..... LỄ TANG

NGHI LỄ HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

TÒA THÁNH LONG CHÂU

IV- PHẦN ĐÁM TANG

4.1. CHUẨN BỊ TÂN CỐ

          + Nghi thức thượng sớ tân cố

          Đây là nghi thức dâng sớ lên Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng để báo cáo về việc có tín đồ Cao Đài mới vừa qua đời, cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát và các Đấng thiêng liêng cứu độ vong hồn. Nghi thức thượng sớ tân cố là sớ Sơ Chung Thông Sự có thể thực hiện tại Tòa Thánh hay Thánh Tịnh, Nhà Tịnh hoặc tại Thiên Bàn nơi tư gia người chết.

          Nếu người chết là Chánh Trị Sự hay Đạo Hữu hoặc tương đương thì người chứng đàn cầu nguyện là Chánh Trị Sự hương đạo sở tại.

          Nếu người Chết là Phẩm Lễ Sanh hoặc tương đương trở lên thì người chứng đàn cầu nguyện là Đầu Tộc, Đầu Phận Đạo, Khâm Châu Đạo hoặc Khâm Thành Thánh Địa.

          Còn những việc khác thì Ban Trị Sự hành lễ theo nghi thức quy định.

          - Nghi thức đốt đèn trên và dưới hòm

          Nghi thức đốt đèn trên và dưới quan tài Trên giá đèn đặt trên nắp quan tài, đốt đủ 9 cây nến, không dư không thiếu và không được để tắt đi. Phía dưới hòm đốt 1 ngọn đèn để khử trược lưu thanh.

          Nghi thức lập bàn vong – khay vong – linh vị trong đám tang Cao Đài

          Gia đình cần chuẩn bị 1 cái bàn đặt trước hòm làm bàn vong. Bàn vong sẽ bao gồm 1 cặp chân đèn, 1 lư hương, 1 dĩa trái cây, 1 bình hoa, 1 chung rượu, 1 chung trà, 1 tấm linh vị, 1 cây đèn, 1 tấm di ảnh có mặc đạo phục, 1 cây phướn Thượng Sanh đặt bên trái phía trong nhà nhìn ra cửa.

          Nếu người chết ở Phẩm Lễ Sanh hoặc tương đương thì có thêm cây lộng. Trước bàn vong dán tấm phủ màu trắng ghi chữ ví dụ như: Sanh Ký Tử Qui, Sanh Tiền Giác Ngộ Tam Kỳ Đạo, v.v… Bên cạnh đó dán 1 miếng giấy nhỏ ghi: xin cầu nguyện cho “Phẩm Tước, họ tên người chết, tuổi” để cho người viếng đám cầu nguyện.

          Nơi Thiên Bàn cũng dán tương tự như vậy với nam thì dán dưới bình hoa hoặc các chuông, nữ dán dưới dĩa trái cây hoặc cái mõ, để ban đạo cầu nguyện.

          - Nghi thức khay vong

          Gia đình chuẩn bị khay hình vuông để đặt linh vị, dĩa trái cây nhỏ, bình hoa nhỏ, đèn vọng, lư hương nhỏ. Khay hình vuông này được gọi là khay vong, tượng trưng cho vị trí của vong linh. Và khi hành lễ, gia quyến phải luôn đốt 3 cây nhang cắm vào.

          - Nghi thức linh vị (bài vị)

          Để thực hiện nghi thức này, cần một miếng giấy nhỏ ghi họ tên người chết, phẩm vị, tuổi, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, ngày tháng năm chết, nơi chết, ngày nhập môn cầu Đạo.

          - Nghi thức cầu hồn khi hấp hối

          Để thực hiện nghi thức này, gia đình sẽ thực hiện việc tụng kinh cho người mất. Việc làm này nhằm mục đích cầu nguyện Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng cứu giúp linh hồn của người đang hấp hối được nhẹ nhàng xuất ra khỏi thể xác, được siêu thoát về cõi vĩnh hằng.

          - Nghi thức cầu hồn trong tang lễ

          Nghi thức cầu hồn khi đã lâm chung. khi người đã mất được thực hiện giống như khi đang hấp hối. Lúc này, Ban trị sự sẽ tiến hành đọc kinh cầu nguyện cho người mất. Sau đó, gia quyến hoặc Ban trị sự sẽ đến Tòa Thánh (nếu người quy vị là Chức Sắc) hay Thánh Tịnh để báo tử.

          - Việc đánh chung, trống báo tin

          Việc đánh chung, trống báo tin bao nhiêu lần tùy thuộc vào người quy vị là Chức sắc hay các Chức khác.

          Nếu là Chức Sắc thì tùy vào Phẩm Cấp để đánh chung báo tin và đánh trống báo tin, cụ thể:

          Phẩm Giáo Hữu và tương đương: đánh 2 hồi chung và đánh 2 hồi trống.

          Phẩm Lễ Sanh và tương đương: đánh 1 hồi chung và đánh 1 hồi trống.

          Nếu là Chức việc Ban Trị Sự và Đạo Hữu hay các phẩm tương đương Nam thì đánh 7 hồi chuông, Nữ thì đánh 9 hồi chuông.

4.2. VIỆC TẨN LIỆM

- CÁCH TẨN LIỆM

          Để thực hiện việc tẩn liệm cho người mất theo đạo Cao Đài, gia quyến sẽ thực hiện các việc như sau:

          Vệ sinh, tắm rửa sạch sẽ cho người mất. Người thân sẽ dùng nước thơm (nước nấu với các loại lá cây có mùi thơm) vệ sinh nhẹ nhàng, sạch sẽ cho người chết. Sau đó thay đồ cho người chết, mặc đạo phục theo phẩm vị và đắp 1 miếng vải trắng hình tam giác trên mặt người chết, bề đứng 33cm và góc nhọn để trên. Quỳ lạy Đức Chí Tôn và cầu nguyện. Sau đó đến chỗ người chết nằm quỳ lạy người chết 1 lần.

          - Nghi thức tẩn liệm

          Vị chứng đàn và 2 vị hầu lễ đến trước Thiên Bàn cầu nguyện Thầy.

          Đốt 2 cây nến cho 2 vị hầu lễ cầm, vị chứng đàn bắt ấn Tý đến đứng trước đầu người chết, ra lệnh cho đồng nhi bắt đầu tụng kinh tẩn liệm, tụng 3 lần. Khi niệm xong câu chú của Thầy 3 lần, vị chứng đàn và 2 vị hầu lễ trở lại trước Thiên Bàn xá Chí Tôn, rồi xả ấn Tý và tắt 2 cây nến.

          Người thân lạy người chết 1 lần nữa, rồi đội tẩn liệm bắt đầu tiến hành liệm xác rồi đưa vào hòm.

          - Trị quan tài:

Cách trị quan tài thì dùng thạch cao sống, đâm ra gây cho thiệt nhỏ, hể dùng một tô thạch cao sống thì phải hai tô thôt chu hòa trộn cho đều, rồi chế sơn sống vô mà nhồi cho vừa cầm tay đặng trét các đường hèm cho kỷ càng, chừng ít giờ thì chắc hơn hết.

- Dùng đồ tẩn liệm

          Người tu hành chẳng nên dùng đồ tơ lụa, cứ một hạng vải trắng mà thôi.

          Đại liệm là dùng hai lớp:

* Lớp trong:

+ Ba cái “hoành” để nguyên khổ vải, dùng trải ngang, bề dài 2 thước tây hai đầu đều xé ba, bề vô vừa đủ cột lại.

+ Một cái “tung” dùng trải dọc, một khổ vải, bề dài 5 thước tây, hai đầu đều xé ba để cột lại.

+ Một cái “khâm” là cái mền để gói, bề rộng phải 3 khổ vải để nguyên mai kế lại.

+ Năm cái “hoành” mỗi cái nửa khổ vải, bề dài 2 thước 2 tấc tây không xé đầu.

+ Một cái “tung” bằng y như lớp trong vậy và cũng xé ra làm ba để cột.

+ Một cái “khâm” y như lớp trong, mỗi món điều làm dấu trung tim.

+ Chiếc chiếu phía trên đầu trải trước, kế trải chiếc chiếu dưới chơn sau.

+ Sắp 5 cái hoành lớp ngoài trải ngang qua (phải giữ trung tim) trải phía dưới chơn trước, kế sắp dần lên tới trên đầu cho đủ 5 cái.

+ Sắp cái tung ngoài, trải bề dọc (cũng giữ tim).

+ Sắp cái khâm ngoài, trải bề dọc, cũng giữ tim cho đúng với trung tim quan tài.

+ Sắp 3 cái hoành nội ngang qua, rồi sắp cái tung nội bề dọc, kế sắp cái khâm nội. Cách sắp cũng như lớp ngoài, còn cái gối để nằm ngang.

+ Dùng một khai trầu rượu làm lễ trình mà thỉnh thi hành nhập quan, trong lúc đó con cháu phải tựu lại quỳ, chư nho vái như vầy:
”Thưa đạo hữu, giờ nay là giờ lành xin dùng ly rượu này làm lễ trình, thỉnh thi hài nhập quan, xin linh hồn đạo hữu chứng chiếu”.

+ Vái rồi con cháu đồng lạy, rồi ra đứng hai bên, các người trợ tẩn vào khiên thi hài đêm ra nhập quan.

+ Cách khiên: Dùng một cái mền để dưới lưng thi hài, phải có hai khúc cây đặt hai bên mí mền xuôi theo thi hài, cuốn mí mền vào hai khúc cây cho sát hai bên hông thi hài thẳng thớm cho dễ khiên.

+ Khi khiên đem để trên quan tài ngay thẳng, rồi thủng thẳng tháo hai khúc cây ra thi hài riếu riếu xuống lần không hề xao động. Chừng yên nơi quan tài rồi lấy hai mí mền đấp lên, lấy hai yểm nhỉ ém bên lỗ tai, cái yểm diện đậy trên mặt. Phải coi chừng cái mặt có ngay thẳng, rờ chừng sống mũi thì hiểu.

+ Áo quần, mùn mền chi muốn đem theo cho người thác ấy thì sắp vào cho đều, nếu chưa đủ thì lấy kèn cuốn mà ém vào cho đủ, đừng cho chỗ no chỗ đói.

+ Kế đó sắp cái khâm nội lại, sắp mí dưới chơn lên trước, mí trên đầu xuống sau xếp mí bên tả rồi xếp mí bên hữu, xong phải ếm mí cho ngay thẳng.

+ Xếp cái tung nội lại mà cột, phép cột gắt mối vải lại, xây trái ổi rồi nhét mối, đừng cột thắt gút.

+ Kế ba cái hoành nội, mỗi cái xé làm ba, phải rán cho thẳng, bắt trên cột trước, dồn xuống chín gút, cũng gắt mối dây trái ổi mà nhét mối lại.

+ Lớp ngoài thì cứ thứ tự gối cột cũng như y trong vậy chớ đùng xé đầu.

+ Phải coi chừng đừng non quá mà đừng già quá, nhắm cho vừa rồi xếp chiếc chiếu đầu dưới chơn trước mà ém, rồi xếp đầu trên sau, ém mí cho chắc đó là rồi các việc trong quan.

+ Kế dùng hồ trị quan, trước đây dấp trên đường vỏ khổ quan cho đều đủ, đậy nấp quan lên, coi cho ngay mộng, dùng hai đoạn dây làm nài, đặt ngang qua nấp, trên đầu một cái, dưới chơn một cái, dưới đáy có hai khúc cây đòn ngang, choàn dây quay và phải cùng một lượt, chậm-chậm cho xuống chừng xác mộng, rồi thì đóng hai con đĩa ở hai bên chắc hơn bản lề. Dùng hồ ém trét hai mí cho kín, lấy giấy bạch thoa sơn sống mà phất theo đường hèm chừng năm lớp thì chắc, khỏi lo chi cả.

*Lớp ngoài:

+Đồ phụ tùng: Một cái gối đầu, may bề dài 3 tất tây, bề ngang 2 tất rưỡi, bề dầy 8 phân tây, dồn gòn, hai cái yểm nhỉ, mỗi cái bề dài 2 tất rưỡi, bề dầy 8 phân tây, bề cao 2 tất, may rồi cũng dồn gòn.

+ Một cái yểm diện may bằng cái gối, nhưng bề dầy 4 phân tây, còn bao đầu bao tay và bao chơn liệu may cột kín thì thôi. Bổ khuyết thì dùng giấy súc thứ dầy; cuốn kèm dồn gòn, hoắc tim-bức cũng đặng. Một đôi chiếu mới cho sạch sẽ. Đó là đủ đồ dùng cho sự đại liệm.

- Sắp đặt quan tài

Tiểu liệm cũng y như vậy, nhưng không dùng lớp ngoài nên gọi là tiểu liệm. Thế là xong phần tẩn liệm thi hài./.

          4.3. -PHỦ QUAN

          Tấm phủ quan là tấm vải để phủ lên hòm, có 5 màu là vàng, xanh, đỏ, trắng, đen. Thông thường, tấm vải này sẽ có dạng hình vuông với mỗi cạnh là 1m2, 4 mặt đều may ren, chính giữa thêu 1 Thiên Nhãn lớn với 12 ánh hào quang.

          Nghi thức tấm phủ quan được thực hiện sau khi hòm được đặt đúng vị trí. Gia quyến sẽ dùng tấm phủ quan đắp lên hòm, tiếp sau là đặt giá đèn lên trên.

          Cần lưu ý rằng trước khi đắp tấm phủ quan lên hòm cho người chết, người chứng lễ đem tấm vải này đặt trước Thiên Bàn để cầu nguyện đức Chí Tôn ban ơn cho người chết.

          Và để phân biệt người chết là nam hay nữ cũng như để là phân biệt cơ quan, Chức Sắc Cửu Trùng Đài, mọi người sẽ có căn cứ vào màu sắc của tấm phủ quan.

          - Phủ Quan màu trắng:

          Chức Sắc và Chức Việc phái nữ Cửu Trùng Đài

          Chức Sắc Hiệp Thiên Đài và Ban Thế Đạo.

          - Phủ Quan màu vàng:

          Chức Sắc Cửu Trùng Đài phái Thái

          Chức Sắc Phước Thiện từ Phẩm Hiền Nhơn trở lên

          - Phủ Quan màu xanh:

          Chức Sắc Cửu Trùng Đài phái Thượng

          Chức Sắc Phước Thiện nam nữ đeo dây sắc lệnh màu xanh: Chí Thiện, Đạo Nhơn, Chơn Nhơn

          - Phủ Quan màu đỏ:

          Chức Sắc Cửu Trùng Đài phái Ngọc, Ban Trị Sự nam phái và các Phẩm tương đương

          Chức Sắc Ban Kiến Trúc, Bộ Nhạc

          Chức Sắc Phước Thiện nam nữ đeo dây sắc lệnh màu đỏ: Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Bảo Thể, Đầu phòng văn.

          - Phủ Quan màu đen:

          Đạo hữu nam nữ, đạo sở, minh đức, tân dân (Phước Thiện), thư ký, trật tự viên,

          - Đấp Tấm phủ quan - Đốt đèn trên và dưới quan tài.

Khi đặt quan tài ở đúng vị trí rồi thì lấy tấm phủ quan đấp lên quan tài, kế tiếp đặt giá đèn lên trên.

Tấm phủ quan là một tấm vải để phủ lên quan tài, có hình vuông, mỗi cạnh 12 tấc (1 thước 2 tấc), bốn bề viền ren, chính giữa thêu một Thiên Nhãn lớn có 12 tia hào quang. Hình Thiên Nhãn thêu theo đường chéo của hình vuông. Khi đấp tấm phủ quan thì để cho chơn mày của Thiên Nhãn về phía đầu quan tài (đầu người chết), hai góc hai bên phủ xuống hai bên hông quan tài.

Về màu sắc, Tấm phủ quan có 5 loại theo 5 màu : vàng, xanh, đỏ, trắng, đen.

