TTBP 16. NHỨT BỘ
ê) THUẦN DƯƠNG NHỨT BỘ ĐỘNG TÁC MỘT TRI QUYỀN QUANG TRI HUYỀN QUANG (hình 1) .................................................................................................. Việc vận hành Pháp Đạo Tri Huyền Quang được khởi điểm từ Huê Quang. Qua lần thứ nhì trở lên thì khởi điểm từ Trung Khuyết MỘT LÀ TRI NHẬP HUYỀN QUANG. Bán dà tọa tịnh xoay màn điển trong. Sơn dương thượng, hạ Sơn Âm, Động chuyển thập nhị quang thần danh cha, Nhãn khai, huờn phục trung tòa, Tiếp Huê Quang đến hằng hà siêu linh. Hoàn chung khuyết vị thâm tình, Rạng ngời Thần Điển Nguyên Sinh Pháp truyền. ĐIỂM PHÁP Tọa tịnh chi thể thế bán già, sơn dương thượng, sơn âm hạ vị, Hít hồng tỳ từ Huê Quang lên Thượng Khuyết chuyển xuống Não Bộ xuyên qua Song Quang chuyển thần nhãn thập nhị kỳ ( vừa chớp xong rồi đảo nhãn cũng đồng nhất tự, nhất nguyện danh Thượng Phụ): “Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn”. Xong, tiếp hồng kỳ vào lần 2 từ Trung Khuyết lên Huê Quang đem lên Thượng Khuyết, vòng qua Ngọc Chẩm, xuyên qua Song Quang (gọi là Song Mâu Quang), rồi điểm nhãn thẳng ra cũng chớp đảo y như trên. Muốn nghỉ thì hít Hồng Kỳ tới Đốc Vọng nuốt tân dịch gởi lên Thượng Khuyết. TRI HUYỀN QUANG (Hình 2) .................................................................................................. (Nam mô Huyền Khung CTĐNHĐTT) THI Hiển hóa linh quang khắp cảnh trời, Tiếp giao thu phục điển muôn nơi Lập thành ý nghĩa huyền quang rạng, Động chuyển pháp mầu mãi chiếu soi. Thường thì trong sự phóng xuất thần quang phung phí trong việc hằng ngày thì rất hao thần. Nhưng biết vận dụng thần quang phóng xuất trong pháp tịnh thì lại tăng thêm thần điển. Cũng có nhiều người hành pháp xoay chuyển nhãn quang theo hữu hình chưa đúng mức, nên chẳng đạt ấn chứng vô vi.
THI BÀI Dụng thần Điển chuyển khai quang nhãn, Định thần cho tỏ rạng chơn như; Đem về Thượng Khuyết Đại Từ, Bằng dòng tâm pháp cung hư điểm kỳ. Bầu không khí huyền vi trầm ẩn, Máy huyền cơ linh động làm sao; Chuyển thành sức sống chiếu làu, Bởi vì hấp thụ các màu Âm Dương. Càng xoay chuển vòng cương Nhựt Nguyệt, Để hiện thời ánh tiết giữa trời; Hạt dương đã lọc ra rồi, Biến thành Bửu pháp rạng ngời huyền vi. Một vòng sáng chuyển đi thuận nghịch, Các vì sao chiếu bít cả trời; Mười hai vòng điển minh soi, Có hồng ân của lịch Trời ban ra Sự luân lưu cung tòa huờn phục, Ứng tâm điền chiếu rực Song Quang; Minh kinh vận chuyển khắp tràng, Bửu châu ứng pháp điểm ban huệ đài. Người thọ pháp hằng ngày thường tịnh, Ngoài tịnh kỳ phải định thiền gia; Thông đồng lý pháp sâu xa, Không nên bê trễ việc mà tiếp giao. Giao thông điện cho nhau toàn bộ, Máy tuần huờn mỗi chỗ đều giao; Liên đài tiếp ứng trên cao, Những vầng khí tượng trợ vào Thiền Cơ. Đạo diệu luật giải mờ, thoát mộng, Hiệp tinh thần khoảng rộng hư linh; Sáng soi tự bổn nguồn sinh, Lập nên Đại Đạo đẹp tình cội nguyên. ĐỘNG TÁC HAI THÔNG THIÊN NHĨ Việc vận hành Pháp Đạo Thông Thiên Nhĩ được khởi điểm từ Thính Hội. THÔNG THIÊN NHĨ (hình 2) .................................................................................................. (Um Ma Ni Bac Rị Họng) HAI LÀ KHAI NHĨ THÔNG THIÊN, Mượn danh siêu thức mà tìm Ma Ni. Khởi từ Thính