh tu hành.
Tùy theo ý chúng sanh ưa chuộng.
Muốn Thích Chi hiện xuống Thích Chi;
Dạy đời hiểu nẽo từ bi,
Giảng lành cho thế biết khi đạo hằng.
Đời lại muốn Thinh Văn xuống thế.
Quan Thế Âm hiện thể Thinh Văn;
Dạy dân hiểu nẽo biết đàng,
Xem kinh tỉnh thức độ an luân thường.
Đời lại muốn Phạm Vương xuống thế,
Quan Thế Âm hiện thể Phạm Vương;
Độ đời biết nẽo hiền lương,
Dạy đời cho rõ tầm phương tu hành.
Lòng của kẻ chúng sanh ưa muốn.
Đế Thích thân người chuộng giảng kinh;
Quan Âm liền hiện giả hình,
Giống in Đế Thích thân tình độ dân.
Vị Tự Toại Thiên thân ham muốn.
Quan Thế Âm hiện xuống hóa y;
Dạy lành cho thế kịp kỳ,
Giảng kinh thuyết pháp làm y bửu truyền.
Đại Thiên Thân từ nhiên đại tưởng.
Quan Thế Âm hiện xuống đâu sai;
Theo lòng nơi thế trần ai,
Muốn cho đời hiểu Thiên thai trở về.
Tì Sa muốn Liên Đề trưởng giả.
Tiểu Thiên Vương độ thá Tể quan
Muốn sao cư sĩ lâm đàn,
Diễn kinh Thuyết pháp độ an dân lành.
Bà La Môn chúng sanh ưa chuộng.
Quan Thế Âm hiện xuống hóa y;
Các vì Bà Tắc Ưu Di,
Tì khưu chư Phật Bà Di độ đời.
Nơi thế sự dụng lời đồng nữ,
Hoặc đồng nam thuyết sự giảng lành;
Tại lòng phàm tục chúng sanh,
Cầu sao hóa vậy, lòng thành mà ra.
Đời lại muốn Dạ Xoa, Càn Thoát.
A Tu La mẫu đạt Thiên Long;
Cẩn Na các vị chư đồng,
Quan Âm Bồ Tát hiện trong sở nguyền.
Chấp Kim Cang y truyền giáng thế.
Vì đời ưa tiếp lễ Kim Cang;
Quan Âm hiệu hóa toàn thân,
Diễn cho đời biết thiên ân điểm lành.
Vô Tận Ý hiểu rành thật quả.
Quan Thế Âm ngài đã gia tâm;
Vân du các nước sưu tầm,
Thiệt là đức hạnh thậm thâm khó tường.
Khuyên Tận Ý lo lường thờ phượng.
Quan Thế Âm tin tưởng nơi lòng;
Thần thông quảng đại khôn cùng,
Độ người trong lúc hãi hùng yên thân.
Bởi cớ ấy người trần thế giái.
Đều phục khâm lực đại thần thông;
Giúp người đang sợ vạn lòng,
Thí tâm Vô úy giải vòng lao lung.
Vô Tận Ý thung dung bạch Phật.
Rằng tôi nay thành thật tưởng tâm;
Chịu thờ đức Phật Quan Âm,
Bửu châu chuổi hột tay cầm dưng lên.
Của nầy đáng trăm thiên lượng giá.
Vàng tụi tòng chứa đã lâu nay;
Xả thân phủi sạch hằng ngày,
Lễ dưng cho Phật gọi rày thảo tâm.
Khi ấy Phật Thế Âm không lãnh,
Tận Ý bèn ngôn hạnh nỉ non;
Phật dùm chứng lễ vuông tròn,
Xin thương chút phận cỏn con chìu lòng.
Phật Thích Ca rõ lòng Tận Ý.
Khuyên Thế Âm xét kỹ giùm thâu;
Thiên Long Càn Thát A Tu,
Cẩn Na các vị hiệp âu nhập vào.
Thời Bồ Tát trước sau y dạy.
Chia làm hai lẽ phải phân qua;
Một phần phụng hiển Thích Ca,
Một phần Đa Bửu Phật gia trợ đời.
Phật Bồ Tát khắp nơi tự toại.
Dạo ta bà thế giái tri tâm;
Nên xưng Bồ Tát Quan Âm,
Thần thông gồm đủ sưu tầm chưa minh.
Phật Thích Ca chơn tình đáp lại.
Người khá nghe lẽ phải Quan Âm;
Rộng sâu hơn biển ai tầm,
Lịch lai mấy kiếp, mấy năm ai tường.
Thật nhiều Phật tầm phương ngàn ức.