Muốn đấp tấm phủ quan, người chứng lễ đem tấm phủ quan đặt nơi Thiên bàn, cầu nguyện Đức Chí Tôn ban ơn cho người chết, rồi mới đem đấp lên quan tài.

Dùng màu sắc của tấm phủ quan để phân biệt người chết là nam hay nữ, cơ quan, 3 phái Chức sắc CTĐ kể ra :

+ Phủ quan màu trắng dành cho : Chức sắc và Chức việc Nữ phái CTĐ, Chức sắc HTĐ và Chức sắc Ban Thế Đạo.

+ Phủ quan màu vàng dành cho : Chức sắc CTĐ phái Thái, Chức sắc PT từ phẩm Hiền Nhơn trở lên.

+ Phủ quan màu xanh dành cho : Chức sắc CTĐ phái Thượng, Chức sắc PT nam nữ mang dây Sắc lịnh màu xanh : Chí Thiện, Đạo Nhơn, Chơn Nhơn.

+ Phủ quan màu đỏ dành cho : Chức sắc CTĐ phái Ngọc, BTS nam phái và các phẩm tương đương, Chức sắc Ban Kiến Trúc, Bộ Nhạc, Chức sắc PT nam nữ mang dây Sắc lịnh màu đỏ : Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Bảo thể, Đầu phòng văn.

+ Phủ quan màu đen dành cho : Đạo hữu nam nữ, Đạo sở, Minh đức, Tân Dân (PT), Thơ ký, Trật tự viên, . . . .

Ý nghĩa của tấm phủ quan nầy giống như ý nghĩa của việc thờ Thiên Nhãn nơi Khách đình : Đức Chí Tôn vì quá thương yêu con cái của Ngài nên một mình Ngài rời Thiên đình đi xuống trần (nên Tam Giáo chủ và Tam Trấn không biết), không nệ chỗ uế trược, đến độ con cái của Ngài lúc chung qui hồn lìa khỏi xác, để trở về cùng Ngài.

Khi quan tài đấp tấm phủ quan màu gì thì khi lên thuyền Bát Nhã, tấm diềm treo trên thuyền Bát Nhã cũng có màu giống như thế.

Khi đấp tấm phủ quan xong thì đặt giá đèn lên quan tài. Trên giá đèn, đốt đủ 9 cây đèn sáp, đủ 9 cây không dư không thiếu, thường chăm sóc đừng để tắt. Số 9 cây đèn nầy đúng theo 9 cây nhang đốt cháy khi hành pháp độ thăng và 9 bài Kinh Tuần cửu, có Cửu vị Tiên Nương hướng dẫn linh hồn người chết đi lên 9 từng Trời.

Phía dưới quan tài đốt một ngọn đèn để khử trược lưu thanh.

+ Việc thu hồi tấm phủ quan : Sau khi đồng nhi đọc Kinh Hạ huyệt, 3 biến Vãng Sanh Thần chú và niệm xong Câu Chú của Thầy, vị chứng lễ bước tới ngang quan tài, xá Thiên Nhãn trên phủ quan 3 xá rồi thu hồi tấm phủ quan)

          + Nghi thức cáo từ Tổ – Thành phục – Tang phục

Để thực hiện các nghi thức này, gia đình cần tiến hành các việc như sau:

          Chuẩn bị 2 mâm chay gồm 1 mâm cúng Cửu Huyền Thất Tổ, 1 cúng Thần Hoàng Bổn Cảnh. Các mâm cúng này phải có đủ hoa, rượu, nước trà.

          Đặt đồ tang ngay ngắn trong 1 cái mâm được gọi là mâm tang phục để trước bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ. Trên mâm đốt 2 cây nến.

nghi thức cáo từ tổ – thành phục – tang phục

Trước tiên, Chức Việc và người nhà đến trước Thiên Bàn cúng Đức Chí Tôn, dâng sớ Thành phục, cầu nguyện cho người nhà thọ tang. Tiếp sau, đến bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ thực hiện lễ cáo từ Tổ thọ tang. Sau cùng đến bàn vong làm lễ phát tang.

          Thời gian để tang bao gồm các hình thức để tang như:

          Để tang 81 ngày: tới Chung cửu thì mãn tang.

          Để tang  281 ngày: tới Tiểu tường thì mãn tang.

          Để tang 581 ngày: tới Đại tường thì mãn tang.

          Nghi thức cúng vong Triêu – Tịch

          Nghi thức này sẽ có 6 lễ sĩ hiến lễ, mặc áo lễ màu xanh đậm.

          Việc Tế Điện và 4 bái thài hiến lễ có sự quy định khác nhau tùy Phẩm Cấp của người chết. Lúc này, tất cả người thân quỳ trước bàn vong.

          Chức Sắc, Chức Việc, chư đồng đạo dự lễ cầu siêu đứng 2 bên bàn vong, phân ra 2 bên nam nữ, chấp tay bắt ấn Tý.

4.4. CẦU SIÊU TANG LỄ

          Sau lễ cầu siêu, Chức Sắc lớn Phẩm hơn người chết thì không lạy vong mà chỉ niệm hương cầu nguyện trước bàn vong. Rồi đến chư đồng đạo vào bái vong. Khi bái vong thì tay bắt ấn Tý, cầu nguyện cho vong linh rồi quỳ lại 3 lạy.

          Buổi tối tổ chức hòa nhạc trước bàn vong và luân phiên tụng kinh Di Lạc trước Thiên Bàn.

          + Nghi thức hành pháp độ hồn

          Nghi thức hành pháp độ hồn sẽ bao gồm các nghi lễ là phép xác – đoạn căn – độ thăng. Thông thường, gia đình sẽ thỉnh cầu 1 vị Chức Sắc Phẩm Giáo Hữu đến thực hiện cho người chết.

          + Phép xác

          Phép xác là tẩy rửa chơn thần người chết cho hết ô trược để nhẹ nhàng bay đến cõi linh thiêng.

          + Đoạn căn

          Đoạn căn là cắt đứt 7 dây oan nghiệp, không còn ràng buộc chơn thân người chết.

          + Độ thăng

          Độ thăng là đưa âm hồn người chết bay lên Cửu Trùng Thiên (9 tầng trời).

          Chi tiết về các nghi thức này sẽ được vị Chức Sắc Phẩm Giáo Hữu trở lên hướng dẫn.

          Cần lưu ý nếu người chết là Chức Sắc Phẩm Giáo Hữu trở lên thì việc hành pháp độ thăng được thực hiện tại Tòa Thánh.

          Trường hợp ở xa không có Chức Sắc hành pháp thì cả Chức việc Ban Trị Sự cùng với gia đình tang quyến, bưng khay vong đến cúng trước Thiên Bàn, cầu nguyện Đấng Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng ban ân và tha thứ tội tình cho người chết rồi trở lại bàn vong tụng kinh cầu siêu nối tiếp kinh khi đã chết rồi. Tụng 3 hiệp rồi niệm chú Thầy 3 lần, sau đó động quan đưa linh cữu ra thuyền Bát Nhã.

          4.5. LIÊN ĐÀI

          Từ Đầu sư - Thập nhị thời quân trở lên: Nhập Liên đài an nơi nhập Tháp, làm tại Hội Thánh. Khi Tẩn liệm thì tại Thiên Phong Đường, khi đọc kinh thì tại đại điện Tòa Thánh. Khi di hành đến nơi nhập Tháp phải di liên đài 3 vòng Tòa Thành và đảnh lễ trước Điện thờ Phật Mẫu.

          Chánh Phối sư 2 tàng - 2 lộng (Từ Chánh Phối sư trở xuống còn làm tuần cửu).

          Phối sư 1 tàng - 1 lộng

          - Lễ Động quan – Khiển điện

          Nghi lễ này sẽ có nhạc và lễ. Đầu tiên là thực hiện lễ khiển điện, lễ

xướng:

          Đạo gia tựu vị

          Nhơn quan giả bái quan

          Đạo giả nhập cữu

          Chấp sự giả triệt linh tọa

          Đạo giả cử cữu thăng xa phát hành

         

          4.6. LỄ AN TÁNG

          Gia chủ sẽ bưng khay vong đến trước Thiên Bàn xá 3 xá rồi đi theo Phướn Thượng Sanh, tiếp theo sau là linh cữu. Khi đưa ra tới đường lộ thì phải trật tự.

          - Đám tang của Giáo Hữu – Giáo Sư và Phẩm tương đương:

Gia chủ sẽ bưng khay vong đến trước Thiên Bàn xá 3 xá rồi đi theo Phướn Thượng Phẩm, tiếp theo sau là linh cữu. Khi đưa ra tới đường lộ thì phải trật tự.

          - Đám tang của Lễ Sanh và Phẩm tương đương:

Gia chủ sẽ bưng khay vong đến trước Thiên Bàn xá 3 xá rồi đi theo Phướn Thượng Sanh, tiếp theo sau là linh cữu. Khi đưa ra tới đường lộ thì phải trật tự.

-         Bảng Đại Đạo

-         Phướn Thượng Phẩm hay Thượng Sanh

          Đồng nhi tụng kinh đưa Linh Cữu, có đàn và tụng cho đến khi đến Huyệt mộ

          Bàn hương án có 1 lọng và 2 lễ sĩ theo hầu

          Vãng lụy và tràng hoa

          Thuyền Bát Nhã

          Dàn Nam

          Gia đình tang quyến

          Chức Sắc – Chức Việc – Đạo Hữu đưa tang

          - Đám tang của Chức Vị Ban Trị Sự và Đạo Hữu:

          Khay Vong

          Phướn Thượng Sanh

          Trật tự đưa đám giống như trên nhưng không có Bàn hương án và       Dàn Nam

          Điếu văn cảm tạ – Hạ huyệt

          Khi đến nghĩa trang, đặt hòm kê trên huyệt. Vị chủ lễ đến trước linh cữu, trải chiếu và bày mâm cúng Thần Hoàng Bổn Cảnh. Gia đình tang quyến quỳ lại cầu nguyện xin gửi thi hài người chết tại đây. Rồi lạy 3 lạy.

          Thân bằng quyến thuộc đọc điếu văn và lời cảm tạ (nếu có). Gia đình tang quyến quỳ trước đầu huyệt, tay bắt ấn Tý, đồng nhi bắt đầu tụng kinh Hạ huyệt – 3 lần, tiếp sau đó đọc vãng sanh thần chú 3 lần rồi lại niệm câu chú của Thầy 3 lần.

          Vị chủ lễ đúng ngang hòm, xá 3 xá rồi thu hồi tấm phủ quan giao cho đội đạo tỳ. Đội đạo tỳ bắt đầu tiến hành hạ hòm xuống huyệt.

          - Kết thúc tang lễ

          Sau khi thực hiện các nghi thức trên, tang lễ có thể được xem như đã kết thúc. Ngoài ra, còn một số nghi thức sau đám tang như sau:

          Tuần cửu 81 ngày

          Tiểu tường 200 ngày

          Đại tường 300 ngày xã tang

          Nghi Tiết Tang Lễ Hàng Thiên Thần

Nghi Tiết Tang Lễ Hàng Nhơn & Địa Thần

Bên cạnh đó còn có những trường hợp khác như sau:

          Tang Lễ Của Đạo Hữu Giữ Lục Trai

          Tang Lễ Bạt Tiến

          Trường hợp khác: Tự tử – Sét đánh – Nhi đồng

4. 7. LỄ XIN TỘI

CHO NGƯỜI LIỄU ĐẠO

(tại Thiên Bàn)

- KỆ CẦU NGUYỆN

                             Nay đệ tử đồng thành tâm khấu bái,

Đại Từ Phụ quảng đại từ bi;

Thương xót chúng sanh nơi miền khổ hải,

Hóa dục nhứt điểm huyền diệu.

Cứu an đệ tử (tên họ người chết……..)

Khi số mãn căn, xin cầu an thân phận.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH LÀM LỄ XIN TỘI

          Trên Ngọc Đế Chí Tôn xử đoán,

          Định niên phần ngày tháng mãn căn;

                    Phép công thưởng phạt đền bồi,

Trả cho xong tội dứt rồi trái oan.

          Ơn hóa dục linh thiêng chiếu giám,

          Đức Từ Bi tội giảm, phước tăng;

                    Ngày nay duyên số mãn căn,

Linh hồn theo chốn siêu thăng non bồng.

                    Cầu cho lánh khỏi trần hồng,

Nương theo cỏi Phật chín từng liên hoa.

(đọc 3 lần, 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- CHÚ CẦU LINH HỒN

Nam mô Bát Bộ Hộ Pháp tẩy trừ ngạ quỷ chi lộ.

Nam mô Thập Điện Từ Vương thường hành bình đẳng.

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát tiếp dẫn vong hồn tảo đắc siêu thăng, bất nhập địa phủ chi u quang.

Tận độ chúng sanh bất vãng u minh chi giải cảnh.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH CẦU LINH HỒN

                                      Nguyền Ngọc Đế Huyền Khung tế độ,

          Cầu Tây Phương Phật Tổ từ bi;

                    Đức ông Thái Thượng giải nguy,

Cứu người bệnh ngặt gặp khi tai nàn.

          Khỏi hành xác nhẹ nhàng thân thể,

          Lúc lâm chung mau dễ xuất thần;

                    Nương mây lìa chốn hồng trần,

Trở về cõi thọ hưởng phần tiêu diêu.

          Vọng Địa Tạng độ siêu đọa lạc,

          Cầu Âm Tào Đông Nhạc giảm hình;

                    Giác linh tỉnh ngộ tiền trình,

Bớt cơn mê muội, giật mình trở trăn.

          Mong Tam Giáo bủa giăng âm đức,

          Trợ vong hồn thêm sức thiêng liêng;

                    Tỉnh lòng nhớ Phật, tưởng Tiên,

Lánh nơi khổ hải tìm miền Thiên Thai.

          Kìa trước mắt Kim Đài cửa Phật,

          Rước những người thành thật, thiện lương;

                    Phước Thần cầm phướn dẫn đường,

Khá mau theo dõi Tây Phương kịp giờ.

(cắm phía trên đầu tử thi 1 cây đèn cầy rồi đọc bài)

- KINH ĐƯA LINH HỒN (Số 1) [1]

Linh quang lìa khỏi chốn trần gian,

Cúi lạy Di Đà Phật cứu nàn.

Tiến dẫn linh hồn về tịnh độ,

Dắt dìu phách uế lại Tây Phang.

Độ người ám muội xa âm cảnh,

Rước kẻ nhơn từ đến Niết Bàn.

Bốn tám nguyền xưa ân đức cả,

Hộ trì u hiển đặng thân an./.

- KINH ĐƯA LINH HỒN (Số 2)

          Lòng thành kỉnh môn sanh khấu bái,

          Nhờ Ơn Trên hà hải độ nàn;

                    Nam mô Thượng Đế Ngọc Hoàng,

Nam mô Phật Tổ Tây Phang chứng lòng.

          Mong Thái Thượng Đức Ông độ dẫn,

          Cầu Kim Tinh đoái phận ngu phàm;

                    Nam mô Nam Hải Quan Âm,

Từ bi cứu khổ ân thâm muôn đời.

          Quan Thánh Đế lắm lời khuyến dạy,

          Khuyên làm lành nhơn ngãi vẹn tròn;

                    Nam mô chư Phật, chư Tôn,

Cứu người trần khổ, đang cơn mê mờ.

          Nguyện xác khỏi hành hà khổ cực,

          Cầu lâm chung hồn xuất dễ dàng;

                    Từ đây lìa khỏi trần gian,

Nương mây theo gió nhẹ nhàng phi thăng.

          Mãn kiếp đọa trầm luân khổ hải,

          Nơi ngôi xưa trở lại tiêu diêu;

                    Mong ơn Địa Tạng độ siêu,

Âm Tào Đông Nhạc giảm tiêu tội hình.

          Kìa Bạch Ngọc rộng thinh cửa mở,

          Chờ rước người sạch nợ luân hồi;

                    Cầu xin hồn đặng nhẹ khơi,

Phướn thần theo dõi đến nơi Phật đường.