Hội truyền đi, Khuyết Cung hạ Bát Quái thì Mạng Môn. Xuyên qua Cốc Đạo siêu hồn, Tiền trình Trung Khuyết, nhậm tân nghịch hành. Khai thông Thính Hội cho rành, Chơn tinh đầy đủ lập thành kim đơn. ĐIỂM PHÁP “Um Ma Ni Bac Rị Họng”, (tiếng vọng rền bên trong) Siêu thức chuyển hồng kỳ cho vào nơi Thính Hội đưa lên Thượng Khuyết rồi chuyển xuống cập theo đường Bái Quái tới Mạng Môn xuyên qua Cốc Đạo (từ bến mê vượt vũ hà sang qua bờ giác), rồi đưa lên phía trước tới Yết Hầu nhậm tân dịch, và chuyển ngược vòng ra hai nơi Thính Hội.
Nếu ở Nhĩ (tai) được khai thông bằng phương pháp của động tác hành pháp thì sự ấn chứng là chỗ tinh thuần, đạt đến mức siêu xuất, nghe thấu cơ mật của Thiên Điều, ấy gọi là Thông Thiên Nhĩ vậy. THI Chuyển lập đài gương hiện pháp thân, Thinh thinh vạn cõi tiếp giao phần. Kim đơn thâu xuất minh cơ triết, Ý thức vận hành ứng bản thân.
Đó là ý nghĩa tiếp giao từ vạn cõi đồng thinh trong mỗi tầng điển. Mỗi tầng điển ấy tự có trong đất trời mầu nhiệm, cũng như trong bộ máy châu thân của con người. THÔNG THIÊN NHĨ (hình 2) .................................................................................................. THI BÀI Dùng huyền diệu linh nhiên khai xuất, Điển tinh thần đúng mức thiền cơ; Không còn Thần Điển vật vờ, Bao phen phải đợi, phải chờ làm nên. Hiện Tinh Điển từng trên đầu mối, Chia khắp cùng đường lối châu thân; Xoay quanh bộ máy tuần hườn, Lọc lừa tinh chất kim đơn tạo thành. Mượn nhục thân ngụ tinh mà luyện, Khi trả xong nghiệp chuyển thời lai; Kim Thân Thánh Thể linh oai, Đó là phẩm đức vị tài Siêu Nhiên. Mỗi luồng điển tiếp truyền hệ thống, Đều ứng theo chiều rộng, chiều dài; Lý Nguyên không thể chia hai, Âm Dương đồng thể, trong ngoài như nhau. Vận khí tiết trên cao, dưới thấp, Hành chân không hư thật, thật hư; Từ trong thiên tính, tính người, Cũng đều có đủ chơn như điển trời. Máy hô hấp tự thời đã sẳn, Pháp vận hành chỉ đặng đổi trao; Cho thông các mạch tiếp giao, Cũng nhiều bộ máy vận hào bao quanh. Đường hướng Đạo tinh anh siêu việt, Luật công bằng hiền triết minh khai; Vẫn y từ thuở bổn đài, Lọc lừa tuyển chọn đến nay đã nhiều. Những căn cơ sớm chiều mong mỏi, Sự vận hành theo dõi bước đường; Nay từ ý nhiệm soi gương, Tàng Thơ Bửu Pháp dẫn đường Cơ Quy. Đâu cũng được dự thi tài đức, Đâu cũng đều thi sức, thi công; Cùng nhau lo việc Đại Đồng, Sáng ngời yếu lý tinh thông nhiệm truyền. Từ lâu rồi gắn liền mong đợi, Đem tinh hoa vào tới vạn bang; Nóng lòng vì nghiệp Vương Hoàng, Lập nên kịp chuyển Bửu Tàng Pháp Thơ. Càng giản dị như tờ tự thuật, Phương pháp trao đúng mức luyện gìn; Thấu tường cơ mật Nguyên Sinh; Đông Tây, kim cổ phỉ tình ước mơ. Nền khoa học hưởng nhờ nguồn bản, Tự tinh hoa tỏ rạng cổ truyền; Càng thêm hiển hiện khuôn viên, Sách trao là cả nhiệm truyền tinh thông. Việc đáng kể nằm trong bí quyết, Cũng khởi nguồn từ Việt Nam đây; Trung Ương Đài Báu ứng khai, Tân Dân Thánh Đức là ngày Quy Linh. Các trí thức anh minh tài đức, Mỗi nơi đều thọ chức cầu phong; Nhờ nơi Nguyên Lý Đại Đồng, Gặp nhau ở chỗ khai thông bí truyền. Là có đủ sinh viên thọ học, Cả nước đều chọn lọc phẩm gương; Đem về nơi tận địa phương, Là Thông Thiên Nhĩ tận tường trước sau. Xem Tử Vi thấp cao mới