Phật nguyện tu tỉnh thức khinh thanh;
Nói sơ cho rõ ngọn nghành,
Nghe tên hoặc đã thấy hình đồng tin.
Hay trừ chỗ chúng sanh ngộ nạn.
Giả như ai kết oán hại mình;
Xô vào hầm lửa thêu hình,
Niệm cầu Bồ Tát tầm thinh cứu nàn.
Hầm lửa nóng hóa tan nước nguội.
Hoặc ghe trôi ra tới biển xanh;
Sợ loài sấu cá quỉ nanh,
Niệm cầu Bồ Tát từ bi cứu nàn.
Sóng gió thổi chìm thoàn chết đuối.
Hoặc trèo cao như núi Tu Di;
Bị người xô té hiểm nguy,
Niệm cầu Bồ Tát từ bi cứu đời.
Không té xuống giữa vời sừng sựng.
Như mặt trời lững đững mây xanh;
Hoặc là kẻ dữ tung hoành,
Xô vào trong núi chỉ mành Kim Cang.
Niệm Bồ Tát cứu an nguy ngặt.
Khỏi hại thân, khỏi mất một lông;
Hoặc người oán vặt nơi lòng,
Cầm dao muốn chém mạng vong Huỳnh tuyền.
Niệm Bồ Tát kiền thiền tế độ.
Tức thì trong kẻ đó thành tâm;
Hoặc là những kẻ xuông nhằm,
Hành hình gần chết hiểm thâm tuổi thầm.
Niệm Bồ Tát Quan Âm khỏi nạn,
Liền ngọn dao từ đoạn gãy phân;
Hoặc là gông trống xiềng trăng,
Tay chơn bị trói thương thân khốn nàn.
Niệm Bồ Tát Quan Âm giải thoát.
Trù yếu bùa, thuốc độc hại thân;
Niệm cầu Bồ Tát Quan Âm,
Họa kia trở lại hại thầm cừu nhân.
Hoặc rủi gặp khổ thân quá ác.
Cù Long Ngư, La Sát quỉ hung;
Chắc là mạng tuyệt không cùng,
Niệm cầu Bồ Tát mạng chung khỏi liền.
Hung độc ấy từ nhiên biển thẩm.
Thú dữ hung hằng ám vút nanh;
Niệm cầu Bồ Tát đắc thành,
Các loài thú dữ bôn hành chạy tiêu.
Rắn, rít độc biết nhiều lửa khí.
Niệm Quan Âm loài mị tránh dang;
Thật là cứu độ tai nàn,
Niệm cầu Bồ Tát Quan Âm khỏi nào.
Mây vần vũ chớp vang sấm sét.
Bão, dông to, mưa quét đá rơi;
Quan Âm Bồ Tát cứu đời,
Ứng giờ cứu độ trong trời được tan.
Chúng sanh khổ tai nguy ách nạn.
Không lường suy khó hản cho thân;
Quan Âm diệu chí pháp thần,
Cứu người sanh chúng cõi trần lao lung.
Ngài đủ phép thần thông nghị duợt.
Giúp mười phương các nước yên bình;
Chổ nào mà chẳng hiện hình,
Dẫy đầy tội lỗi chúng sanh tràn trề.
Làm Ngạ quỉ não nề thiểu đức.
Đọa Âm ty Địa ngục súc sanh;
Kìa trong tứ khổ nhọc nhành,
Sanh lão, bệnh tử chúng sanh buộc ràng.
Ngài lần cứu cho tan bớt tội.
Am thật thà lại với tịnh thanh;
Rộng sâu trí huệ hương lành,
Các am lành ấy nêu danh thờ Ngài.
Không nhơ bợn, sáng ngoài thanh tịnh.
Như mặt trời chơn định Quan Âm;
Rọi soi sáng chỗ tối thầm,
Cái gương trí huệ muôn năm còn hoài.
Hai cái trị nạn tai gió lửa.
Sự sáng lòa gọi tủa thế gian;
Thương đời, đời dữ khuyên răn,
Ý Ngài lồng lộng, ví bằng luồng mây.
Cam lồ rưới của Ngài mưa phép.
Chốn não phiền trừ dẹp được an;
Tranh giành thưa kiện đến quan,
Bị điều giặc giả tràn lan hãi hùng.
Niệm Bồ Tát điều hung tan hết.
Niệm chơn ngôn thành kết biển sông;
Niệm mà tin tưởng nơi lòng,
Hơn là thế sự niệm không thường tình.
Nếu những kẻ tụng kinh hằng tưởng.