(Vị chứng đàn tay bưng chén nước, tay cầm bông nhún vào chén nước và rãy vào thây người gần dứt hơi miệng đọc chú).

- CHÚ TẨY TRẦN THI   [2]

( lúc gần dứt hơi)

Thử thời tịnh tẩy trần ai (giữa)

Phước lộc hựu trùng lai   (trái)

Hồn du Tiên cảnh           (phải)

Thế tục bất quày

Trực vãng Thiên Thai

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

Tiếp dẫn Phật Đài, tiêu diêu khoái lạc

Tận khử trần ai

Tảo đắc siêu thăng tịnh độ

Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát

Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.

- KINH TẨY TRẦN THI [3]

( Khi tuyệt khí)

        Trái oan nay đã an bài,

Linh hồn nương chốn Phật Đài lo tu.

        Cũng nhờ một lúc công phu,

Nay về ở chốn non du hưởng nhàn.

        Hồn ra xác tục hân hoan,

Nương theo câu kệ, tầm đàng Phật bang.

        Lưỡng biên Thổ Địa Thành Hoàng,

Khử tà trục quỉ dẹp đàng cho qua.

        Tới lui đôi bực Tỳ Bà,

Nhớ chừng Tiên cảnh là nhà thuở xưa.

        Trầm luân cuộc thế khuyên chừa,

Huỳnh Định tụng niệm, Phật đưa trở về.

        Tường Vân bạch hạc giao kề,

Sơn đầu, Tòng Bá cỏ huê đượm nhuần.

        Tràng Phang, Bảo Cái tay nưng,

Tây Phương nương gió, trông trừng ruỗi dung.

        Có câu: Thiện nguyện, Thiên tùng,

Trầm luân lánh khỏi, thung dung Phật Đài.

  1. LỄ SƠ CHUNG THÔNG SỰ
    1. LỄ CÁO TỪ TỔ

(Lễ này trước bàn Thầy)

- LỜI CẦU NGUYỆN

          Hôm nay, ngày…tháng…năm…tại gia đình nầy vị……..vừa từ trần vào lúc……giờ. Đệ tử chức việc………nam nữ vâng lệnh Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và Hội Thánh hướng dẫn lễ, nhạc, đồng nhi đến làm lễ cúng tế cầu siêu.

          Khẩn nguyện Ơn trên Đức Đại Từ Phụ, Đức Đại Từ Mẫu, các Đấng Thiêng Liêng, Địa Tạng Vương Bồ Tát, (Thất Nương Diêu trì Cung. Nếu người chết là phái nữ) cứu hộ vong hồn vị được siêu thăng tịnh độ.

- KINH NIỆM HƯƠNG [4]

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ⁽ [5] ⁾……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

-Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

SỚ SƠ CHUNG THÔNG SỰ

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

SỚ VI

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.[6]

Kim hửu đệ tử thọ Thiên ân ………………. hiệp giữ chư tín đồ nam nữ đại tiểu đẳng. Đoái lãnh hiếu quyến [7] ………………….quỳ tại Thiên Bàn thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Đại Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Tá Châu Quảng Pháp Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Đông Nhạc Đế Quân Khoan Hồng Độ Chúng Thiên Tôn.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát Từ Bi Độ Chúng Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

TỊNH THỈNH

Chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần Kim liên tọa hạ.

Khẩn cầu Từ bi thi ân xá tội vong hồn thọ Thiên ân:……… ……… Thế danh:……………… Tử ư ……… niên …… ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng   ……….tuế.

Sanh tại tự sanh dĩ lai, sanh tử luân hồi tạo tội thậm trọng, duyên ngộ Đại Đại Tam Kỳ Phổ Độ. Đầu nhập thọ trì quy giái vi năng tinh nghiêm, công quả dĩ lập, bất hạnh ư niên …… ngoạt …… nhựt …… thời khí thế liễu đạo, tội quá đa đoan, thiệt nan phóng cử, thử nhật vận vong, phòng nguy chi hửu trở, nghiêm thiết trai đàn văn tuyên trình tấu.

Đại Từ Phụ quảng đại từ bi ân xá nhứt thiết tội nghiệt khẩn cầu nhứt linh chơn tánh, thị xuất khổ hải, âm lý gia tu, không trung cảm ứng phò trì đại đạo, duyên mãn đồng phó. Thăng hướng cực lạc, chi quốc vĩnh chứng, Bồ đề đạo quả.

Hiếu quyến (tên họ chủ tang………………………..….….) thành tâm khẩn cầu, Ai tấu. Bá bái,

Thượng sớ.

- KINH SƠ CHUNG THÔNG SỰ

                                       Sơ chung sự quỳ tâu trước bệ,

          Vọng Huyền Khung Thượng Đế giác tri;

                    Tên …… dĩ thác trần thi,

Ngưỡng cầu Thượng Đế từ bi độ hồn.

          Người sống có dập dồn tội lỗi,

          Đã ăn năn sám hối hồi đầu;

                    Tam Kỳ Thầy mở Đạo mầu,

Sắp mình vào cửa thỉnh cầu kệ kinh.

          Cầu ân đức rộng thinh bủa khắp,

          Đại từ bi khỏa lấp tội tình;

                    Độ hồn sửa tánh anh linh,

Về miền cực lạc kệ kinh hưởng nhàn.

          Mong Tam Giáo độ nàn cứu thế,

          Chứng môn sanh bài lễ khẩn cầu;

                    Điện tiền quỳ bái khải tâu,

Cho hồn đắc quả chực chầu Linh Tiêu.

          Hồn nhờ đặng tiêu diêu tự toại,

          Khỏi lộn quanh khổ hải trần gian;

                    Bồng Lai Tiên Cảnh ở an,

Bồ đề diệu quả Niết Bàn tu thân./.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

4. 12. LỄ PHẠT MỘC

(Lấy cái rìu hay cái búa, bịch vải hay giấy đỏ nơi lưỡi và một khai trầu rượu để trước đầu hòm vái Sơn Lâm. Khi đọc mỗi câu chú váy một cái).

- CHÚ PHẠT MỘC

Án mộc lang viễn khứ tha phương.

Nhứt trảm mộc, mộc qui sơn hải.

Nhì trảm mộc, viễn khứ tha phương.

Tam trảm mộc, tang chủ an khương.

Trai chủ phước lộc vô cương.

(rồi liệng cái rìu ra ngoài sân)

4. 13. LỄ TẨN LIỆM

(Vị chứng sự đứng ngay đầu người chết cầm 3 cây nhang rồi đọc bài chú Nhập Mạch)

- CHÚ NHẬP MẠCH

          Bế trứ phàm nhãn không sắc tướng,

Phóng xuất huê quang lưỡng đường đường.

Thân sự phù sanh vô thính sự,

Cáo bộ côn lôn đảnh thượng hành.

Huyền tỏa thiết pháp kinh Thiên Địa,

Hồng danh bửu diệu xuất trùng dương.

Thoát xác hồn nhiên vô ma chướng,

Minh tâm kiến tánh phóng kim quang.

Thử chiếm thái vô phục nguơn thủy,

Túc đạp liên hoa kiến tổ nương.

- CHÚ PHỔ AM

Thiên giả khai, địa giải khai,

Lão Mẫu phát hạ, Phổ Am hạ thế lai.

Phổ Am tam tổ chưởng,

Phát nguyện thiên nhiên chư Phật.

Tùy hậu lai, nhị thập tứ khí,

Án Thiên Địa, Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu.

Trấn Càn Khôn; Thiên vô kỵ,

Địa vô kỵ, Âm Dương vô kỵ.

Bá vô cấm kỵ,

Phổ Am Tam đồ tại thử, chư sát viễn tỵ.


                    - CHÚ

Nhứt điểm càn khôn đại,

Hoành trung nhựt nguyệt trường.

Phổ am thấu đáo thử,

Thần sát vãng tha phương.

- LỜI CẦU NGUYỆN

(trước khi đọc kinh tẩn liệm)

Hôm nay đến ngày giờ khâm liệm đem xác của (hiền huynh) (hiền tỷ) vào quan tài cho ấm áp.

Chúng tôi cầu nguyện Ơn Trên Đức Đại Từ Phụ, Đức Đại Từ Mẫu các Đấng Thiêng Liêng ban ơn lành cho (hiền huynh) (hiền tỷ) được siêu thăng tịnh độ, hồn xuất xác khỏi xác nhẹ nhàng linh diệu.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

         - KINH TẨN LIỆM (bài 1)

                                      Thân phàm xác đến kỳ hư hoại,

          Hồn linh thiêng trở lại Ngọc Kinh;

                    Nhẹ nhàng Tiên thể thượng trình,

Giải xong xác thịt, tượng hình Chí Tôn.

          Tạo linh đài bảo tồn xương cốt,

          Dựng tinh thần làm hột Minh Châu;

                    Sáng soi hai chữ Đạo mầu,

Nhờ công tu niệm luyện câu phép lành.

          Nay xác này đã thành vô dụng,

          Vào Liên Đài cung phụng lễ dưng;

                    Hồn về Bạch Ngọc vui mừng,

Lâu lâu trở lại, nhắc chừng đoàn em.

- KINH TẨN LIỆM (bài 2) [8]

          Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ,

          Nương huyền linh sạch giủ thất tình;

                    Càn Khôn bước Thánh thượng trình,

Giải xong xác thịt mượn hình Chí Tôn.

          Khối vật chất vô hồn viết tử.

          Đất biến hình tự thử qui căn;

                    Đứng gìn thân ái nghĩa nhân,

Xôn xao thoát khổ, xa lần bến mê.

          Hồn Trời hóa, trở về Tiên cảnh,

          Xác Đất sanh, đến lịnh phục hồi;

                    Từ từ cực lạc an vui,

                             Lánh nơi trược khí, hưởng mùi siêu thăng.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- LỜI CẦU NGUYỆN THỈNH PHỦ QUAN

ĐẤP LÊN QUAN TÀI

Hôm nay đến giờ đấp tấm phủ quan lên quan tài của vị……………………đệ tử khẩn nguyện Ơn Trên Đức Đại Từ Phụ, Đức Đại Từ Mẫu ban phép lành cho tấm phủ quan đầy đủ pháp linh nhờ huyền diệu của Đức Chí Tôn giữ gìn con cái của Thầy cho đến khi đi an táng nơi lòng đất mẹ.

Và cầu nguyện Đức Đại Từ Phụ ban ơn lành cho phướn linh để dìu dắt linh hồn của vị……………………………Đến nơi an ngự cho tròn quả viên.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )\

4. 14. LỄ THÀNH PHỤC

(Đạo hữu và Chủ tang quỳ tại Thiên bàn, vị chứng sự cầm 5 cây hương rồi nguyện như vầy.)

- LỜI LẬP NGUYỆN THÀNH PHỤC

Nam mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Kiêm Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, chứng minh cho gia quyến của (chủ tang………) cư tang thọ chế, dĩ báo thâm ân.

- KINH NIỆM HƯƠNG [9]

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ⁽ [10] ⁾……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- SỚ THÀNH PHỤC

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.[11]

Kiêm vỉ tang sự đạo hữu (tên họ ……) khí thế liễu đạo, kiêm hữu hiếu quyến đại tiểu đẳng [12] ……………. nghiêm thiết đàng tràng hương, đăng, trà, tửu, hoa, quả chi nghi. Hiến cúng thọ phục chi lễ.

Kiêm hữu đệ tử Thiên phong Chức sắc …….… hiệp giữ nội gia quỳ tại án tiền thân văn trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Lực Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Gia Tô Giáo Chủ Khoan Hồng Ngoại Độ Từ Bi Cứu Thế Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Tá Châu Quảng Pháp Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Đông Nhạc Đế Quân Khoan Hồng Độ Chúng Thiên Tôn

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát Từ Bi Độ Chúng Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

TỊNH THỈNH

Chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần quá khứ hiện tại chứng vị Thiên Tôn liên đài chi hạ. Chứng minh hiếu quyến hiệp đẳng. Khẩn cầu từ bi bạt độ

vong hồn thọ Thiên ân: [13]….… Thế danh: [14]….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng [15] …….tuế.

Ngưỡng cầu tiếp độ vong hồn siêu xuất khổ hải miễn nhập luân hồi vĩnh hưởng tiêu diêu thắng cảnh, Thiên cung chi phước, hiếu quyến đồng đẳng thọ phục tang, thành tâm khấu bái

Thượng sớ vĩ văn.

Tâm niệm:

-Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(3 lạy, mỗi lạy 4 gật)

THỌ TANG

(Bưng mâm tang phục để ngay bàn thờ ông bà).

Xướng:

Hiếu tử tựu vụ, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương.

Xướng:

-Thượng hương, lê tứ bái, quỳ, hiến tửu.

*Lời cầu nguyện cúng cáo Từ Tổ thọ tang:

Hôm nay, ngày … tháng…năm (cha) (mẹ) của chúng con đã quy vị, chúng con xin dâng lễ vật cúng trình lên Cửu Huyền Thất Tổ cho phép chúng con được thọ tang báo hiếu cho (cha) (mẹ). ……………..Cầu xin Cửu Huyền Thất Tổ ban ân lành cho chúng con để làm tròn câu hiếu đạo.

- KINH CÁO TỪ TỔ THỌ TANG

                                      Đầu cúi lạy Tiên linh chứng chiếu,

          Cho cháu con đoái hiếu cư tang;

                    Tưởng tình cốt nhục khóc than,

Noi theo cổ lễ thọ tang đền bồi.

          Ơn dưỡng dục tam niên nhũ bộ,

          Công nhọc nhằn chín tháng cưu mang;

                    Tửu trà văn cáo nghiêm trang,

Ông bà, cô bác chứng an lễ trình.

                    Thảo ngay cho vẹn phân minh,

Đạo làm con thảo đáp tình cù lao.

                    Tấm lòng hiếu tử đừng xao,

Sắt son để dạ không nao nhọc nhành.

                    Hương hoa kỉnh cáo lòng thành,

Ông bà chứng chiếu lễ thành thọ tang.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- BÀI CÚNG TỪ TỔ [16]

Nhơn sanh Thiên số chi kỳ,

Người sau kể trước đồng quy một đàng.

Mãn căn trở lại Tây Phang,

Tiêu diêu khoái lạc tránh đàng mê tân.

Hôm nay (tên họ) ………. quy Thần,

Là ngày rảnh nợ hồng trần vu Tiên.

Cúi xin Thất Tổ Cửu Huyền,

Thương lòng con thảo cháu hiền thọ tang.

Quả huê điện hiến linh sàng,

Tiên linh chiếu cố tọa bàn chứng minh.

Lễ xin đái hiếu cung trình,

Có linh xin hưỡng chút tình thảo thân.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

(Rồi bưng mâm tang phục để ngay linh cửu).

- LỜI CẦU NGUYỆN ĐẤT ĐAI VIÊN TRẠCH (trước khi làm lễ phát tang tại ngay linh cửu)

Hôm nay đến ngày giờ khâm liệm đem xác của (hiền huynh) (hiền tỷ) vào quan tài cho ấm áp.

Chúng tôi cầu nguyện Ơn Trên Đức Đại Từ Phụ, Đức Đại Từ Mẫu các Đấng Thiêng Liêng ban ơn lành cho (hiền huynh) (hiền tỷ) được siêu thăng tịnh độ, hồn xuất xác khỏi xác nhẹ nhàng linh diệu.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

PHÁT TANG

Xướng:

Tử Tôn tự vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG [17]

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ.

- KINH THÀNH PHỤC PHÁT TANG [18]

Noi theo văn lễ hiến dưng,

Lòng thành rượu rót ba tuần mời khuyên.

Giờ nay cởi hạc du Tiên,

Gia đàng quyến thuộc lòng thiền quái tang.

Âm dương phân cách đôi đàng,

Kẻ còn người mất muôn ngàn lụy rơi.

Trăm năm trong cuộc đổi dời,

Thiều quang vội dứt người đời khôn toan.