biết, Hoặc Dịch Kinh Đại Việt, Văn Khoa; Thấu rành lý số mà ra, Nơi vòng Nguyên Lý mới là đầu tiên. Những năm qua gắn liền từng việc, Về văn minh cho biết đã nhiều; Vẫn là Nguyên Tử đánh liều, Nguyên Sinh thì chẳng hiểu nhiều càng nguy. Ngày Âu, Mỹ sầu bị lo lắng, Là ngày chưa tầm đặng Nguyên Sinh; Nguyên Sinh tự ở trong mình, Chạy quanh rồi lại đáo nhìn bản thân. Nên bị liệt vào phần trì trệ, Còn nhiều nơi lại trễ, chẳng tròn; Cũng vì quá kể dị đoan, Cho rằng huyền bí chẳng còn hiện nay. Người tin Đạo muôn loài đều hưởng, Triết lý suông hẹp lượng mà thôi; Lý và hành phải đi đôi, Tùy duyên hạn hẹp chẳng rời ban ơn. Tâm Vũ trụ: Thiên, Nhơn hợp nhất, Căn bản là vạn vật đồng linh;, Nên đồng có cả Điển Tinh, Nên nghe được cả sự tình như nhau. Nên Khí Điển càng trau gìn luyện, Nguyên Lý chung là điển nhiếp thông; Nhiếp nơi tại ngoại một vòng, Mới rành Tinh Điển Đại Đồng là chi. Càng thấu triệt siêu vi quá khứ, Càng tỏ tường định chữ tương lai; Nhân sinh kiếp sống trổ tài, Huyền cơ, y bốc nào sai tự tìm. Cái chân tướng đương quyền thế lực, Hành động nào sự thực như nguyền; Cho nên các bậc cầm quyền, Phải thông Nguyên Lý mới tìm việc chung. Quyền ở chỗ Cửu Cung Đài Báu, Quyền Hư Linh từ Hạo Nguơn xoay; Vô tình chi lại chia hai, Xác hồn chẳng rõ, ly khai Đạo Đời. Xem lịch sử con người vĩ đại, Nhưng có ai tồn tại được đâu? Phù sanh một kiếp dãi dầu, Trăm năm rồi cũng nặng sầu chia ly. Nay Bửu Pháp truyền ghi mỗi thứ, Để tạo thành đầy đủ tinh hoa; Suy gần mà cũng nghiệm xa, Tìm nơi đầu máy tạo ra con người. Chế người máy cũng từ điện tử, Nhưng làm sao có đủ những gì; Gọi là rung cảm, thức tri, Linh hồn báu trọng huyền vi cho người. Xưa PHỤC HY cộng trừ điện lực, Rồi lập ra nghi thức 8 cung,; Ngày nay chiếu đó mà dùng, Nay cơ Quy Nhứt, Cửu Cung làm nền. Về Tịnh Giới làm nên nhiều mặt, Về biến thiên sắp đặt lớp khuôn; Cực kỳ hiển hiện tỏ tường, Nguyên Sinh mới thật là nguồn cội Nguyên. Sự ngược xuôi con thuyền chơn lý, Cũng phải tường mật chỉ từng giờ, Những điều quan trọng căn cơ, Có ai đoán trước thời giờ cận bên. Hình Nhi Hạ Học nền Thượng Học, Triết lý siêu nguồn gốc đầu tiên; Đông Tây khai thác dần tìm, Càng xem giá trị thiêng liêng tối thừa. Sự phản phục nguyên do rằng luật, Sanh, Khắc đều ý thức vận hành; Chớ mà học mãi Tương Sanh, Không đem Tương Khắc điều hành ra chi ? Nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo, Thoáng Truyện xưa rằng bảo là căn. Cũng vì lẽ sống thường hằng; Phải cần tri lý hóa hoằng nhân sinh. Nhờ đâu có kỳ tinh đầy đủ. Công dụng vào Vũ Trụ kỳ quan, Nhị Nguyên sao lại chấp đoan, Nhất Nguyên thành kiến nói làm chưa y. Hãy đem tiêu cực thì chuyển nhượng. Cho đương thời chấp chưởng phải thời; Lấy cương làm thiện ai ơi, Lấy nhu làm thiện ấy thời đoạn sau. Đạo duy trung thời nào cũng vậy, Đắc vị là đoạt lấy cơ mầu; Ai người quân tử đi đầu, Học thông Nguyên Lý là câu mật truyền. HẠO NGƯƠN KHÍ (hình 1) .................................................................................................. BA LÀ LUYỆN KHÍ HẠO NGUƠN, Lấy siêu thức chuyển từ nguồn Tố Liêu. Sang cung Thượng Khuyết giảm đều, Nhậm tân, minh trực, hạ triều Khuyết Trung. Rồi sang khuyết Hạ, Khôn cung, Lại sang bờ giác mỗi trung tại hà. Huỳnh đình nghịch điểm tinh ba, Chuyển lên Giáp Tích, Tam Hoa tựu đài. Tọa hành Tam Thế Như Lai, Khí thiên chiếu diệu linh oai chập chờn.
