TTBP 22. TRÚC ƯỚC ĐÀI SIÊU NHIÊN
BẢN TRÚC ƯỚC ĐÀI SIÊU NHIÊN .................................................................................................. Những con số quy định cơ bản: - HLĐSĐ : 2m,90 - HLĐ : 2m,90 - DPĐ : 2m,90 - TTĐ : 2m,90 - BQĐ : 0m,40 (tăng thêm từ TTĐ trở lên) Cộng chung :12 m (từ mặt nền tới đầu cột Bát Quái) - Mỗi cạnh BQĐ : 1m,40 - Lan can 4 cạnh, mỗi cạnh : 12 m - Phủ bì 4 cạnh trong, mỗi cạnh : 9 m - Nền cao : 0m,90 - Cầu thang 9 bậc : ngang 4m , dài 3m - Nóc TTĐ cao : 0m,60 . Dài 2m . Ngang 2m - Nóc lầu chuông , lầu trống cao : 0m,60 . Dài : 6m . Ngang : 2m - Nóc BQĐ cao : 1m,90 . Ngang : 4m - Cửa lớn : 1m,90 / 2m,90 - Cửa trung : 0m,90 / 1m,90 - Cửa nhỏ : 0m,60 / 1m,90 - Cửa sổ nhỏ : 0m,30 / 0m,40 - Cửa bán nguyệt : 0m,40 / 0m,60 - Cửa sổ lớn : 12 / 18m.
THI Nguyên Sinh Đài Báu ứng Cơ Trời, Tỏa sáng huệ từ chiếu khắp nơi. Linh diệu tâm điền tường nội thể, Siêu thường mật chỉ cả ngoài khơi. Hồng ân bủa khắp nguyên kỳ diệu, Điểm Đạo toàn chung lý tuyệt vời. Đại định bổn chương hoằng phổ chúng, Thời lai vận khứ chẳng sai dời.
Đài Siêu Nhiên là hình đồ Đại Châu Thân Tạo Hóa, và Tiểu Châu Thân con người. Đài Nguyên Sinh là chứng minh cho Pháp Đạo về mặt Duy Vật, là Đài Báu thật sự ứng hiện trong cơ đồ Thượng Nguơn Thánh Đức.
ĐÀI SIÊU NHIÊN .................................................................................................. Đài Siêu Nhiên gồm có 3 từng là Huyền Linh Đài, Diệu Pháp Đài và Thông Thiên Đài. Cũng như Trời thì có Hạ Giới, Trung Giới, Thượng Giới, trong khi Con Người thì từ rốn trở xuống là Hạ Khuyết, từ rốn trở lên tới ngực là Trung Khuyết, từ ngực trở lên Thượng Đỉnh là Thượng Khuyết, như Đất thì có nước, đất, đá vậy. Toàn đài phía sau có Bát Quái thông đồng từ trên tới dưới là đường xương sóng của Người, là hệ tuyến thông công của Trời, cũng như kinh tuyến, vĩ tuyến của Đất.
Trời có Âm Dương là Nhựt Nguyệt, Đài Báu có Âm Dương là lầu Chuông và lầu Trống, Người có Âm Dương là hai mắt (mắt trái và phải). Tinh của Trời là Sao, Tình của Người là hai lổ Tai (trái, phải), cũng như cực bắc, cực nam và khí thể của Đất.
Nơi Trung Ương của Trời là Ngọc Hư Cung, nơi Trung Ương của Đài Báu là ngọn phướn linh Minh Châu Huỳnh Đạo, nơi Trung Ương của Người là điểm ấn chứng khiếu quang Huỳnh Đạo, nơi Trung Ương của Đất gọi là Trung Ương Mồ Kỷ Thổ thuộc Châu Á.
Khí Tiên Thiên bao phủ các cõi trời, khí Hậu Thiên bao phủ các quả địa cầu và con người, thì cũng như Đài Siêu Nhiêncó những vòng lan can bao bọc theo chu vi của mỗi từng trong Đài Báu.
Tại sao Huyền Linh Đài có 12 nấc thang, vì Thập Nhị Khai Thiên (là lấy theo con số Thập Nhị Chi của Trời), thì Đất một chu kỳ có 12 tháng, trong khi Con Người đạt một niên kỷ bằng một chu kỳ của Đất, một Thập Nhị Chi của Trời.
Tại sao Đàu báu có chữ thập và chữ Vạn, vì chữ Thập do Càn tam liên biến sanh. Chữ Vạn do Khôn lục đoạn chuyển thành tượng trưng cho Âm Dương, nam nữ. Trong khi Trời có Âm Dương, Đất có thủy hỏa, Người có nam nữ.
Nhìn Đài Báu thấy rõ phía trước là Vạn Thập, phía sau là Thập Vạn, vì nguồn gốc của Trời là Vô Cực sanh Thái Cực, sau đó Thái Cực sanh Lưỡng Nghi gồm Âm Nghi và Dương Nghi nên Âm trung hữu Dương Căn, Dương trung hữu Âm Căn, thì cũng như trong đất có lửa, ngoài đất có nước, trong lửa có không khí, trong nước có độ nhiệt, thì trong cơ thể con người có trái tim thuộc hành hỏa. Ngoài trái tim có máu bao bọc thuộc hành thủy. Thủy ứ động tại thận, hỏa tích tụ tại tim. Tuy nhiên trong tim cũng có hành thủy, trong Thận cũng có hỏa, đó là trong tim có máu, trong thận có nhiệt khí. Hàn khí, nhiệt khí luôn luôn khắng khít, không rời nhau.
|