Khó phân trong máy hành tàng,

Bơ vơ chích nhạn rẽ hàng kêu sương.

Từ đây Thiên các nhứt phương,

Âm dương vị lộ hai đường khó trông.

Linh hồn nguyện đến non bồng,

Tiêu diêu khoái lạc thoát vòng trần ai.

Tử sanh cổ vãng kim lai,

Dương gian là cảnh Tiên đài là quê.

Mãn căn đúng số lộn về,

Trả vay rảnh nợ an bề tầm Tiên.

Lễ nghi kỉnh bái án tiền,

Chứng minh gia quyến lòng thiền thọ tang.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU (bài 1)

Rượu tuần nhứt châm đầy dưng trước,

Nguyên hương hồn ẩm phước cho vui.

Xin chứng lòng con thảo ngậm ngùi,

Đau dạ trẻ sụt sùi giọt lụy.

Đơn sơ lễ trọn niềm chung thủy

Sự mất còn thờ ví cũng đồng

Ba năm tang hiếu vẹn xong

Chúc cầu (từ mẫu, thân phụ..) non bồng tiêu diêu.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU (bài 2)

Rượu nhị tuần rót đày dâng tiếp,

Con rễ dâu đồng hiệp lạy quỳ.

Ơn sanh thành, ơn ví cao dày,

Nghĩa dưỡng dục nghĩa tài lớn rộng.

Kìa chín chữ cù lao lồng lộng,

Nọ mười ơn dưỡng dục minh minh.

Biết chi bồi đắp vong linh,

Tạm dùng lễ bạc chứng tình thảo ngay.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU (bài 3)

Rượu nầy lễ ba tuần xin rót,

Cúi lạy quì đôi giọt dầm sa.

Phế tâm bào, gan ruột xót xa,

Đoạn cốt nhục chia ra hai ngả.

Dạy gia quyến thượng hòa hạ lục,

Lễ mọn nầy nhứt nhứt sánh sô,

Chúc cầu khỏi chốn phong đô,

Được lên cỏi Phật để hầu nghe kinh./,

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, tấn phạn, kiểm soạn.

- KINH TẤN PHẠN

Lễ tấn phạn chứng lòng ngay thảo,

Dưới gối dưng trọn đạo làm con.

Công sanh thành báo bổ cho tròn,

Tình cốt nhục nước non khó sánh.

Nay (cha, mẹ….) đã cõi trần xa lánh,

Nơi gia đàng hiu quạnh sớm khuya.

Vô thường sau vội chia lìa,

Làm cho người thiện phải về đế hương.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà.

- KINH DÂNG TRÀ

Trà Bạch Liên hơi lên thơm nức,

Xin tạm dùng lễ tất vừa xong.

Nguyện linh hồn phát hóa non bồng,

Nương cõi Phật, tu công lập quả.

Miền Tiên cảnh thật là phong nhã,

Bước từng mây thông thả sớm trưa.

Phật Tiên là chổ thích ưa,

Lánh miền phàm tục gió mưa bụi trần.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, ngũ phục chi nhơn các phục kỳ phục.

- CHÚ NGUYỆN

Nam mô Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Vạn Thiên Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.

Lời dặn: Sắm một tô nước, 1 cái bông và 1 cây kéo, đọc tới cầu nhứt tiễn thì hớt trên đầu tang chủ một cái và nhúng bông vào nước rải một cái.

- CHÚ PHÁT TANG

Sắc thần thủy cấm linh đinh,

Cường giác ngưu tinh hiệp vị khí,

Phân minh thọ kỳ tang phục,

Nhứt tiễn phát thọ kỳ tang phuc,

Chư hung thần tống khứ tha phương.

Nhì tiễn phát thọ kỳ tang phuc,

Vong hồn siêu thăng tịnh độ.

Tam tiễn phát thọ kỳ tang phuc,

Trai chủ thiên thu thọ vạn vạn tuế.

Xướng:

-Lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

ĐIẾU TANG

       (Lễ nầy nơi bàn Thầy)

- KINH NIỆM HƯƠNG [19]

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ⁽ [20] ⁾……..thời niệm hương.

- KINH CẦU SIÊU

Nay đệ tử lòng thành khấu bái,

Vọng Hoàng Thiên quảng đại từ bi.

Ân đức oai thâm diệu huyền vi,

Chúa nhơn vật chiếu tri tam giái.

***

Trên bố đức bốn phương khắp rãi,

Dưới muôn loài quỳ lại ngưỡng trông.

Thức lòng phàm đặng rõ phép công,

Đường sanh tử việc đồng hữu mạng.

***

Cuộc huyển thể đến hồi khổ nạn,

Đấng Thượng Khung xử đoán phân minh.

Vớt vong linh nơi chốn u minh,

Tiếp duyên phước đăng trình cõi thọ.

***

Cho gặp gỡ lục thân thuở nọ,

Quyến luyến tình, chẳng bỏ lòng thương.

Nhờ Ơn Trên giúp kẻ trần dương,

Mau thức tỉnh ăn năn lỗi trước.

***

Thuyền Bát Nhã kỳ ba độ rước,

Tưởng Phật Trời lần bước hồi đầu.

Nhờ ơn lành giải hoá tâm sầu,

Đặng sớm biết đảo cầu Trời Phật.

***

Lòng lương thiện noi đường chánh thật,

Khỏi vương mang bệnh tật vào mình.

Mong từ bi quảng đại hiển linh,

Độ kẻ mới tách mình lìa xác.

***

Nương yến sáng hào quang thông đạt,

Soi tỏ tường lờ lạt âm ty.

Thoát khỏi nơi hầm tối hiểm nguy,

Tùng, Tiên, Phật thung dung khoái lạc.

***

Dạ thành kỉnh Thần Minh chiếu tạc

Hộ thân tâm an lạc hòa bình.

(Lễ nầy nơi Linh cửu)

- KỆ ĐIẾU TANG

                             Nay đệ tử thúc tu lễ điếu,

Cầu đạo (huynh, tỷ….) thoát xác phi đằng.

Vong hồn trong sạch đặng siêu thăng,

Vĩnh hưởng tiêu diêu nơi thắng cảnh.

- KINH ĐIẾU TANG (bài 1) [21]

          Nợ trần thế ngày nay đã rảnh,

          Nương mây lành lên cảnh Thiên Thai;

                    Là nơi hưởng lộc lâu dài,

Lánh vòng thế tục sắc tài ái ân.

          Công phu khuya sớm ân cần,

Hồn linh mới đặng về gần non Tiên.

          Khi xưa gặp đặng chơn truyền,

Nay về chầu trực Phật tiền khỏe thân.

          Giờ này Đạo hữu quy Thần,

Anh em bậu bạn bội phần mừng thương.

          Mừng là thấy cõi Tây Phương,

Thương là đương lúc giữa đường rẽ phân.

          Tuy rằng chẳng phải đồng thân,

Cùng nhau đồng đạo nghĩa nhân mặn nồng.

          Tử sanh do tại Thiên công,

Những ngày vắng mặt bận lòng nhớ thương.

          Tạm dùng lễ mọn rau tương,

Thô trà đạm bạc lòng thương chứng cùng.

          Giữ bền hai chữ thủy chung,

Ngày sau Tiên cảnh trùng phùng đệ huynh.

- KINH ĐIẾU TANG (bài 2) [22]

Nương cõi thọ hương hồn lìa thế,

Trước linh sàn phách quế hãy còn.

Nơi dạ đày chứng kiến lòng son,

Cõi trần thế bà con thân tiếc.

***

Xa nhau bởi xác phàm phân biệt,

Nghĩa cuộc đời tan hiệp thảm thay.

Nay từ trần hồn phách nương mây,

Khỏi ràng buộc muôn cay ngàn đắng.

***

Người trở gót cung Tiên dậm thẳng,

Hết vương mang gánh nặng nợ trần.

Cách dương gian lìa cõi hương lân,

Nơi vị lộ dựa gần Tiên cảnh.

***

Đặng thong thả dạo chơi non đãnh.

Mắt nhắm xem tranh cạnh dưới đời.

Ấy là nơi biển khổ chơi vơi,

Người ở thế lỡ vời nẽo tối.

***

Linh hồn đặng thảnh thơi tiêu rỗi,

Kẻ sống đang lặn lội bụi trần.

Cũng vì còn mang khối nhục thân,

Dường như thể trăm cân sức nặng.

***

Miền tiên cảnh vong hồn bay thẳng,

Dứt sự đời dạ chẳng mến tranh.

Cuộc sang giàu giả dối lợi danh,

Người phàm tục chen giành rộn rực.

***

Chốn âm cảnh xa nhau cách bứt,

Sống dương gian càng cực với đời.

Một may dầu phủi sạch thảnh thơi,

Hiệp một chỗ gặp nơi khoái lạc.

***

Tâm quảng đại tầm Tiên cởi hạc,

Xá lỗi người lầm lạc khi xưa.

Vọng anh linh độ kẻ mến ưa

Lòng thành kỉnh muối dưa xin chứng.

(Nếu người lớn tuổi thì đạo hữu lạy 4 lạy, 2 lạy Thiên và Địa, 2 lạy vong linh. Chức sắc và Thiên phong khỏi lạy).

  1. CÚNG ÔNG BÀ
  2. THIẾT ĐÀN

Xướng:

Từ tôn tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương.

Xướng:

Thượng hương, lễ tứ bái, quỳ.

- KINH CÚNG TIÊN LINH

Nay con cháu đền ơn sanh dục,

(Triêu, tịch[23]) điện dưng kỉnh chúc chay tu.

Cù lao ân đức nan thù,

Lễ dưng tổ phẩm điện du linh tòa.

Đồng kỉnh cáo ông bà, cô bác,

Chứng chút tình đạm bạc thô sơ.

Trăm năm giữ việc phượng thờ,

Ngày đêm hương lửa chớ lơ lảng lòng.

Cuộc trần thế tròn xong mạc trắc,

Lễ hiển u, nam bắc phân kỳ.

Tuy rằng hai ngã biệt ly,

Chơn linh sau cũng hội kỳ Linh Tiêu.

Tu công đức kỳ siêu Thất Tổ,

Cầu Từ Bi tế độ Cửu Huyền.

Người mà thiện quả thiện duyên,

Muôn năm dựa cảnh Phật Tiên hưởng nhàn.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

Xướng:

Tang chủ tựu vị, quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG [24]

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ

          - KINH CÚNG VONG (Bài 1)

          Tưởng ơn xưa sánh tài non nước,

          Tủi lòng nầy lụy ước y khâm;

                    Đạo làm hiếu tử tình thâm.

Sớm thăm tối viếng ngọc âm cho mừng.

          Công cao dưỡng dục khuyết trừng,

          Dạy con vẹn giữ ngũ thường, tam cang.

                    Nhớ khi ngồi đứng trung đàng,

Nay về cõi thọ gan vàng quặn đau.

          Âm dương lưỡng lộ chia nhau,

          Chúc nguyền đặng hưởng thanh cao an nhàn.

                    Tửu trà hoa quả bỉ bàn,

Lễ dưng (Thân Phụ, Từ Mẫu…) đoan trang nghiêm nghì.

                    Đạo nhơn sắp đặt lễ nghi,

Cầu hồn phát hóa du quy Thiên đàng.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU(1)

Rượu tuần nhứt châm đầy dưng trước,

Nguyên hương hồn ẩm phước cho vui.

Xin chứng lòng con thảo ngậm ngùi,

Đau dạ trẻ sụt sùi giọt lụy.

Đơn sơ lễ trọn niềm chung thủy

Sự mất còn thơ ví cũng đồng

Ba năm tang hiếu vẹn xong

Chúc cầu (từ mẫu, thân phụ) non bồng tiêu diêu.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

- KINH CÚNG VONG (bài 2)

Nay tang chủ trai đàn cung phụng,

Thỉnh đạo nhơn tùy tụng hiền ngôn.

Hể làm người phải kính sở tôn,

Ơn cúc dục ôn tồn trọn Đạo.

Nguyện Trời Đất chứng tri môn đạo,

Hộ hương hồn thủ bảo cháu con.

Nghĩa sanh thành ví tợ nước non,

Tình (Phụ tử, Mẫu tử…) cho tròn đạo cả.

Nay phân nhau âm dương hai ngã,

Thảm thương này nào thỏa ruột đau.

Cõi dương trần lời hẹn với nhau,

Vì ai khiến mà mau vội tách.

Dây oan trái dứt rồi trả sạch,

Phủi nợ trần hồn phách theo Tiên,

Giữ Đạo mầu nhờ đức Thiêng Liêng,

Nhờ Địa Tạng tự nhiên tế bạc.

Lòng thành kỉnh ba tuần rượu lạt,

Lễ đáp dưng đạm bạc muối dưa.

Nay ơn đền báo bổ tình xưa,

Đầu cúi lạy như mưa dầm ướt.

Nghĩa (sanh thành..) sánh tài non nước,

Tình (Phụ tử, Mẫu tử) những ước trăm năm.

Hởi hóa công tôi dám hỏi thăm,

Vì sao vậy, tích tâm vắng bặt.

Ân ái nguyên, trọn tình đinh sắt,

Chia đôi đàng như cắt lá gan.

Xin hương hồn dặm thẳng cho an,

Nương cõi thọ sửa sang tu luyện.

Xướng:

`Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU(2)

Rượu nhị tuần rót đầy dưng tiếp,

Con rễ dâu đồng hiệp lại quỳ.

Ơn sanh thành, ơn ví cao dày,

Nghĩa dưỡng dục nghĩa tài rất lớn.

Kìa chín chữ cù lao lồng lộng,

Nọ mười ơn dưỡng dục minh minh.

Biết chi bồi đắp vong linh,

Tạm dùng lễ bạc chứng tình thảo ngay./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

KINH CÚNG VONG (bài 3) [25]

          Nơi biển khổ tưng bừng sóng bủa,

          Chốn kỳ duyên mây tủa mịt mù;

                    Người đời mấy bực danh nhu,

Vô thường đến lúc công phu lỡ vời.

          Đường tử biệt ngàn năm khó đợi,

          Nguyện linh hồn trở lại non Tiên;

                    Nhìn xem linh cửu thêm phiền,

Thương người mạng bạc huỳnh tuyền vội lui.

          Cuộc sống thác nghĩ càng thêm tủi,

          Nẻo mất còn chạnh buổi phù sanh;

                    Khó đo máy tạo dữ lành,

Âm dương cách biệt khôn đành lấp ngơ.

          Nhớ linh xưa tánh tình ăn ở,

          Dưới trên hòa tôi tớ đồng thương.

                    Hiền lành ngợi khắp thôn lương,

Dưới dìu kẻ khó trên nhường người cao.

          Lúc ở thế xử tròn nhơn đạo,

          Nay từ trần thiện bảo cựu ngôi;

                    Thương ôi! Nước chảy hoa trôi,

Sao dời vật đổi mấy hồi tang thương.

          Người ở thế như cơn sống lượng,

          Kẻ lâm trần mường tượng ngút sương;

                    Kể sao cho xiết đoạn trường,

Ngựa qua cửa sổ hai đường biệt ly.

          Thảm thiết than, than rồi lại nghĩ,

          Giấc mộng hồn cũng tỷ vân phi;

                    Có câu thố tử hồ bi,

Vật còn thương loại huống gì người yêu.

          Khuyên đoái tưởng …… hiền con hiếu,

          Lễ tiễn hành đa thiểu xin thương;

                    Tạm dùng dưa muối rau tương,

Trà thô rượu lạt lòng thương chứng cùng.

          Lần tay tính ngày qua tháng lụng,

          Ôi thôi rồi! một cụm khói chang;

          Nổi vắng mặt khó làm khuây lãng,

          Biết cậy ai phân đoán hỏi han;

                    Hôm nay hội diện thân bằng,

E mai linh cửu lên đường hết trông.

                    Tử sanh nhơn nghĩa việc đồng,

Hồn linh thăm viếng dặn lòng chớ quên./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DÂNG RƯỢU(3)

Rượu nầy lễ ba tuần xin rót,

Cúi lạy quì đôi giọt dầm sa.