Niệm vào lòng chớ cượng sanh nghi;
Quan Âm thanh tịnh từ bi,
Trừ phiền khổ não tay nguy nhờ Ngài.
Mắt Ngài thật là tài hiền đức.
Phước Ngài hay tỉnh thức kẻ mê;
Công sâu hơn biển tràn trề,
Nên đời cung kỉnh thôn quê đồng thờ.
Thuở ấy cũng trong giờ tưởng Phật.
Trì Địa là Bồ Tát ngồi nghe;
Tức thì đứng dậy chỉnh tề,
Bạch cùng Phật Tổ xin nghe lời này.
Chúng sanh thấu kinh đây tự toại.
Quan Thế Âm thích giải Phổ Môn;
Diệu huyền thần lực trường tồn,
Nếu mà tin tưởng thì công phu nhiều.
Phật thích giải đủ điều nghĩa lý.
Kinh Phổ Môn đã chĩ rõ căn;
Tám muôn lại với bốn ngàn,
Chúng sanh tỉnh thức ăn năn làm lành.
Đồng một ý hy sanh ba bực.
Tu bòn công Tây vức hầu sang;
Liên hoa diệu pháp dẫn đàng,
Phổ Môn chơn tự Quan Âm lời rằng./.
NHỨT ĐẠI THỆ
Tối lòng nhờ biết tưởng tin,
Sáng lòng nhờ biết xem kinh tập rèn.
Nhiều lần sửa tánh được quen,
Phật tâm ta biết, tiếng khen chớ mang.
Định thần nhìn rõ Thiên đàng,
Định thần biết thấu Niết Bàn lần sang.
Trẻ thơ vừa thấy thế gian,
Chào đời bằng tiếng khóc than nhắc đời.
Chơn ngôn Tây Vức cạn lời,
Pháp Môn độ dẫn con người trần gian.
Phổ Môn thiệt hóa hình người,
Độ đời tầm tiếng khắp nơi khẩn nguyền.
Hiền lành pháp độ chơn truyền,
Mê tâm Ngài cứu khỏi miền U Minh.
Tưởng tin như bóng theo hình,
Khắp trong bốn biển hữu tình độ an.
Tám điều nạn lớn thế gian,
Giặc cùng trộm cướp đói chan lửa hồng.
Khó khăn như nước đến trôn,
Sợ điều truyền nhiễm dịch ôn khổ thầm.
Nhớ câu nạn vỉnh vô xâm,
Sợ điều họa vấy tưởng tâm khỏi liền.
Nam mô danh hiệu Như Lai,
Quan Âm Bồ Tát cứu loài trần gian.
Nam mô danh hiệu Quan Âm,
Từ bi thương xót biển nam Phổ Đà.
Nam mô dạo khắp ta bà,
U Minh cảnh giới xót xa khổ nàn.
Nam mô nhờ đức Quan Âm,
Trừ tà yêu quái cao thâm cứu loài.
Nam mô Phật Tổ Như Lai,
Cam lồ nhành liễu hôm mai rưới lòng.
Nam mô nhờ đức thần thông,
Lòng thành tế độ thung dung công bình.
Nam mô biến hóa muôn hình,
Tuần du dạo khắp giảng kinh cứu đời.
Nam mô nam hướng theo thời,
Tù lao trăng trói khỏi nơi lao tù.
Nam mô thuyền pháp công phu,
Vớt người vực thẳm ngàn thu đợi thoàn.
Nam mô trước có tràng phang,
Sau tàng bửu cái tây phang rước hồn.
Nam mô đức Phật Thế Tôn,
Mến nơi cực lạc linh hồn bền giai.
Nam mô Phật Tổ Như Lai,
Trang nghiêm phước đức mười hai câu nguyền./.
-BỔ KHUYẾT
Bổ khuyết tâm kinh đời cải hóa,
Tiếng Ba La Bát Nhã Mật Đa;
Khuyên người hiểu chỗ chánh tà,
Nơi mình mơ ước Phật ma ở lòng.
Vị Bồ Tát ước mong thì đặng,
Chớ trù trì dùn thẳng hư tâm;
Có khi sa hố, sụp hầm,
Có khi còn phải lạc lầm Bàng Môn.
Thời chiếu kiến giai không ngũ uẩn,
Phải tập rèn cho xứng Thánh minh;
Lỗ tai con mắt công bình,
Cái miệng, lỗ mũi, thân hình là năm.
Tai đừng lóng giọng phàm phân giải,
Mắt đừng xem sự quấy sắc tà;
Miệng đừng vọng ngữ kêu ca,
Tránh điều thất đức giục hòa tục ngôn.