ĐIỂM PHÁP Nhiếp ứng hồng kỳ từ Tố Liêu lên Thượng Khuyết, minh trực, nhậm tân. Rồi đưa xuống Trung Khuyết minh trực nhậm tân. Rồi đưa xuống Hạ Khuyết bình chuyển, minh trực, nhận tân. Vượt Vũ Hà sang bờ giác đưa lên Trung Khuyết minh trực nhậm tân. Tiếp theo là từ Trung Khuyết đưa ngược lại Huỳnh Đình vòng lên Giáp Tích minh trực, nhậm tân lần chót và trụ hình Tam Huê đồng dâng Tựu Đảnh. (chú ý: Trong toàn phần Tàng Thơ Bửu Pháp chỉ nói đến Huỳnh Đình ở Huyền Linh Đài chớ không phải Huỳnh Đình ở Diệu Pháp Đài). HẠO NGUƠN KHÍ (hình 2) .................................................................................................. THI Xem thời vị trung kiên, chánh trực, Quân tử thời đúng mực tài hiền. Làm sao không phí khí thiêng. Hạo Nguơn chi khí đầu tiên thọ kỳ. Dầu có thể chuyển đi, dời lai, Học chữ thời giữ mãi lòng chơn; Vị thời làm được nhất ngôn, Có thời thiếu Vị thiệt hơn đợi chờ. Sự Mâu Thuẫn nên hờ tường dựng. Lại vô tình xem Thuẫn tường Mâu; Tinh thông triết lý mặc dầu, Lý thời hai lẽ vận cầu khác nhau. Đạo bất cứ nơi nào đều dụng, Nhưng hiện thời phải vững lý Đời; Âm Dương nào kén chọn nơi, Nhưng Dương còn có cõi thời Thiếu Dương. Âm cũng vậy mỗi đường còn thiếu, Hoặc Đủ Dương hoặc chiếu Toàn Âm; Tùy theo hưng thịnh việc làm, Sự hòa cho đúng, Dương Âm đủ đầy. Đạo tự nhiên là đây hiệp đủ, Thiên Địa Nhơn, Tam Bửu, Ngũ Hành, Trời Dương cảm đất Âm sanh. Trong khi Đạo vẫn bao quanh lý thiền. Thiền trong lẽ tự nhiên giao phối, Thiền trong khi sáng tối mãi còn; Thiền gia là bổn tâm son, Lấy thiền nuôi nấng sự còn khi sanh. Lấy Ly Khảm phân rành Ký Vị, Thủy Hỏa thông, Hỏa Thủy đều thông; Tận cùng là chỗ giáp vòng, Ưng vô sở trụ thì không nghẹn đường. Học Hà Đồ rộng phương nghiên cứu, Rành Lạc Thư từ ngữ chỉnh tề; Kiền tâm nội ngoại nghiệm bề, Sao cho ứng với lời thề vị ngôi. Bửu Pháp ẩn trong Đời mà luyện, Mới đạt phần hiển hiện Đạo gia; Giải bày nghĩa lý sâu xa, Âm Dương hai mối cũng là tượng trưng. Phân lưỡng nghi rồi phân tứ tượng, Bát Quái thời kết xướng tam hào; Mỗi phương hướng định khác nhau, Thuần Dương quán triệt soi vào căn cơ. Khí Hạo Nguơn bao giờ vẫn mãi, Nội ngoại thông tự tại đều đồng; Một phần do ở chơn tâm, Một phần do đạt khí thần chơn Dương. Điểm trung cung chia phương vạn khắp, Tìm căn nguyên của các hành tinh; Tìm nơi phát xuất màu Huỳnh, Đó là điểm tại Ngọc Đình trung ương. Thổ Kim Thủy Mộc tường sinh Hỏa. Thủy Hỏa Kim Mộc đã khắc Trung; Thuận hành nghịch chuyển nhau cùng, Tầm tri biến đổi cảnh cung điều hành. Sự liên hợp đồng thanh tương ứng, Đất, Trời, Người bền vững từ lâu; Cảm giao đồng khí tương cầu, Thiên nhiên tự tánh một mầu hư linh. Khi nghiên cứu về mình sẽ rõ, Nhịp quả tim chỉ có bao lần; Thay vì hô hấp từ trong, Khác hơn tự có bốn lần, khác nhau. Sự đồng nhịp trước sau thuần thuộc, Lẽ vận hành mới được như xưa; Đó là hợp với đại thừa, Chuyển từ hơi thở truyền đưa điển lành. Vậy mới biết điều hành quy luật, Vậy mới hay đánh thức mộng trần; Có thân phải biết rèn thân, Thân trần dễ luyện mười phần thân Tiên. Người có đủ nhân duyên tùy chọn, Để kết tinh