Phế tâm bào, gan ruột xót xa,

Đoạn cốt nhục chia ra hai ngả.

Dạy gia quyến thượng hòa hạ lục,

Lễ mọn nầy nhứt nhứt sánh sô,

Chúc cầu khỏi chốn phong đô,

Được lên cỏi Phật để hầu nghe kinh.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, tấn phạn, kiểm soạn.

KINH TẤN PHẠN

Lễ tấn phạn chứng lòng ngay thảo,

Dưới gối dưng trọn đạo làm con.

Công sanh thành báo bổ cho tròn,

Tình cốt nhục nước non khó sánh.

Nay (cha, mẹ….) đã cõi trần xa lánh,

Nơi gia đàng hiu quạnh sớm khuya.

Vô thường sau vội chia lìa,

Làm cho người thiện phải về đế hương.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà.

KINH DÂNG TRÀ

Trà Bạch Liên hơi lên thơm nức,

Xin tạm dùng lễ tất vừa xong.

Nguyện linh hồn phát hóa non bồng,

Nương cõi Phật, tu công lập quả.

Miền Tiên cảnh thật là phong nhã,

Bước từng mây thông thả sớm trưa.

Phật Tiên là chổ thích ưa,

Lánh miền phàm tục gió mưa bụi trần.

Xướng:

Lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

TỤNG KINH

KINH NIỆM HƯƠNG [26]

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ⁽ [27] ⁾……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

KINH THỈNH PHẬT THÁNH TIÊN [28]

Trên Phât Tổ từ bi chiếu giám,

Dưới Thần Tiên linh cảm chứng tri.

Ngày nay mở cuộc siêu kỳ,

Cầu cho (tên họ……...) hồn phi Thiên đàng.

Nguyện cùng Phật Tổ tây phang,

Quan Âm BồTát tràng phan giáng liền.

Cúi xin Hộ Pháp Luôn Thiên,

Đằng vân giá võ xuống miền trần gian.

Từ bi ủng hộ trai đàn,

Giúp cho tang chủ bảo toàn hiếu trung.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

KỆ KHAI CHUNG

Chung thinh đổng khấu u minh quang,

Tỉnh ngộ nhơn sanh hiệp nhứt đàng.

Sám hối hồi đầu qui chánh giáo,

Cao Đài Chúa Tể độ hồng khoan.

(Mỗi câu đọc xong đánh 3 tiếng, 4 câu là 12 tiếng).

KỆ KHAI MỎ

Nam mô án mộc ngư, tẩy trừ ngạ quỉ bất đáo điện trung. Đệ thanh mộc đáo hồi cung thượng.

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

(Niệm danh Thầy 3 lần, mỗi lần đọc xong đánh 3 tiếng, 3 lần niệm là 9 tiếng).

SỚ KHAI KINH

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

SỚ DĨ

Tiên thánh lợi sanh, tam thừa ái khải, chánh hội pháp dương, độ tử vi bằng, nhứt trụ tâm lương.

PHỤC DĨ

Đông phương Giáo chủ hoằng khai giải thoát chi môn. Tây trước đạo sư tiếp dẫn vong hồn vãng sanh chi lộ.

TRÌNH TẤU

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

SỚ VI

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi trung, cư trụ.[29]

Phật Tu hương thiết cúng phúng kinh kỳ siêu sự.

Kim tang chủ:…[30]……………………vi nhựt phần hương tâm thành khấu bái.

CUNG CANG

Đại giác năng nhơn phủ thừa tiếp độ vong hồn thọ Thiên ân: [31]….… Thế danh: [32]….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng [33] …….tuế.

Ô Hô!

Nhứt tức bất hồi thiên thu vĩnh biệt, tội phước hà kỳ, thăng trầm vị biện, dụng thân báo bổ kỳ trợ vãng sang chi lộ. Tư giả kim ngoạt thị nhựt kỳ siêu (tuần mấy…….) chi tuần, Kim ngôn gia trì mật ngữ kỳ sanh tịnh độ. Kim tắc đạo tràng, trai đàn sơ khải viễn tịnh sớ văn, nhựt hàm hòa nam khấu bái.

TẤU

Nam mô Trung Thiên Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật chứng minh, kim liên tọa hạ.

VIÊN PHƯỢNG

Bát Bộ Hộ Pháp Long Thiên Thập Điện Từ Vương Đại huyền Chơn tể thượng trung hạ giái nhứt thiết thần kỳ. Thổ địa đồng hâm hiến hưởng chi nghi, tiếp dẫn vong hồn vãng sanh chi lộ.

Phục nguyện vong hồn tảo đắc siêu thăng bất nhấp Địa phủ chi u quang, tảo đăng tịnh độ.

Ngưỡng du chư Phật cảm ứng chứng minh

CẨN SỚ

Tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hữu đệ tử hiệp giữtang chủ thành tâm khấu bái.

Thượng sớ./.

CHÚ DIỆT TỘI

Thất Phật diệt tội chơn ngôn:

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, bồ đề tát ta bà ha. (đọc 3 lần)

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

    

KINH CẦU SIÊU (Bài 1)

                                      Kim đệ tử điện tiền khẩn đảo,

          Nguyện linh hồn huờn đáo Thiên Đường;

                    Huyền Khung chứng chiếu trần dương,

Thành tâm phục nguyện tận tường trai tăng.

          Tang chủ nguyện lập đàng nghiêm thiết,

          Vì thảo ân hiếu yết Cao Tiên;

                    Độ hồn ly khổ phương viên,

Thoát đường ly tiết ngục tiền, hồi thiên.

          Đại Từ Phụ chứng miên đệ tử,

          Chiếu tâm đàn ân tứ, từ bi;

                    Độ vong địa ngục thoát ly,

Siêu thăng cực lạc hồi qui thiên đường.

          Hoặc hữu tội trần dương tiền kiếp,

          Hoặc Kim sanh theo nghiệp oan khiên.

                    Từ bi hỉ xả an nhiên,

Độ hồn siêu thoát kiền thiên phản hồi.

          Sắc Thượng Đế Tam Kỳ đại xá,

          Lịnh Huyền Khung phổ hóa nhơn sanh;

                    Quy nguyên chánh đạo nhơn thành,

Huờn Tiên thiên lý độ sanh tử hồn.

          Đầu lễ bái chư Tôn liệt vị,

          Cầu linh hồn thọ ký Phật bang;

                    Chứng lòng trai chủ trần gian,

Chư nho tề tựu trai đàn thành-tâm.

          Đức Từ Phụ cao thâm cảm hóa,

          Đại từ bi phóng xả siêu hồn.

                    Nam mô Chủ Tể Kiền Khôn,

Huyền khung, Ngọc Đế độ hồn siêu thăng.

          Quyền Giáo Chủ Tây phương Phật pháp,

          Độ linh hồn siêu thoát luân hồi;

                    Nam mô Thích Ca Như Lai,

Độ hồn lai đáo Phật đài Tây phang.

          Đạo diệu luật, bảo toàn độ thế,

          Chưởng khắp quyền Phổ tế nhơn phàm;

                    Nam mô Thái Thượng Lão Đam,

Dẫn hồn đăng cảnh Tiên bang hưởng nhàn.

          Nhờ Thánh đức chứng đàng nghiêm thiết,

          Phục Nho Tông nghi tiết tri hiền;

                    Nam mô Khổng Thánh Văn Tuyên,

Dẫn vong đắc lộ hy hiền tường tri.

          Quyền Giáo Tông Tam Kỳ Phổ Độ,

          Lập Tiên thiên cứu khổ nhơn sanh.

                    Nam mô Thái Bạch trường canh,

Độ vong thoát tục siêu sanh thiên đường.

          Cứu khổ nạn trần dương bi khổ.

          Phóng Kim quang bảo hộ thậm thâm;

                    Nam mô Nam Hải Quan Âm,

Độ vong thoát cảnh đọa trầm trần ai.

          Nghĩa chí vỏng Hùng-oai, Thánh võ,

          Phò Hớn triều kết lập Thu Xuân.

                    Nam mô Quan Thánh Đế Quân,

Dà Lam Phật hiện độ vong đắc thành.

          Hoặc sanh tiền cạnh tranh tạo tội,

          Chư môn sanh sám hối cầu siêu;

                    Cầu linh hồn, đắc tiêu diêu,

Hưởng phần khoái-lạc Linh Tiêu cảnh nhàn.

          Hoặc tiền kiếp tạo đoan ác nghiệp,

          Chư Nho cầu tận-diệt oai khiên;

                    Hưởng chung phước huệ Cao Tiên,

Tri căn giác ngộ đắc duyên đạo truyên.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

  

KINH CẦU SIÊU (Bài 2)

                                      Trên Thiên Bàn khói hương ngui ngút,

                                      Dưới trẻ con dưng chút thành tâm;

                                                          Mong ơn hà hải cao thâm,

                             Truyền ban Đại đạo sửa lầm thế gian.

                                      Tam Kỳ Đạo đã ban cứu thế,

                                      Ơn Cao Đài Thượng Đế rất sâu;

                                                Ơn Thầy độ khắp hoàn cầu.

                             Đem về đạo chánh ngỏ hầu sửa thân.

                                      Phật Tiên Thánh chư Thần đắc linh,

                                      Giúp tay Thầy chấn chỉnh nền tu;

                                                Dạy đời mở trí phàm ngu,

                             Tỉnh tu một kiếp, thiên tu thanh nhàn.

                                      Xưa lầm lỗi dị đoàn, mê tín,

                                      Con tưởng lầm vọng thỉnh cầu siêu;

                                                Đặng mong tội lỗi tiêu điều,

                             Ngày nay nghĩ lại, Trời chiều đặng sao?

                                      Bừng mắt dậy chiêm bao sực tỉnh,

                                      Lễ cầu siêu biết chính là đây;

                                                Chứng đàn mong có linh Thầy,

                             Triệu hồn kẻ thác đến rày đàng trung.

                                      Tuồng thế sự lạnh lùng gây trở,

                                      Thân của hồn lỡ dỡ bao phen;

                                                Trót cam trong cảnh thấp hèn,

                             Mừng, vui, giận, ghét, đua chen thất tình.

                                      Nỗi lục dục gập gình nơi dạ,

                                      Khiến thân phàm quên cả lý chơn;

                                                Tranh danh đoạt lợi thua hơn,

                             Vần xoay trong kiếp cá nhơn hưởng nhờ.

                                      Chữ Thiên đạo đành ngơ chẳng biết,

                                      Biết đạo người mài miệt hiến thân;

                                                Chẳng tu chẳng luyện chơn thần,

                             Để cho bụi tục lấp lần linh quang.

                                      Hoặc khi sống phục hàng Thiên đạo,

                                      Mà chỉ xoay vào đạo dị đoan;

                                                Hôm nay, kiếp tỉnh mơ màng,

                             Nghe chuông siêu độ tìm đàng quy thiên.

                             (12 tiếng chuông)

                                      Người ở thế có duyên cùng chẳng,

                                      Tiếng lạc lầm có hẳn nào sai;

                                                Rủi chơn lỡ bước lạc loài,

                             Ăn năn tự cứu khỏi nơi tội tình.

                                      Khi ở thế gây hình tư tưởng,

                                      Tửu, khí, tài, sắc vướng vào thân;

                                                Tội kia hẳn cũng có phần,

                             Bịnh, Sinh, Lão , Tử bốn lần phải mang.

                                      Lúc đã thác tội tràn dạ chịu,

                                      Hồn tuy theo đủ thiếu kiếp tu;

                                                Hoặc thăng vào cảnh thiên thu,

                             Hoặc vào chịu tội Diêm U hai đàng.

                                      Hồn còn xác, mơ màng với xác,

                                      Quên suy điều thiện ác mà tu;

                                                Nay hồn lìa khỏi Diêm Phù,

                             Hồn khôn suy lấp, mà tu chánh đàng.

                                      Dầu Tiên Phật còn mang nhục thể,

                                      Cũng phải cam tội lệ như người;

                                                Phật Tiên nào khác vẻ người,

                             Nhờ ăn ăn tội tá Trời giáo nhơn.

                                      Nay cầu siêu mong ơn Từ Phụ,

                                      Truyền điển quang khuyến nhủ hồn linh;

                                                Hồn đương trong cảnh gập gình,

                             Tiếp tròn linh điển dọn mình thoát lên.

Tâm niệm:

-Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

KINH CẦU SIÊU (Bài 3)

Đầu vọng bái Tây phương Phật Tổ,

A Di Đà Phật độ chúng dân.

Quan Thế Âm lân mẩn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát,

Bồ từ bi tế bạt vong hồn.

Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,

Miền Âm cảnh mục khôn khai giải.

Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại,

Độ kẻ lành chế cải tai ương.

Chốn dạ đài Thập Điện Từ Vương,

Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.

Giảm hình phạt bớt đường ly tiết,

Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.

Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên,

Nơi Phước địa ở yên tu luyện.

Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,

Hộ thương sanh u hiển khương ninh.

Tâm niệm:

Nam Mô chư Phật Tiên Thánh Thần cảm ứng chứng minh.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

BÀI KHAI KINH

          Vưng lời Thượng Đế sắc ban,

Tụng kinh siêu độ lớp lang rõ ràng.

          Cầu xin độ dẫn Thiên Đàng,

Nương theo cõi Phật dựa màn Bồng Lai.

          Đức Thầy xuống lịnh ngày nay,

Tụng kinh Tam Bảo chớ sai điều nào.

          Chẵng nên giặm sửa chế vào,

Mắt xem miệng đọc đừng xao lòng tà.

          Khai kinh đức Phật Di Đà,

Tụng cầu tiêu tội Diêm La đưa hồn.

          Tổ sư Thái Thượng Đức Ông,

Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.

          Ngày nay cuối (cuối, đúng…..Ngọ) y giờ,

Cầu xin Thổ Địa ra ơn rước hồn.

          Vong linh (tên họ ……) là hồn,

Dắt về lạy Phật tọa bàn nghe kinh.

(3 lạy, mỗi lạy 3 gật)

- SỚ KHAI SƠN

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.[34]

Kim hữu đệ tử vong hồn thọ Thiên ân: [35]…. Thế danh:[36]….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng [37] …….tuế. đầu nhập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vĩ vô cực vi thể. Thái cực vi dụng, bất dụng phiêu tiền hóa mã, thiết lập hương, đăng, trà, tửu chi nghi.

KÍNH BẨM

Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Long Thần; khẩu thỉnh!.

Thổ Công, Thổ Mẫu, Thổ Tử, Thổ Tôn nhứt thiết quyến thuộc, phổ đồng cúng dường, tự kim khai sơn phá thổ, dĩ hậu an bổn vị, vận đắc mạo phạm, Thiên vô kỵ, Địa vô kỵ, Âm Dương vô kỵ, như hữu bất tuân, ngô phụng Thái Thượng Lão Quân cấp cấp như luật lịnh./.

Xướng:

Hiến tửu, lễ tam bái.

  1. CÁO ĐẠO LỘ

Xướng:

Viên chức tựu vị, quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NGUYỆN [38]

Ngưỡng cầu đạo lộ đẳng Thần kỳ,

Kim nhựt di quan tán tử thi.

Trục quỷ khử tà kinh viễn tỵ,

Vong hồn thành tựu vọng Tây quy.

Xướng:

Thượng hương, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

*Lời cầu nguyện Cáo đạo lộ:

Hôm nay ngày…tháng…năm….lễ phát hành di linh cửu vị…………………………di an táng nơi nghĩa địa. Gia đình sắm lễ vật đăng cúng.

Chúng tôi là (chức việc)……………………sở tại địa phương kính thỉnh Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Đất Đai Viên trạch, Thành Hoàng Bổn Cảnh, Thổ Địa Long Thần chứng minh thọ hưởng. Xin phò độ trì cho việc di hành linh cửu của vị……..…được bình an mọi việc.