Mũi chớ hửi mùi thơm hương sạ,
Đừng dục ưa thịt cá là ngon;
Cái thân tránh khỏi quyền môn,
Năm điều giữ đặng bảo tồn Phật thân.
Lánh ách nạn chớ gần hung dữ,
Hiểu chăng Xá Lợi Tử là chi?
Đó là lòng Phật Mâu ni,
Trọng tâm cho lớn việc chi chẳng màng.
Đời dầu có muôn ngàn đâu ắt,
Mãnh hồng trần chưa chắc còn không.
Huống chi của cải mênh mông,
Để cho trong sạch, tâm không Đại đồng.
Thấy việc có tưởng không, không đó,
Thấy việc không tưởng có, có đâu;
Đắm say trần lụy sang giàu,
Thân mình còn mất chừng nào đâu hay.
Xá Lợi Tử tâm này quả quyết;
Không sanh ra, không chết, không ngờ;
Không hư, không sạch, không dơ,
Không thêm, không bớt, như tờ tự nhiên.
Nên hồn ở Trung thiên không sắc
Không quấy tham con mắt lỗ tai;
Miệng cùng cái mũi chân mày,
Cái mình, cái ý hình hài lục căn.
Đừng động tới, đừng phăng quyến tưởng,
Còn lục trần chớ vướng vụ thần;
Thinh hương vị xúc sắc thân,
Tốt lành để lóng giọng đờn êm tai.
Mùi ngon ngọt giọng dài tư tưởng,
Giục thần hồn ảnh hưởng mê tân;
Mắt không nên ngó sắc trần,
Tai không nghe lóng lời phân tiếng cười.
Mũi không hửi nơi mùi thơm ngọt,
Miệng không thèm chuốc ngót ước ao;
Ý không giai động sắc màu,
Ý mình chớ tưởng thấp cao pháp tà.
Mắt không ngó lòng ta không động,
Lửa vào lòng ắt nóng tối đen;
Mệt thần sanh dữ thấp hèn,
Tưới cho tắt đặng nhúm nhen tinh thần.
Không hờn giận tấm thân mát mẻ,
Thanh tịnh hoài được khỏe tâm cang;
Không sanh bịnh hoạn khốn nàn,
Không già, không chết đạo tràng bửu minh.
Chớ tính kế mà sinh sợ hãi,
Đừng âm mưu nghi ngại nơi tâm;
Luyện thần tránh chỗ lo thầm,
Lòng đừng tráo trở lạc lầm khó toan.
Suy nghĩ hội Niết Bàn mồng tám,
Trong tháng mười xúc cảm Mâu Ni;
Thích Ca giảng đạo vô vi,
Truyền bá chữ mặc một khi đắc thành.
Đạo Tiên dạy làm thinh lặng lẽ,
Dưỡng khí Thần mát mẻ nơi tâm;
Tâm kinh dạy bảo kiếm tầm,
Dạy đời cho hiểu chữ Tâm mà lần.
Tam thế Phật tưởng trần khó nghĩ,
Phật Di Đà, Thế Chí, Quan Âm;
Ba đời chư Phật không lầm,
Chơn kinh giữ đặng tu nhằm Phật xưa.
Dạy những kẻ Thượng thừa, Trung, Hạ,
Noi theo lo công quả mà tu;
Thiên đàng bền vững ngàn thu,
Chí tâm sửa tánh công phu lọc lừa.
Tầm đặng đến Thượng thừa quả vị,
Tam diệu Tam địa chỉ Bồ Đề;
Này là thần chú giác mê,
Trừ phiền khổ não chẳng hề đơn sai.
Ở được vậy thường hoài là Phật,
Bát Nhã Ba La Mật Thị Đa;
Lời khuyên trai, gái, trẻ, già,
Tâm kinh bổ khuyết diễn ca cạn lời.
-KINH ĐẠI BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Vì sợ sái hoặc là không biết,
Nên mau bổ khuyết đủ kinh;
Lỗi lầm cho biết nhận nhìn,
Giờ này đệ tử tất tình ăn năn.
Bởi khi tụng câu văn trại bẹ,
Tiếng nói ra cọ kẹ không thông;
Hoặc là sơ sót nơi lòng,
Cùng khi tụng niệm mà không hết lòng.
Tưởng chuyện khác cũng trong tánh ý,
Hoặc nghĩ suy rối trí gần xa;
Sẵn đây hương, quả, hoa, trà,
Cúi xin chư Phật thứ tha sĩ hiền.
Cầu Hộ Pháp Long Thiên chứng chiếu,
Những câu kinh tụng thiếu sót sơ;
Độ giùm tiêu tội kịp giờ,
Ba lần sám hối mong nhờ ân dư./.