đủ món, đủ phần; Chuyện tu so thiệt tính hơn, Tu hành luyện kết huờn đơn diệu mầu. Khi biết rõ đôi câu minh triết, Sự vận hành siêu việt, siêu linh; Con người, muôn vật rõ tình, Thiên nhiên là lẽ công bình nhuận ban. Hạo Ngươn Khí muôn ngàn tinh tuyệt, Đem Hạo Nhiên vào chiếc thuyền thân; Liệu lường cho đủ lượng cân, Pháp duyên soi sáng thêm phần tinh nguyên. THI Tuần tự di hành khắp mọi nơi, Để làm mạch nối điển trong trời. Con người cũng vậy, thông đồng pháp, Để đạt viên dung bổn vị ngời. Đó là viên dung chỗ thanh tịnh để đạt chân không. Hay nói rằng đạt đết sự rộng lớn của hư không. ĐỘNG TÁC BỐN MINH CHƠN KHẨU Việc vận hành Pháp Đạo Minh Chơn Khẩu được khởi điểm từ Huê Quang, sẽ truyền đi nơi nhị hành sơn Âm và Dương. MINH CHƠN KHẨU (hình 1) .................................................................................................. BỐN LÀ KHAI KHẨU MINH CHƠN, Bế quang; ngọa tịnh linh đơn điểm kỳ. Sơn Dương chuyển thượng cho y, Sơn Âm lập hạ hồng kỳ tùng giao. Trùng quang giao thới mấy câu, Quy giao trung khuyết liền thâu điểm bình. Xong rồi thượng chuyển khuyết minh, Niệm danh Kim Mẫu siêu linh nhiếp hòa. Bình chuyển Huỳnh đình sang qua, Tam thập lục chuyển danh Cha thuận hành. Biết rằng tam độ lưu thanh, Sang hồng kỳ đến vận hành trung tâm. Nhậm tân tại vọng làm chơn, Niệm tịnh khẩu nghiệp chơn ngôn tam hào. Hồng kỳ thông xuất Ngân Giao, Siêu thức làm chủ Đài Cao hưởng phần. Làm chủ Đài Cao cũng là chỗ đạt đến sự rộng lớn của hư không. Tuy nói rằng hư không, nhưng trong đó rất tuyệt nhiên kỳ diệu. Sự luân chuyển tự nhiên của hư không đã biến thành khí điển lẫn lộn trong khắp cả hư không. Vì từ thiên địa thủy sơ đã có nhứt khí hư vô, rồi nhị khí, tứ khí và ngũ khí, sau đó lập thành Bát Quái phân định Ngũ Hành Tiên Thiên vẫn là Thủy Mộc Kim Thổ “Hà Đồ”. Khí điển đó hòa lẫn hỗn hợp cùng Âm Dương nên biến sanh muôn loài vạn vật. ĐIỂM PHÁP Ngọa tịnh chi thể, bế thần nhãn, hành Sơn Dương chuyển thượng, hành Sơn Âm lập hạ. Sơn Dương chuyển thượng hít hồng kỳ vào Sơn Âm và Sơn Dương niệm: “Nam mô Âm Dương giao thới nhựt nguyệt trùng quang” và thở ra. Gom mối Âm Dương nơi trung khuyết (ngưng hồng kỳ một chút), đem lên thượng khuyết niệm: “Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Thượng Đẳng Vô Cựu Từ Tôn”. (ngưng hồng kỳ một chút), rồi đưa xuống cung Huỳnh Đình tiếp tam thập lục chuyển, đồng niệm: “Nam mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn”. Niệm đủ vận tam kỳ là đủ tam thập lục chuyenr theo thuận kim đồng hồ rồi hít hồng kỳ lên Trung Khuyết, nuốt tân dịch tại đốc vọng và niệm: “Nam mô Tịnh Khẩu Nghiệp Chơn Ngôn”. Khi niệm đủ vận kỳ tam độ liền cho hồng kỳ phát ra, siêu thức chuyển hồng kỳ đưa lên Thượng Khuyết, cũng là lúc hồng kỳ phát ra từ Ngân Giao. THI Âm Dương giao thới chuyển đồng thông, Nhựt Nguyệt vận hành biến phép xong. Gom đủ tinh hoa từ mật chỉ, Hiệp về nhứt bổn dự công đồng. MINH CHƠN KHẨU (hình 2) .................................................................................................. (Ấn chứng M.C.K) .................................................................................................. (Âm Dương giao thới…/Diêu Trì…/Huyền Khung…/Tịnh khẩu nghiệp …) THI BÀI