- KINH CÁO ĐẠO LỘ (bài 1) [39]

Nguyện cùng Đạo lộ Ngũ phương,

Khử tà trục quỷ nhường đường minh sanh.

Giúp cho linh cửu thượng trình,

Mồ phần an táng Tây đình hồi qui.

Vọng cầu Thổ Địa Thần kỳ,

Hộ hồn lương thiện kịp kỳ đăng Tiên.

E khi uế trược nhiễm truyền,

Cúi xin chư vị linh tiền tránh xa.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH CÁO ĐẠO LỘ   (bài 2) [40]

Vọng Ngũ Phương Đạo Lộ chứng tri,

Cùng Trị Nhựt Thần Kỳ ủng hộ.

Nay di cửu táng an phần mộ,

Trục tà ma cản lộ lăng loàn.

Cho cốt hài thong thả lên đàng,

Vong linh đặng an nhàn cực lạc.

Lòng thành kỉnh Thần minh chiếu tạc,

Giúp hương hồn kỵ hạc đăng Tiên.

E cốt hài uế khí nhiễm truyền,

Xin chư vị linh tiền viễn tỵ.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu, Lễ tam bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tam bái, hưng bình thân.

Xướng:

Viên chức tựu vị, quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ CÁO THỦY THẦN

Vọng cầu Thủy Tộc đẳng Tôn Thần,

Luân chuyển gia đình tế chúng dân.

Kim nhựt hương huê trình thượng hiến,

Phò trì linh cửu nhứt phiên tân.

Xướng:

Thượng hượng, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH CÁO THỦY THẦN

Nguyện cầu Hải Nhược Vương Hầu,

Phò trì linh cửu kịp chầu táng an.

Trãi qua Bích Thủy, Lư Giang,

Trời thanh gió tịnh đưa thoàn minh sinh.

Tam bôi mỹ tửu cung trình,

Thanh trà huê quả tạ tình Thần Linh.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu, Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu, Lễ tam bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tam bái, hưng bình thân.

(Nghi nầy làm tại linh cửu.)

Xướng:

Tang chủ chư vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương,

- KỆ NIỆM HƯƠNG [41]

Khói hương ngui ngút trước linh sÀng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn./.

Xướng:

Thượng hương, lễ tứ bái. Phụng Minh sanh hiến tấu Thiên bàn.

(Rồi bưng mâm Minh sanh để trước bàn Thầy)

HIẾN TẤU THIÊN BÀN

(Lễ nầy tại Thiên bàn)

- KINH NIỆM HƯƠNG [42]

(Giọng Nam Xuân)

Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ⁽ [43] ⁾……..thời niệm hương.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

KINH PHỤNG MINH SANH

HIẾN TẤU THIÊN BÀN

Kim đệ tử điện tiền cung khấu,

Phụng Minh Sanh hiến tấu Thiên Bàn;

Kiêm vì hiếu quyến chủ tang,

Chọn nhằm giờ ……… động quan phát hành.

Linh nghê gác sẵn giành chực trước,

Đạo Tì nhơn chờ rước quan tài;

Địa linh gửi chút thi hành,

Xác phàm an táng vĩnh giai mộ phần.

Vọng Địa Tạng cầm cân độ thế,

Ra oai linh phổ tế nhơn quần;

Nam mô Thái Thượng Lão Quân,

Quan Âm Phật Mẫu chín từng liên-hoa.

Đức Khổng Thánh Nho Gia khuyến thể,

Đồng từ bi ân huệ cứu nàn;

Xủ rèm bảo cái tràng phang,

Cho vong nương bóng Niết bàn khỏe thân.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

CÁO TỪ ĐƯỜNG

Xướng:

-Từ tôn tựu vị, quỳ, phần hương, niệm hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG [44]

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương,

Xướng:

-Thượng hương, lễ tứ bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH PHỤNG MINH SANH

CÁO TỪ ĐƯỜNG [45]   ⁾

Lễ trình cáo Cửu Huyền Thất Tổ,

Chứng minh tình báo bổ ơn xưa.

Trời xanh cao khi nắng khi mưa,

Người trần thê tử sanh hữu mạng.

Nay …… đã từ trần nhứt đoạn,

Lựa ngày lành khởi táng tha phương.

Nguyên hương hồn phát lạc an khương,

Có đạo hữu thôn hương đưa đón.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

                             - KINH DƯNG BA TUẦN RƯỢU

Lễ ba tuần cúi mình chước tửu,

Vọng Cửu Huyền Thất Tổ giác linh.

Hộ hương hồn tỉnh ngộ quang minh,

Theo Trời Phật qua miên cực lạc.

Lòng thành kỉnh Thần minh chiếu tạc,

Nguyên hương hồn giá hạc đăng Tiên.

Đặng thảnh thơi nhờ có Hoàng Thiên,

Gìn đạo đức ở yên ngôi cũ.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tứ bái, hưng bình thân. Phụng Minh sanh huờn du cửu sở.

HÀNH ĐỘNG QUAN

CÁCH SẮP ĐẶT DI QUAN

Các sắp đặt thứ tự nhà vàng hay thoàn Bát nhã, ở ngoài đường theo thứ tự sau đây!. Sắp bên hữu ngoài đường chừa chỗ cho xe cộ đi qua lại.

Thứ tự sắp xếp theo dưới đây:

01 -            Giá triệu.

02 -            Bàn nghinh xa.

03 -            Bàn phúng.

04 -            Tấm công bố Đạo.

05 -            Bồng lư của đồng nhi bằng vải trắng, kinh sử.

06 -            Bàn vong và cặp phang.

07 -            Chức sắc Thiên phong sắp hàng ba.

08 -            Đại tiểu linh xa.

09 -            Quan tài.

10 -            Chủ tang.

11 -            Đạo hữu cùng bá tánh và bà con sắp hàng ba.

12 -            Xe đưa.

Xướng:

-Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG [46]

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ, Phụng Minh sanh hướng ư tiền đạo. Chấp thanh nhang hướng ư tiền đạo.

- KỆ TỪ GIẢ

Ngày nay từ giã rẽ đôi phang,

Linh cửu mộ phần đặng táng an.

U hiển cách nhau tin vắng bặt,

Hồn nương cõi thọ hưởng thanh nhàn.

Xướng:

Dịch giã nhập bái quan; lễ nhị bái, hưng bình thân, truyệt linh điện.

- LỜI GỌI

Bớ quan viên đạo hò!. Nay đặng ngày kiết nhựt lương thần; đệ linh cửu táng an phần mộ.

- KỆ ĐỘNG QUAN [47]

Ngày nay kiết nhựt lương thần,

Đồng đưa linh cửu mồ phần táng an.

Âm dương cách trở đôi đàng,

Cầu cho qui phách vào hàng Tiên bang.

- KINH ĐỘNG QUAN [48]

Nay đạo hữu hiệp cùng tang chủ,

Cùng hương lân đồng thủ hộ quan.

Nguyên hương hồn thoát lạc bình an.

Cầu Tiên Phật đặng ban công quả.

Cuộc trần thế trái oan vay trả,

Nhẹ nhàng mình thong thả cõi Tiên.

Phước lộc nhiều hưởng đặng bình yên,

Cháu con đặng viên niên phú túc.

Nơi trần thế đặng phần hậu phúc,

Xin Phật Trời chứng chút lòng son.

Cho quan tài an ổn nước non,

Hồn theo Phật khỏi vòng oan trái.

Kìa Bát nhã để nơi biển ái,

Rước những người thông thái thiện lương.

Qua đặng nơi cực lạc Tây phương,

Nhờ Tiên Phật dẫn hồn siêu độ.

Nguyên thi hài an nơi phần mộ,

Sơn thủy tình dẫn lộ gió trăng.

Phách hồn linh giá hạc phi thăng,

Về cõi thọ thanh nhàn muôn thuở.

Cảnh bồng lai thảnh thơi nương ở,

Khỏi nợ trần không sợ đa đoan.

Cầu xin quý phách đặng bình an,

Theo Trời Phật điểm ban công quả.

- KINH ĐƯA LINH CỬU (Bài 1)

          Nam mô Thượng Đế Cao Đài,

Nam mô Phật Tổ Như Lai chứng lòng.

          Nam mô Thái Thượng Đức Ông,

Nam mô Thái Bạch dày công độ đời.

          Nam mô Nam Hải Như Lai,

Quan Âm Phật Mẫu trừ tai cứu nàn.

          Nam mô Quan Thánh Đế Quân,

Nam mô chư Phật, chư Thần, Thánh, Tiên.

          Nam mô Tam giáo hiệp truyển,

Tam Kỳ Phổ Độ sẵn thuyền chực đưa.

          Nam mô Ngọc Đế đại từ,

Tội căn xin đặng giảm trừ chế châm.

          Cầu xin ơn đức cao thâm,

Độ vong đặng khỏi đọa trầm Âm ty.

          Nam mô Địa Tạng chứng tri,

                           Nam mô nhờ Đức Từ Bi dẫn hồn.

          Nam mô chư Phật, chư Tôn,

Cầu vong đặng nhập Thiên môn buổi nầy.

                             - KINH ĐƯA LINH CỬU (Bài 2) [49]

                                      Cõi phàm vay trả trái oan,

Dập dìu kẻ tới, rộn ràng người lui.

          Cách nhau lòng thảm dạ ngùi,

Cạn suy nghĩ xét thầm vui cho người.

          Nợ đời phủi sạch thảnh thơi,

Lánh miền khổ não tìm nơi thanh nhàn.

          Bồng lai phước địa ở an,

Dứt dây oan nghiệt buộc ràng nhiểu nhương.

          Nguyện cầu Giáo chủ Tây phương,

A di Đà Phật xót thương giảm nàn.

          Độ hồn lìa khỏi trần gian,

Về miền cực lạc niết bàn tu thân.

          Quan Âm Bồ Tát ân cần,

Tầm thinh cứu khổ giải lần tai nguy.

          U Minh Đại Thánh từ bi,

Đức ơn Địa Tạng liên trì tiếp vong.

          Từ Vương Thập Điện rộng lòng,

Xá tha hồn đặng thoát vòng trầm luân.

          Âm Tào Đông Nhạc Đế Quân,

Vớt người lương thiện khỏi chưng tội tình.

          Thần Quang Hộ Mạng anh linh,

Giúp vong tri sáng biết nhìn đường ngay.

          Phước thần phướn báu cầm tay,

Sắc vưng Tam Giáo hộ rày linh quang.

          Mong ơn Thổ Địa Thành Hoàng,

Khử tà trục quỷ dẹp đàng chông gai.

          Phách hồn lánh nẽo Diêm đài,

Thoát ly Địa phủ, Thiên thai hầu gần.

          Tiêu diêu tịnh dưỡng tinh thần,

Trau dồi công đức tế dân trợ đời.

          Ngưỡng trong thửa nguyện như lời,

Hiển u hai ngã gặp nơi phước lành.

- KINH ĐƯA LINH CỬU (Bài 3)

                                       Buồn thương cuộc thế rẽ đôi,

                             Thầm mừng hồn phách rảnh rồi trần ai.

                                      Nguyện trên Đức Phật Cao Đài,

Từ bi cứu khổ Thiên thai đem về.

          Hồng trần là chốn giác mê,

Phản hồi Tiên cảnh là quê hương mình.

          Đạo Trời thưởng phạt phân minh,

Đưa người đạo đức khỏi hình ngục quan.

          Âm dương cách trở đôi đàng,

Chư nho đồng nguyện khỏi đàng lầm than.

          Nguyện cầu Thổ Địa Thành Hoàng,

Đem hồn người thiện Phật đàng điểm công.

          Dương gian âm cảnh luật đồng,

Hể người đạo đức non bồng trí an.

          Ngày nay cỡi hạc băng ngàn,

Phủi rồi những lúc trái oan cuộc trần.

          Linh hồn thọ chúc Thiên ân,

Non du khuya sớm ân cần niệm kinh.

          Thiêng liêng khuyên khá giữ gìn,

Bồ đề nương bóng Huỳnh đình rèn tu.

          Sớm khuya luyện tập công phu,

Một ngày cõi thọ ngàn thu dương trần.

          Từ bi tạo hóa so cân,

Đưa người đạo đức lại gần Thiên thai.

          Lần lên cõi Phật Như Lai,

Tiêu diêu khoái lạc trần ai khỏi về.

          Dạo chơi bích thủy, sơn khê,

Sớm xem hải đảo tối kề Bồng lai.

          Linh hồn mựa chớ đơn sai,

Cảnh Tiên là báu, trần ai chớ màng.

          Giờ nay rãnh cuộc trái oan,

Chư nho đồng nguyện vào hàng Tiên bang.

(Nghi nầy làm tại huyệt mã)

Xướng:

Tang chủ tựu vị, quỳ, phần hương, nguyện hương.

KỆ NIỆM HƯƠNG [50]

Tam bôi mỹ tửu phụng kiền xương,

Tang chủ cung thành lễ hiến hương.

Hậu Thổ quan tâm nhàn lạc hưởng,

Tân khu nhứt mạch địa miên trường.

Xướng:

Thượng hương, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu

          - LỜI NGUYỆN CẦU HẬU THỔ

          Hôm nay, ngày …tháng….năm….Linh vị của………….đã đến nơi phần mộ. Chúng tôi……………….cùng tang gia hiếu quyến sắm lễ vật đăng cúng.

Chúng tôi và toàn gia quyến kính trình Hoàng Thiên Hậu Thổ. Đất đai Thổ mộ Thần Hoàng Bổn Cảnh, Thổ Địa Long Thần chứng minh nhậm lễ. Chúng tôi xin gởi hài cốt của vị…….ở nơi đây nhờ Hậu Thổ gìn giữ cho nằm yên nơi lòng đất mẹ.

(đọc sớ cáo Hậu Thổ)

- SỚ CÁO HẬU THỔ

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.[51]

Kim hữu đệ tử Thiên phong, Chức sắc …………….… cộng đồng đạo hữu đắc vị tân cố vong hồn thọ Thiên ân: [52]….… Thế danh:         [53]….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng [54] …….tuế. Đầu nhập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Tôn quy thủ giái phản bổn luyện khí huờn nguyên. Dĩ vô cực vi thể, thái cực vi dụng, bất dung phiêu tiền hóa mã, thử thời …… bất hạnh ư niên …… ngoạt …… nhựt …… thời. Khí thế liễu đạo thoát xác huờn hương, kim tương thi hài táng ư thử địa.

Kim hiếu quyến tánh danh [55] ………….. thiết lập trai đàng hương đăng, trà, tửu, hoa quả chi nghi.

Kỉnh bẩm

          Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Long Thần, Thổ Công, Thổ Mẫu, Thổ Tôn, Thổ Địa, Chư Thần. Phục vọng phô đồng lãnh thọ các an bổn vị bất khả xâm phạm Thiên, Địa, Nhựt, Nguyệt, thời sát nhứt nhứt hung thần, ác sát hóa vi kiến tường.

Thượng hữu huờn chiêm Ngôu Phụng, Thái Thượng Lão Quân cấp cấp như luật lịnh.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH CÁO HẬU THỔ [56]

Mong Hậu Thổ huệ từ chiếu cố,

Cùng Ngũ Phương Ngũ Thổ Địa Thần.

Hộ cốt hài an táng mồ phần,

Vô tư tảo đức ân che chở.

Xác phàm đặng thảnh thơi muôn thuở,

Vọng oai linh nâng đỡ phò trì.

Độ vong hồn thoát nẽo ai bi,

Nơi u hiển giai kỳ thạnh vượng,

Trong gia quyến viên niên phú chưởng,

Cầu vong linh trực hưởng Tây phương.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến trà, lễ tất tam bái.

- KỆ HẠ RỘNG   [57]

Phù sanh nhứt mộng kỷ nhơn tri,

Bách tuế quang âm vấn thị thùy.

Thế cuộc tồn vong tầm mạc trắc,

Ta hồ vĩnh việt thử chung qui.

- KINH HẠ RỘNG [58]

Từ bàn cổ khai Thiên tịch Địa,

Đại Từ Tôn oai nghĩa giúp đời.