(đọc 3 lần)
[1] Kinh Nhập Hội (Thiên Đạo & Thế Đạo)
[2] Kinh Xuất Hội (Thiên Đạo & Thế Đạo)
[3] Kinh Vào Học trích Thiên Đạo Thế Đạo
[4] KINH KHI ĐI NGỦ (Thiên Đạo & Thế Đạo).
[5] KINH KHI THỨC DẬY (Thiên Đạo & Thế Đạo).
[6] KINH ĐI RA ĐƯỜNG (Thiên Đạo & Thế Đạo).
[7] KINH KHI VỀ (Thiên Đạo & Thế Đạo).
[8] KINH VÀO ĂN CƠM (Thiên Đạo & Thế Đạo)
[9]KINH KHI ĂN CƠM RỒI (Thiên Đạo & Thế Đạo).
[10]Kinh tụng khi vợ quy liểu (Thiên Đạo & Thế Đạo). Đức Đoàn Thị điểm cho
[11] KINH TỤNG KHI CHỒNG QUI VỊ(Thiên Đạo & Thế Đạo). Đức Đoàn Thị điểm cho
[12] KINH TỤNG CHA MẸ ĐÃ QUI-LIỄU (Thiên Đạo & Thế Đạo). Đức Đoàn Thị Điểm cho
[13]Song thân, hoặc phụ thân hay mẫu thân đã qui liễu. Cha mẹ hay lịnh mẹ hoặc lịnh cha đã qui liễu.
[14] Thiên Đạo & Thế Đạo. Cha mẹ mà người nào còn sống thì đọc: cha ở đây hoặc mẹ ở đây. Nếu chết hết thì đọc nguyên văn.
[15] KINH CẦU BÀ CON THÂN BẰNG CỐ HỮU
ĐÃ QUI LIỄU (Thiên Đạo & Thế Đạo). Đức Đoàn Thị điểm cho
KINH CẦU TỔ-PHỤ ĐÃ QUI LIỄU (Thiên Đạo Thế Đạo) Đoàn Thị Điểm cho
[17] KINH TỤNG KHI VUA THĂNG HÀ (Thiên Đạo & Thế Đạo) Đoàn Thị Điểm cho
[18] KINH TỤNG HUYNH ĐỆ MÃN PHẦN(Thiên Đạo & Thế Đạo). Đức Đoàn Thị điểm cho
[19] KINH TỤNG KHI THẦY QUI VỊ (Thiên Đạo & Thế Đạo)
[20] KINH CỨU KHỔ (Thiên Đạo & Thế Đạo)
[21] Tên họ của bệnh nhơn
[22] Kinh Sám Hối (Thiên Đạo & Thế Đạo)
[23]Tu Chơn Thiệp Quyết (theo Ngọc Đế Chơn Truyền) Do Ơn trên giáng cơ dạy tại Thánh Thất Kiên Giang - Rạch Giá đêm 24/03 Canh Ngũ, nhằm 22/04 1930
[24] KINH CẢM ỨNG (Tam Ngươn Giác Thế) do Đức Văn Xương Đế Quân giáng bút diễn nghĩa bằng thơ lục bát.
[25] (KINH DI ĐÀ trong bộ Nho tự Tam Bảo 1940 tại Bửu Minh Đàn (Ô Môn, Cần Thơ) được Thầy ban lập đàn cơ liên tục trong Tam ngoạt để các Đấng Thiêng Liêng về dịch bộ kinh Phật từ văn xuôi Nho tự chuyển thành Bộ kinh văn vần bằng từ ngữ Việt gồm kinh Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Kim Cang.
[26] (KINH VU LAN trong bộ Nho tự Tam Bảo 1940 tại Bửu Minh Đàn (Ô Môn, Cần Thơ) được Thầy ban lập đàn cơ liên tục trong Tam ngoạt để các Đấng Thiêng Liêng về dịch bộ kinh Phật từ văn xuôi Nho tự chuyển thành Bộ kinh văn vần bằng từ ngữ Việt gồm kinh Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Kim Cang.
[27] (KINH PHỔ MÔN trong bộ Nho tự Tam Bảo 1940 tại Bửu Minh Đàn (Ô Môn, Cần Thơ) được Thầy ban lập đàn cơ liên tục trong Tam ngoạt để các Đấng Thiêng Liêng về dịch bộ kinh Phật từ văn xuôi Nho tự chuyển thành Bộ kinh văn vần bằng từ ngữ Việt gồm kinh Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Kim Cang.