Việc Chơn Khẩu minh viên Đại Tịnh, Được sắp rành điểm chính ngoại thành; Âm Dương kết mối liên hành, Hà đồ vận chuyển lập thành kim đơn. Huyền diệu ứng phục huờn Thiên Đạo, Dụng tinh ba rèn tạo bổn căn; Khai nguồn mạch sống vĩnh hằng, Lý thiền nuôi nấng bản căn điểm kỳ. Người hành pháp ngại gì công khó. Khi mượn thân cũng bỏ lại trần; Tìm ra lẽ thật nguyên chân, Mới là cao cả muôn phần về sau. Đời chỉ biết công lao ngắn ngủi, Chẳng định phân những chuỗi thời gian; Trong khi công việc phải làm, Thì đâu đoán biết đời tàn, kiếp phai. Trong cái nhìn bi ai của thế, Đã cảm trong suối lệ trào tuôn; Tự nhiên đời cũng thấy buồn, Bởi vòng nghiệp lực ai vương phải nhằm. Mang cả kiếp trăm năm duyên phận Để hẹn hò lẩn quẩn kiếp sau; Đến bao giờ được soi vào, Tận nguồn duyên bổn, vẹn màu điểm chương Nên Từ Mẫu vì thương con dại, Xuống điển huyền để lại Tàng Thơ; Bao giờ cho đến bao giờ, Mẹ đây luôn đợi, mãi chờ các con Luyện Thuần Dương không còn lo ngại, Bởi Pháp truyền trái phải đều thông; Cho nên rằng pháp Đại Đồng. Cho nên được gọi ân hồng Tổng Quy. Tâm con trụ là tri thiên mạng, Trụ Kim Thân làm rạng cơ đồ; Thân là bộ máy hấp hô, Ứng trong tất cả hư vô nhiệm mầu. ĐỘNG TÁC NĂM TRỤ KIM THÂN Việc vận hành Pháp Đạo Trụ Kim Thân được khởi điểm từ Huê Quang. TRỤ KIM THÂN (hình 1) .................................................................................................. NĂM LÀ PHÁP TRỤ KIM THÂN, Thế thời bán ngọa Sơn Âm trụ đình. Sơn Dương thượng Khuyết Hải minh, Nhớ quay máy điển mà nhìn thức tâm, Đến Huê Quang lại sang trung, Niệm câu Nhứt Chuyển Dương Quang đủ đầy. Xong Sơn Âm lại sang đây, Niệm câu nhứt chuyển đủ đầy Âm Quang. Danh Cha thuận chuyển rõ ràng, Danh Mẹ nghịch chuyển kết đàng Âm Dương. ĐIỂM PHÁP Bán ngọa tịnh, Hành Sơn Âm trụ đỉnh, Hành Sơn Dương thượng Huyết Hải, bế Thần Nhãn.Tâm niệm từ Huê Quang thẳng xuống tới Trung Khuyết niệm: “Nam Mô Nhứt Chuyển Dương Quang Nhập Thức”. Rồi tâm niệm từ Hành Sơn Âm đến ngay Trung Khuyết thành chữ thập (+) niệm: “Nam mô Nhứt Chuyển Âm Quang Nhập Thức”. Rồi xoay thuận kim đồng hồ thập nhị kỳ niệm: “Nam mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn”. Rồi xoay nghịch kim đồng hồ niệm: “Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Thượng Đẳng Vô Cực Từ Tôn”. Cứ chữ Thập xoay thành chữ Vạn: (.......................). THI Hình nhi ngọa tịnh ứng đài chương, Có đủ cơ ngơi khắp nẽo đường. Thống chuyển vận hành từ máy điển, Âm Dương hiệp nhứt lý siêu thường. TRỤ KIM THÂN (hình 2) .................................................................................................. (ấn chứng TKT) .................................................................................................. (Nhứt chuyển Dương Quang …/ Âm Quang …/ Huyền Khung …/ Diêu Trì …) THI Huỳnh trung bửu ấn lập Tiên Thiên. Chánh Pháp linh cơ mật chỉ truyền. Máy nhiệm tuần huờn thông xuất cả, Thượng hành đạo vị chứng nguơn điền. THI BÀI Trụ Kim Thân tìm đâu chi khó, Trụ vào thân làm tỏ đuốc thiên; Vì thân có đủ gắn liền, Đất cùng gió lửa thiên nhiên kết thành. Thân tự có ngũ hành, ngũ khí, Thân được gom thành ý, khẩu truyền; Mượn thân vì lẽ siêu nhiên, Kim thân bất hoại là tìm vô vi. Những bước tiến còn