Ơn cao Địa Mẫu vơi vơi,

Người đều gội đức tài Trời hóa sanh.

Lầu đài cát dinh thành nưng đỡ,

Tải vô tư muôn thuở linh thiêng.

Thần kỳ Tinh tú Sơn xuyên,

Phong Vân, Lôi, Võ Thanh Thiên chung nhờ.

Chư Vương Đế trọng thờ phụng kính,

Chúng lê dân thành tín bái sùng.

Thú cầm, thảo mộc, côn trùng,

Cũng đều sản xuất đúc ung dẫy đầy.

Công Hậu Thổ đức dày đạo cả,

Hóa dưỡng sanh hoa quả lúa khoai.

Kim ngân, châu báu dược tài,

Nuôi người đặng sống lâu dài trần gian.

Ơn đùm bọc đỡ nưng rải khắp,

Vọng anh linh khỏa lấp thi hài.

Đê đầu khẩn vái linh oai,

                             Độ cho gia quyến lâu dài bình an.

    

- KINH TỪ GIẢ MỘ PHẦN [59]

Tống chung nay đã an bài,

Hồn lên cõi thọ cốt hài gởi đây.

Nợ trần nay đã hết gây,

Chẳng còn tính việc lưng đầy thế gian.

Trăm năm kết cuộc nghĩ càng,

Âm dương vị lộ hay đàng khó trông.

Tử sanh, thiên số nan thông,

Người về Tiên cảnh kẻ trong dương trần.

Xác phàm tuy đã rẽ phân,

Linh hồn xin nhớ ân cần viếng thăm.

Phân tay, giọt lụy khôn cầm,

Mộ vân xuân thọ khôn tầm người thương./.

              

         - KINH DẪN VONG VỀ [60]

Oai Phật Trời anh linh phổ tế,

Lòng từ bi phổ tế độ dân.

                Độ hồn lìa khỏi hồng trần,

Xét xem công-quả cân phân thưởng đền.

Giảm tội lỗi Ơn Trên chế lượng,

Thanh Phước Thần cầm phướn dẫn đàng.

                Mong nhờ Hộ Mạng Thần Quang,

Giúp vong nhẹ tách băng ngàn cõi Tiên.

Đặng siêu độ trần duyên oan trái,

Sáng lương tâm chừa cải tiền khiên.

                Ban ơn giúp sức Thiêng liêng,

Lánh nơi phàm tục tầm miền bồng lai./.

(Nhà có thờ Thầy mới có lễ nầy)

KINH NIỆM HƯƠNG [61]

(Giọng Nam Xuân)

      Hoàng Thiên chứng chiếu tâm thành,

Mùi hương lư ngọc khinh thanh chín từng.

                Khói thơm bay khắp tưng bừng,

Lòng thành đệ tử lễ mừng Thiên Nhan.

      Nguyện cầu Tiên Thánh hội bàn,

Thừa luôn giá hạt giáng đàn chứng tri.

      Cúi xin chư Phật từ bi,

Rõ lòng đệ tử ⁽ [62] ⁾……..thời niệm hương./.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- SỚ AN VỊ VONG LINH

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,………… Chi Trung, cư trụ.[63]

Gia trung chi nội, cầu an vị vong hồn (tánh danh người chết……...) kim hữu đệ tử Thiên phong, Chức sắc ……….. Hiệp giữ nam nữ đại tiểu đoái lãnh hiếu quyến (tên họ tang chủ [64] ……quỳ tại Thiên bàn thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Pháp Di Thâm Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Khổng Tử Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Tôn.

Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Lực Sĩ Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân Chiêu Minh Dực Hớn Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Tá Châu Quảng Pháp Từ Hàn Phổ Độ Thiên Tôn.

Đông Nhạc Đế Quân Khoan Hồng Độ Chúng Thiên Tôn.

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát Từ Bi Độ Chúng Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Di Đà Thiên Tôn.

Thập Phương chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần kim liên tọa hạ.

Khẩn cầu từ bi xá giữ vong hồn thọ Thiên ân: [65]…..… Thế danh: [66]….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng [67] …….tuế. tánh danh …… duyên ngộ Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, đầu nhập Thiên Môn, thọ trì quy giái vi năng. Tịnh nghiêm công quả vi lập, bất hạnh ư …… niên …… ngoạt …… nhựt …… thời. Khí thế liễu đạo, đệ tử hiệp giữ tín đồ, đoái lãnh hiếu quyến, tang chủ thiết cúng đàn tràng, hương đăng, trà, tửu, hoa, quả chi nghi. Cung phụng: Lập sàng an vị tôn vong. Thành tâm khấu bái.

Ai tấu vĩ văn./.

          Tâm niệm:

          - Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

- KINH AN VỊ VONG LINH

          Thượng Từ Phụ Ngọc Hoàng Chủ Tể,

          Tá danh là Thượng Đế Cao Đài;

          Giáng cơ lập Đạo lâu dài,Đem nền Tam Giáo chỉ bày độ sinh.

          Đặng cứu vớt chơn linh đọa lạc,

          Phòng độ người mộng giác mê tân;

          Đạo Nho, Thích, hợp một lần,

          Cho người giữ đạo biết chừng nết na.

          Trên nhờ có Thích Ca độ dẫn,

          Lời Lão Quân ẩn nhẫn dạy bày;

          Đại Thành Chí Thánh đức dày,

          Văn chương dạy bảo, lễ nghi cho người.

          Dạy luân lý đời đời cang kỷ,

          Gồm nghĩa nhân độ bỉ đặng thông;

          Sống tu đạo đức tạc lòng,

Thác rồi đặng khỏi trong vòng trầm luân.

Nay môn đệ (tên ……) số mạng,

Thương đồng môn quá vãng cầu hồn;

                  Chơn linh thoát chốn luân hồi,

Theo Thầy tới chỗ dứt rồi đọa căn.

Hết mơ mộng trần gian cảnh tạm,

Mắc đọa đày cực thảm bấy lâu;

                  Âm dương nay cách biệt nhau,

Kẻ còn người mất rồi sau sum vầy.

Nay có Đức Từ Bi sắc mạng,

Mong đặng nhờ Địa Tạng ân hoằng;

                  Thiện căn nay đặng độ thăng,

        Ác nghiệt thì đợi luật hằng xử ngay.

Hồn đặng cõi bồng lai thượng lộ,

Nhờ Tam Kỳ Phổ Độ xá ân;

                  Từ đây khỏi lộn lại trần,

Hết luân hồi khổ xác thân đọa đày.

Tiêu diêu chốn hiệp vầy các Thánh,

Khoái lạc ngày đỏng đảnh non nhân;

                  Trái oan dứt sạch bụi trần,

Tiên bang chốn cũ bước chân lộn về.

Nơi biển khổ sông mê hết tưởng,

Non bồng lai gắng gượng lần lên;

                  Vong hồn nương cõi Phật Tiên,

Bỏ thân xác thịt lánh miền trần gian.

Trên nhờ có Ngọc Hoàng mở đạo,

Phật, Thánh, Tiên Tam Giáo độ đời;

                  Ra ơn phổ tế khắp nơi,

Dắt người khổ hải để đời Thiên Thai.

Tâm niệm:

Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma ha Tát.

( 3 lạy, mỗi lạy 4 gật )

  1. KHAI MỘ

   CÚNG TIÊN LINH

Xướng:

Từ tôn tựu vị, quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG [68]

Một dạ kỉnh thành đốt nén hương,

Kính mời Thất Tổ đáo Từ đường.

Tiên linh nội ngoại cùng cô bác,

Chứng thảo cháu con đến cõi dương.

Xướng:

Thượng hương, lễ tứ bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH PHẢN KHÓC (Tiên Linh)

        Tiên linh chứng chiếu lòng thanh,

Táng an (Thân phụ, Từ mẫu...) gia đình hồi qui.

        Người đời có lúc hiệp ly,

Kẻ còn người mất xiết chi nỗi phiền.

        Có câu: Mộc bổn thủy nguyên,

Lễ thô đạm bạc Tổ Tiên chứng cùng.

        Nay đà mãn lễ tống chung,

Linh hồn cầu đặng trùng phùng Tổ Tông.

        Sớm khuya dựa cảnh non bông,

Hết dây oan nghiệt khỏi vòng trần gian.

      Giờ đây an vị linh sàng,

Ông Bà Cô Bác tọa bàn chứng tri.

      Nguyên cầu Phật Tổ A Di,

Vớt người lương thiện đồng qui Phật đường./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu. (3 lần), -Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà. -Lễ tất tứ bái, hưng bình thân.

Xướng:

Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIÊM HƯƠNG [69]

Khói hương ngui ngút trước linh sàng,

Xông sạch hương hồn trược khí tan.

Hơi ấm đượm nhuần gom phách quế,

Giác linh hưởng phước chốn thanh nhàn.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ.

- KINH CÚNG VONG AN SÀNG [70]

Âm dương nay đã chia đàng,

Sớm trưa vắng dạng dạ càng héo von.

Trăm năm nghĩ cuộc mất còn,

Là nơi số định, giữ tròn hiếu trung.

Làm người cho trọn thỉ chung,

Dương gian tuy cách trùng phùng cựu bang.

Muối dưa tạm dụng linh sàng,

Thô trà rượu lạt gia đàng lễ dưng.

Đọc câu ly biệt ngập ngừng,

Đoái nhìn linh vị không ngừng giọt châu.

Tử sanh Thiên số nan cầu,

Ước cho hồn đặng về chầu bệ giai.

Nhờ trên đại đức Phật dày,

Độ sanh, độ tử cả hai cũng đồng.

Hồn linh nguyên đến non bồng,

Qua miền cực lạc, thoát vòng trần ai.

Giờ nay linh vị an bày,

Chứng minh hiếu tử ngày nay bái quì.

Chư nho đưa đón kịp thì,

Cầu cho hồn đặng hồi qui Thiên đài.

Dặn lòng mựa chớ đơn sai,

Tưởng tình cốt nhục vãng lai gia đàng.

Có câu: Sanh thuận, tử an,

Nhưng buồn dương thế suối vàng cách phân.

Có thương đến viếng mộ phần,

Le the ngọn cỏ người thân khó tầm.

Từ đây tử biệt trăm năm,

Hồn khôn khuyên nhớ viếng thăm gia đàng.

Xướng:

Thượng hương, lễ nhị bái, quỳ. hiến tửu.

- KINH CÚNG VONG PHẢN KHÓC

(Chồng cúng vợ hay vợ cúng chồng, rót rượu 3 lần mới đọc kinh)

***

Rượu ba tuần quỳ tâu trước án,

Xin linh hồn hưỡng cạn chén huỳnh.

Tưởng trăm năm trọn chữ bố kình,

Nào hay lại, thình lình vội dứt.

***

Trăng đương sáng vì mây nên khuất,

Dây xe săn ai bứt chia hai.

Nguyện hương hồn lên chốn Phật đài,

Cực lạc giới hằng ngày thong thả.

***

Song may gặp Tam Kỳ đạo cả,

Lo tu bồi công quả tháng ngày.

Nợ tiền khiên mau trả không vay,

Dạy gia quyến trì chay thủ giới.

***

Theo chơn lý không ham danh lợi,

Gìn luật lệ chớ khởi lòng tà.

Hằng tưởng câu bác ái độ tha,

Noi sáu chữ Di Đà Phật Tổ.

***

Trong thôn lý dày công phổ độ,

Đặng vớt người biển khổ sông mê.

Sổ Nam Tào nay đã định về,

Hồn theo gió hầu kề cực lạc.

***

Chơn thần xuất hồn ra khỏi xác,

Chứng lòng thành đạm bạc tương rau.

Chữ hiệp tang nghĩ đến càng đau,

Người phân cách biết sao hiệp mặt.

***

Nay đành chịu chồng Nam vợ Bắc,

Nhớ người yêu ngày khắc nào nguôi.

Cõi Phật Tiên xin đó an vui,

Miền trần thế để tôi công quả.

***

Luật Tam, Ngũ ngày đêm giữ dạ,

Đặng kiếp sau khỏi đọa luân hồi.

Người đà trở lại về ngôi,

              Vui miền Tiên cảnh phủi rồi trần ai./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.   (con cháu dâng cúng)

- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 1)

Rượu tuần nhứt châm đầy dưng trước,

Nguyên hương hồn ẩm phước cho vui.

Xin chứng lòng con thảo ngậm ngùi,

Đau dạ trẻ sụt sùi giọt lụy.

Đơn sơ lễ trọn niềm chung thủy

Sự mất còn thờ ví cũng đồng

Ba năm tang hiếu vẹn xong

Chúc cầu (từ mẫu, thân phụ) non bồng tiêu diêu./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 2)

Rượu nhị tuần rót đầy dưng tiếp,

Con rễ dâu đồng hiệp lại quì.

Ơn sanh thành, ơn ví cao dày,

Nghĩa dưỡng dục nghĩa tài rất lớn.

Kìa chín chữ cù lao lồng lộng,

Nọ mười ơn dưỡng dục minh minh.

Biết chi bồi đắp vong linh,

Tạm dùng lễ bạc chứng tình thảo ngay.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH DƯNG RƯỢU (Bài 3)

Rượu nầy lễ ba tuần xin rót,

Cúi lạy quì đôi giọt dầm sa.

Phế tâm bào, gan ruột xót xa,

Đoạn cốt nhục chia ra hai ngả.

Dạy gia quyến thượng hòa hạ lục,

Lễ mọn nầy nhứt nhứt sánh sô,

Chúc cầu khỏi chốn phong đô,

Được lên cỏi Phật để hầu nghe kinh./,

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, Tấn phạn, kiểm soạn.

- KINH TẤN PHẠN

Lễ tấn phạn chứng lòng ngay thảo,

Dưới gối dưng trọn đạo làm con.

Công sanh thành báo bổ cho tròn,

Tình cốt nhục nước non khó sánh.

Nay (cha, mẹ….) đã cõi trần xa lánh,

Nơi gia đàng hiu quạnh sớm khuya.

Vô thường sau vội chia lìa,

Làm cho người thiện phải về đế hương./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ, hiến trà.

- KINH DÂNG TRÀ

Trà Bạch Liên hơi lên thơm nức,

Xin tạm dùng lễ tất vừa xong.

Nguyện linh hồn phát hóa non bồng,

Nương cõi Phật, tu công lập quả.

Miền Tiên cảnh thật là phong nhã,

Bước từng mây thông thả sớm trưa.

Phật Tiên là chổ thích ưa,

Lánh miền phàm tục gió mưa bụi trần./.

Xướng:

Lễ nhị bái, quỳ.

- KINH ĐƯA VONG

Ngày nay tế lễ đã xong,

Chư nho hiếu quyến đưa vong thượng đàng.

Ngưỡng cầu Thổ Địa Thành Hoàng,

Dẫn hồn nhẹ tách dậm ngàn Thiên Thai.

Dựa màn Phật Tổ Như Lai,

Kệ kinh gìn giữ hôm mai tu trì.

Rèn lòng bác ái từ bi,

Dắt dìu hậu tấn đồng qui hưởng nhàn.

Luân hồi lục đạo khỏi mang,

Vinh hoa, phú quý phàm gian nào màng.

Nguơn thần trở lại ngôi Càn,

Là nơi cảnh củ ẩn tàng thuở xưa.

Biển trần tang khổ nên chừa,

Người mang xác thịt lọc lừa chưa xong.

Thiện căn, thiện quả bền lòng,

Chờ ngày thoát xác non bồng gặp nhau.

Phước Thần phướn báu phất màu,

Cúi đầu lễ tống thanh cao phi đằng./.

Xướng:

Lế tất tứ bái, hưng bình thân.

           

            HƯỚNG DẪN:

Chuẩn bị lễ khai mộ gồm có:

            + Trộn chung 5 thứ đậu và mè để vào 5 ống trút, 4 ống 4 hướng 1 ống ở giữa, và 2 ống 2 bên là gạo bên trái, muối bên phải.

            + Bông nhiều màu để gắn chung 7 ống trút, và có giấy đỏ để bịt lại.

            + Đặt một cái bàn để cầu Trời, Phật Thánh Thần và Đức Địa Tang Vương Bồ Tát gồm bông, trái cây, đèn, nhang, rượu, trà là đủ.

            + Một mâm cúng Ngũ Phương, Ngũ Thổ có thêm 5 chén chè.

            + Cúng vong 3 chén chè để trước mộ.

Xướng:

Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương, thượng hương, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu, lễ tam bái, quỳ, nguyện sớ.

- SỚ KHAI MỘ

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Đệ ………………. Niên

TAM GIÁO QUY NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT

Thiên vận tuế thứ ………niên, …..….Ngoạt, …...…Nhựt, .…Thời.

Hiện tại …………..quốc, ………Thành phố, tỉnh,………….. quận, huyện, ……… phường, xã,…………khu vực, ấp. Tại phần mộ chi tiền.

Kim hữu Thiên Phong, Chức sắc ………………….....đoái lãnh hiếu quyến Kim tang chủ: [71]…………………………     ………………đại tiểu đẳng khẩn nguyện vong hồn đắc vi tân cố:     vong hồn thọ Thiên ân: [72]….… Thế danh: [73]….…Tử ư .….… niên ….. ngoạt …… nhựt …… thời. Hưởng [74] …….tuế.

chi kiết địa dĩ lai trảm thảo, phá thổ khủng hữu, phạm Ngũ phương, Ngũ thổ, Tôn thần, cập cổ mộ nghiệp chủ tân táng chi thời, dĩ hà thù tạ chư Thần.

CẨN DĨ

Vô cực vi thể, Thái cực vi dụng. Tam hiệp nhứt, mồ kỷ qui căn, sơn xuyên tinh tú địa mạch an linh, thanh long nghinh yết, Bạch hổ trinh tường, Ngũ phương Long thần, các an bổn vị, chư ác sát các ẩn kỳ trung vong thành hiệp, hiếu quyến chi tường.

Cẩn cụ sớ văn Thượng trình ai tấu./.

Xướng:

Phần sớ, lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH KHAI MỘ (Bài 1 ) [75]

          Cúi xin Hậu Thổ chứng minh,

Môn tang trai chủ lễ trình khai quan.

          Dẫn hồn tảo vãng Thiêng Đàng,

Phách gìn giữ mộ linh hồn viếng thăm.

          Giữ tròn hai chữ đạo tâm,

Linh hồn phơi phới quảng tầm Tiên cung.

          Ngàn năm lạc cảnh thung dung,

Ngày thành chánh quả trùng phùng trươc mai.

          Ơn trên Thượng Đế Cao Đài,

Cùng Tiên Phật Thánh hoằng khai đạo lành.

          Độ tòan tứ khổ chúng Sanh,

Đồng qua bỉ ngạn lên thành nhụy châu./.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến tửu.

- KINH KHAI MỘ (Bài 2 )

          Đầu cúi lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ,

          Nay đến ngày khai mộ định hồn;

          Nam mô chư Phật chư Tôn,

Nam mô Địa Tạng dắt hồn siêu thăng.

          Nghe câu kệ biết rằng sống thác,

          Nguyện linh hồn khoái lạc tiêu diêu;

                   Mong ơn Địa Tạng độ siêu,

Vì người ở thế phải nhiều công phu.

          Xin nhớ chốn phàm phu chứng chiếu,

          Hỉ có lòng đa thiểu kỉnh dâng;

                   Trà thô chước tửu tam tuần,

Chủ gia nay đã kỉnh mừng Ngũ Phương.

          Họa Tam Thiên trấn an phần mộ,

          Trên chín tầng chỉ dẫn thẳng xong;

                   Mong nhờ Phật Tổ thần thông,

Đem hồn về đến non bồng cảnh Tiên.

          Xin gia chủ bớt phiền bớt não,

          Để cho vong trực đáo Tây Phương;

                   Tuy là cách trở âm dương,

Tử quy sanh ký là đường xưa nay.

          Nay đạo (huynh, tỷ…) đến ngày xuân cảnh,

          Nguyện hương hồn mới rãnh cuộc trần;

                   Xác phàm gởi lại mộ phần,

Hồn linh thoát tục về lần cảnh tiên.

                   Ba tuần trà rượu mãn viên,

Cúi đầu lễ bái gia đàng hồi quy./.

Xướng:

Lễ tam bái, quỳ, hiến trà, lễ tam bái.

- LỜI DẶN CHÚ GIẢI:

(Vị chủ lễ lấy một cái bông nhúng vào chén nước rải chung quanh mộ theo các hướng, vừa rải vừa đọc câu chú.)

          CHÚ

Âm Dương giao thới

Nhật Nguyệt trùng quang       (lấy bông cậm 4 hướng và niệm)

HƯỚNG BẮC

Khảm trung mãn Chánh Bắc đương Tý.

Bắc Phương Nhâm Quý Thủy.

HƯỚNG ĐÔNG

Chấn ngưởng bồn Chánh Đông đương Mẹo.

Đông Phương Giáp Ất Mộc.

HƯỚNG NAM

Ly trung hư Chánh Nam đương Ngọ.

Nam Phương Bính Đinh Hỏa.

HƯỚNG TÂY

Đoài thượng khuyết Chánh Tây đương Dậu.

Tây Phương Canh Tân Kim.

TRUNG ƯƠNG

Mồ Kỷ Thổ trấn thủ Càn Khôn

Án Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu thủ tứ phương.

Xướng:

Lễ tất tam bái, hưng bình thân.

  1. HỎA TÁNG

(Lễ nầy nơi trước khi hỏa táng)

Xướng:

-Tang chủ tựu vị, giai quỳ, phần hương, nguyện hương.

- KỆ NIỆM HƯƠNG HỎA TÁNG [76]

Tửu trà hoa quả kỉnh liền hương,

Thân chủ tang thương tiển biệt trường.

Hỏa táng thân nhân từng thể biến,

Mong nhờ Hỏa Đức phút giây nương./.

Xướng:

-Thượng hương, lễ nhị bái, quì, hiến tửu,

-Lễ nhị bái, quỳ, hiến tửu,

-Lễ nhị bái quỳ. Hiến tửu.

KINH HỎA TÁNG

(Giọng Nam Ai)

Thôi kiếp sống giờ đây dứt đoạn,

Mãnh hình hài ngoan ngoãn nằm yên;

Tinh nhanh linh hoạt không phiền,

Hồn về Cực Lạc, xác liền bỏ xa.

Nhớ kiếp sống thật thà hiếu đạo,

Nay thác rồi bước dạo thung dung;

Ma ha Thánh thủy tiếp cùng,

Tiển đưa xác tục về vùng Thiêng liêng.

Xin định tâm như thiền tinh tấn,

Phách biến hình như tánh vượt tu;

Lưu truyền tôn tử nghìn thu,

Con đường đạo đức giải thù từ đây.

Đừng thương khóc, đừng ngây thương nhớ,

Đặng vượt lên khỏi trở lại trần;

Vướng chân vì mối tình thân,

Gắng cho thoát xác đôi phân vắng hình.

Hâm ngọn lửa thâm tình dâng trọn,

Nguyện hương hồn lánh chốn phong đô;

Nương mây thoát kiếp mơ hồ,

Tìm về tiên cảnh điểm tô linh hồn.

Hởi hồn phách tinh khôn thăng tiến,

Hội giác linh diện kiến bên Thầy;

Xác phàm thối rữa không may,

Nay nhờ ngọn lửa tan ngay mãnh hồn.

Trong phút chốc xác thành tro bụi,

Theo Liêng Thần hồn tựa lần lên;

Âm dương cách trở đôi bên,

Tiển người thác trước không nên lụy sầu./.

Xướng:

Lễ nhị bái quỳ. Hiến trà.

CHÚ VÃNG SANH

Vãng Sanh thần chú quyết định chơn ngôn, bạt nhứt thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ đà la ni.

Nam mô A Di Đa Bà Dạ Đa Tha Dà Đa Dạ Đa Điệt Dạ Tha, A Di Rị Đô Bà Tì, A Di Rị Đa Tất Đam Bà Tì, A Di Rị Đa Tì Ca Lan Đế, A Di Rị Đa Tì Ca Lan Đa, Dà Di Nị Dà Dà Na, Chỉ Ca La Lệ, Ta Bà Ha. (đọc 3 lần).

Xướng:

Lễ tất tứ bái, hưng bình thân./.

 


[1] Kinh đưa linh hồn do Đức Cù Lưu Tiên cho.

[2] Kinh Tẩy trần thi lúc gần dứt hơi, trích Tam ngươn Giác Thế do Đức Cửu Thiên Huyền Nữ cho

[3] Kinh Tẩy trần thi khi tuyệt khí, trích Tam ngươn Giác Thế do Đức Cửu Thiên Huyền Nữ cho

[4] Kinh niệm hương, do Đức Văn Xương Đế Quân cho

[5] Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu...thời niệm hương

[6] Tại Cơ sở đạo: Chi trung. Tại gia: Cư trụ, Tại gia người khác: Cung tựu.

         [7] Con trai mất cha: Cô tử, con gái mất cha: Cô nữ, con trai mất mẹ: Ai tử, Con gái

               mất mẹ: Ai nữ, con trai mất cha mẹ: Cô Ai tử. Con gái mất cha mẹ: Cô Ai nử.

[8] Kinh tẩn liệm do Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn cho

[9] Kinh niệm hương, do Đức Văn Xương Đế Quân cho

[10] Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu...thời niệm hương

[11] Tại Cơ sở đạo: Chi trung. Tại gia: Cư trụ, Tại gia người khác: Cung tựu.

         [12] Con trai mất cha: Cô tử, con gái mất cha: Cô nữ, con trai mất mẹ: Ai tử, Con gái

               mất mẹ: Ai nữ, con trai mất cha mẹ: Cô Ai tử. Con gái mất cha mẹ: Cô Ai nử.

[13] Tên chức sắc và phẩm chức sắc.

[14] Tên họ người chết.

[15] 60 tuổi trở xuống hưởng dương, 61 tuổi trở lên hưởng thọ

[16] Bài cáo Từ Tổ trích Tam ngươn Giác Thế do Đức Vương Truyền Lão Tổ cho.

[17] Kệ niệm hương, do Đức Thái Ất Thiên Tôn cho.

[18] Bài Thành phục trích Tam Ngươn Giác Thế do Đức Thành Hoàng Bổn Cảnh cho.

[19] Kinh niệm hương, do Đức Văn Xương Đế Quân cho

[20] Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu...thời niệm hương

[21] Kinh điếu tang 1 trích Tam Ngươn Giác Thế do Đức Động Đình Hồ Tiên Trưởng cho.

[22] Kinh điếu tang 2 do Đức Thái Ất Thiên Tôn cho.

                       [23](Triêu: Sớm mai; Tịch: Chiều; Phô: Trưa; Dạ gian: Khuya).

                       [24] Kệ niệm hương, do Đức Thái Ất Thiên Tôn cho.

[25] Triêu Tịch trích Tam Nguơn Giác Thê do Đức Văn Xương Đế Quân cho

[26] Kinh niệm hương, do Đức Văn Xương Đế Quân cho

[27] Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu...thời niệm hương

[28] Kinh thỉnh Phật Thánh Tiên do Đức Thành Hoàng Bổn Cảnh cho

[29] Tại Cơ sở đạo: Chi trung. Tại gia: Cư trụ, Tại gia người khác: Cung tựu.

         [30] Con trai mất cha: Cô tử, con gái mất cha: Cô nữ, con trai mất mẹ: Ai tử, Con gái

               mất mẹ: Ai nữ, con trai mất cha mẹ: Cô Ai tử. Con gái mất cha mẹ: Cô Ai nử.

[31] Tên chức sắc và phẩm chức sắc.

[32] Tên họ người chết.

[33] 60 tuổi trở xuống hưởng dương, 61 tuổi trở lên hưởng thọ

[34] Tại Cơ sở đạo: Chi trung. Tại gia: Cư trụ, Tại gia người khác: Cung tựu.

[35] Tên chức sắc và phẩm chức sắc.

[36] Tên họ người chết.

[37] 60 tuổi trở xuống hưởng dương, 61 tuổi trở lên hưởng thọ

[38] Kệ nguyện do Thành Hoàng Bổn CảnhCho.

[39] Kinh cáo Đạo Lộ 1 do Thành Hoàng Bổn CảnhCho.

[40] Kinh cáo Đạo Lộ 2 do Địa Tang Vương Bồ TátCho.

[41] Kệ niệm hương, do Đức Thái Ất Thiên Tôn cho.

[42] Kinh niệm hương, do Đức Văn Xương Đế Quân cho

[43] Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu...thời niệm hương

[44] Kệ niệm hương, do Đức Thái Ất Thiên Tôn cho.

            [45] KPMS CÁO TỪ ĐƯỜNG do Đức Thành Hoàng Bốn Cảnh cho.

[46] Kệ niệm hương, do Đức Thái Ất Thiên Tôn cho.

[47] Kệ động quan Thành Hoàng Bổn Cảnh cho.

[48] Kinh động quan Thành Hoàng Bổn Cảnh cho.

[49] Kinh đưa Linh cửu 2, do Đức Di Lạc Thiên Tôn cho

[50]Kệ niệm hương, do ĐứcThành Hoàng Bổn Cảnh cho.

[51] Tại Cơ sở đạo: Chi trung. Tại gia: Cư trụ, Tại gia người khác: Cung tựu.

[52] Tên chức sắc và phẩm chức sắc.

[53] Tên họ người chết.

[54] 60 tuổi trở xuống hưởng dương, 61 tuổi trở lên hưởng thọ

         [55] Con trai mất cha: Cô tử, con gái mất cha: Cô nữ, con trai mất mẹ: Ai tử, Con gái

               mất mẹ: Ai nữ, con trai mất cha mẹ: Cô Ai tử. Con gái mất cha mẹ: Cô Ai nử.

[56] Đức Xích My Lão Tổ cho

[57] Đức Lý Đại Tiên Trưởng cho

[58] Đức Thái Thượng Lão Quân cho

[59] Bài Từ giả mộ phần trích Tam Nguơn Giác Thế do Đức Vương Thiền Lão Tổ cho

[60] Đức Thái Ất Thiên Tôn cho

[61] Kinh niệm hương, do Đức Văn Xương Đế Quân cho

[62] Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu...thời niệm hương

[63] Tại Cơ sở đạo: Chi trung. Tại gia: Cư trụ, Tại gia người khác: Cung tựu.

         [64] Con trai mất cha: Cô tử, con gái mất cha: Cô nữ, con trai mất mẹ: Ai tử, Con gái

               mất mẹ: Ai nữ, con trai mất cha mẹ: Cô Ai tử. Con gái mất cha mẹ: Cô Ai nử.

[65] Tên chức sắc và phẩm chức sắc.

[66] Tên họ người chết.

[67] 60 tuổi trở xuống hưởng dương, 61 tuổi trở lên hưởng thọ

[68] Kệ niệm hương, do Đức Thái Ất Thiên Tôn cho.

[69] Kệ niệm hương, do Đức Thái Ất Thiên Tôn cho.

[70] Kinh cúng vong An linh sàng do Đức Văn Xương Đế Quân cho.

         [71] Con trai mất cha: Cô tử, con gái mất cha: Cô nữ, con trai mất mẹ: Ai tử, Con gái

               mất mẹ: Ai nữ, con trai mất cha mẹ: Cô Ai tử. Con gái mất cha mẹ: Cô Ai nử.

[72] Tên chức sắc và phẩm chức sắc.

[73] Tên họ người chết.

[74] 60 tuổi trở xuống hưởng dương, 61 tuổi trở lên hưởng thọ

[75] Kinh khai mộ 1, do Đức Văn Xương Đế Quân cho

[76] NIỆM HƯƠNG HỎA TÁNG do Hỏa Đức Tinh Quân cho