khi hờ hững, Vì thời gian chưa vững niềm tin; Vì chưa hiểu được chính minh, Mãi đi tìm luyện siêu linh của người. Đạo Pháp siêu từ từ mà đạt, Tầm thiên nhiên phải mát mẻ lòng; Nhàn an mới thấy tâm thông. Mới hầu đạt được lý không của Trời. Rán nhanh lên con ơi! trẻ hỡi! Tâm pháp cần hiểu tới cho thường; Đừng cho tâm động nhiễu nhương, Sự tu mới đạt diệu thường mầu siêu. Trụ Kim Thân phần nhiều lý giảng, Dụng khí tinh ra dạng, ra hình; Luyện tinh phải biết nuôi tinh, Gom thần, tựu khí phải sinh khí thần. Đường Nguyên Lý xa gần do trẻ, Khi thông rành mọi lẽ tình thương; Tùy con chọn lựa con đường, Cũng đồng nhất bổn Mẹ đương trông chờ. Lý Âm Dương bao giờ cũng vậy, Vạn vật đều thứ ấy mà sinh; Xem con có đủ thể hình, Nhưng Âm Dương chẳng quân bình thì nguy. Lời Mẹ giảng nhiều khi khó hiểu, Vẫn nghiệm tìm mầu diệu thêm ra; Thay vì chỉ dạy từng nhà, Mẹ đây hợp lại tinh hoa điều hành. Pháp Vô Vi Mẹ dành kim cổ, Luận Tam Thừa dạy dỗ đủ phần; Phong ban ngôi thứ trọng ân, Để con nào cũng được phần dự thi. Rán nghe con trường kỳ thọ học, Bước trường thi lừa lọc sảy sàng; Để còn điểm chuyển, phong ban, Trên đường sứ mạng vẹn toàn Châu Nguyên. ĐỘNG TÁC SÁU TIÊN THIÊN Ý Việc vận hành Pháp Đạo Tiên Thiên ý được khởi điểm từ Trung Khuyết. TIÊN THIÊN Ý (hình 1) .................................................................................................. SÁU: TIÊN THIÊN Ý LÀM GƯƠNG, Đồng thông Sơn hạ Âm Dương máy huyền. Hồng kỳ tâm thức chuyển liền, Thượng cung đồng niệm Tiên Thiên như lời. Xong rồi chuyển Hạ, Trung ngôi, Bình hồng kỳ lại chia đôi Cực Tuyền. Hạ giáp Trung Khuyết bình Điền, Thương Khưu, Ẩn Bạch, Cực Tuyền giáp Trung. Lại bình lấy vọng làm chơn, Chuyển về Vị Khuyết, nhậm tâm đứng đầu. ĐIỂM PHÁP Ngọa tịnh nghiêm trung, Hành Sơn Âm và Hành Sơn Dương đồng thông lập hạ và phúc quản chi thân, hít hồng kỳ từ Trung Khuyết lên Thượng Khuyết, siêu thức khởi niệm:“Nam Mô Tiên Thiên Chơn Ý Thống Hiệp Huyền Quang Khai Xuất Pháp Thân”. Rồi niệm tưởng đưa xuống Trung Khuyết, ngưng hồn kỳ một chút rồi chia ra hai Cực Tuyền hai bên đưa thẳng tới khuyết Thổ Tinh của nhị Hành Sơn (ngón tay giữa) đi cặp phía trong. Rồi đem hồng kỳ trở lại giáp mối tại Trung Khuyết. Dừng hồng kỳ một chút rồi song song hai mối giáp cặp hai bên Cực Tuyền mà đưa thẳng xuống Thương Khưu, Ẩn Bạch. Xong, lại đem trở lên Cực Tuyền và giáp mối tại Trung Khuyết. Dừng hồng kỳ và đem lên khỏi Đốc Vọng nuốt tân dịch, siêu thức đem lên Thượng Khuyết. THI Tiên Thiên Ý hiệp bổn linh đầu, Nên mỗi vận hành tự ý thâu. Siêu xuất diệu thường đường ứng cảm, Nhận nhau bằng mật chỉ cao sâu. Tiên Thiên Ý (hình 2) .................................................................................................. (Ấn chứng T.T.Y) .................................................................................................. (Nam Mô Tiên Thiên Chơn Ý Thống Hiệp Huyền Quang Khai Xuất Pháp Thân) THI BÀI Tiên Thiên Ý cơ truyền mật nhiệm, Sắp thành hình linh điển ba nơi; Thượng, Trung, Hạ của Đất Trời, Chuyển người tiến hóa kịp thời cảnh linh. Dầu ẩn pháp tùy thinh vẹn giữ, Dầu Mật Tâm ngôn ngữ tinh vi; Nhập cung định vị hội kỳ, Bữu châu ngời tỏa phương phi nhíp hòa. Vì tất cả tinh ba may nhiệm, Vì thiền cơ hành chuyển đều đồng; Ứng khai lưu vận đều thông, Chiếu theo luật chỉ Đại Đồng bổn nguyên. Luôn mở rộng Tiên Thiên môn thượng, Tiếp mỗi nơi chấp chưởng nơi phần; Căn cơ gìn phận tu thân, Huờn nguyên định vị hồng ân mật truyền. Đài Nguyên Sinh tiếp liên muôn cảnh, Nhưng đảm đang thọ lãnh kỳ trung; Đại ân thiên mạng thính tùng, Pháp nguyên gìn giữ huờn chung nhập đài. Lấy ý diệu đồng hai phúc quản, Âm Dương đồng linh cảm toàn thân; Thế hành ngọa tịnh nghiêm trung, Tiên Thiên Ý chuyển vạn trùng hồng quan. Xem gom đủ muôn ngàn linh nhiệm, Trước tượng hình ba điển như nhau; Cũng như tuần tự trước sau, Âm Dương ký tế trợ vào thần quang. Giờ giảng pháp còn đang xung điển, Những pháp thần con luyên hôm nay; Trợ duyên siêu điển thêm hay, Lời châu Mẹ giảng thêm hoài cho con. Phút vắng lặng chỉ còn ngân vọng, Chuyển từ lời Mẹ phóng điển trao; Dạy con bớt nghiệp cho mau, Nghiệp chưa trả dứt lẽ nào lại thêm. Cảnh Tây Phương êm đềm thư thả, Ở lòng con cũng đã có rồi; Sao con khó đứng, khôn ngồi, Xét xem tiền nghiệp ôi thôi quá nhiều ! Rán nghe con thà liều kiếp trả, Còn hơn ngồi buồn bã phí thêm; Thời gian đâu những gộng kềm, Có đâu nhường bước cho thêm tuổi đời. ĐỘNG TÁC BẢY AN LƯ LẬP ĐẢNH Việc vận hành Pháp Đạo An Lư Lập Đảnh được khởi điểm từ Huê Quang. AN LƯ LẬP ĐẢNH (hình 1) .................................................................................................. BẢY LÀ LẬP ĐẢNH AN LƯ, Trước là tọa tịnh bế cầu nhị quang. Túc Dương cao đệ rõ ràng, Sơn Dương điểm thập bát tràng ngọc châu. Sơn Âm tùng Túc Âm cầu, Hậu Dương kỳ tại trung bầu Túc Âm. Nam thì điểm tại Huê Quang, Mô Nhân Trung đó, A sang Tả Thần. Di là Hửu Mạng lộ chơn, Đà kia Hạ Khuyết, Phật ân Trung Đài. Siêu thức thông xuất thường khai, Lại cùng trụ thể rõ bày Âm Dương. Nhị Sơn điểm khuyết Càn cung, Thế đồng lập hạ ứng cùng Đông Nam. Sơn Dương trung chuyển Nhựt Quang, Xong rồi hạ vị, Sơn Âm Nguyệt Đài. Rồi đồng kết chuyển Tam Tài, Hoàn chung khuyết vị ngọc đài kim chuyên. ĐIỂM PHÁP Tọa tịnh chi thể, bế thần nhãn, tọa hình Túc Dương cao đệ. Hành Sơn Dương điểm vòng chuổi ngọc thập bát tràng. Hành Sơn Âm nương theo Túc Âm, Hậu Dương Túc tại trung phần Túc Âm, siêu thức niệm: “NAM tại Huê Quang, MÔ tại Nhân Trung, A tại Tả Mạng, DI tại Hữu Mạng, ĐÀ tại Hạ Khuyết, PHẬT tại Trung Khuyết”. Hít hồng kỳ thật dài cho ra từ từ, vừa đứng lên theo thế chữ nhơn (........), nhị Hành Sơn quyết Tý cung Càn thông đồng lập hạ, thần nhãn hướng hơi nghiêng về Hành Sơn Âm (Đông Nam).Xong Hành Sơn Dương từ từ đem lên ngang qua bên trái, siêu thức ứng chuyển trên cung Ngũ Hành, Nhựt Quang sáng tỏ. Siêu thức lại chuyển vào tâm khi Hành Sơn Dương hạ chuyển thì Hành Sơn Âm cũng vừa thượng chuyển đem lên ngang qua bên phải, siêu thức ứng chuyển, Nguyệt Quang sáng tỏ. Xong siêu thức đưa vầng điển Nguyệt Quang trở lại Trung Khuyết và hạ vị. Kế tiếp Nhị Hành Sơn lại từ từ đưa lên ngay Trung Khuyết, Ngũ Hành Âm và Dương chạm nhau nghe tiếng nhịp đều trong ấy là đúng. Rồi từ siêu thức ứng chuyển Tinh Quang sáng tỏ sẽ hiện trên cung Ngũ Hành ấy. Khi gom đủ Nhựt Nguyệt Tinh rồi thì siêu thức ứng chuyển nhị Hành Sơn đưa vầng điển đang chuyển (Nhựt Nguyệt Tinh: Kim Chuyên Như Ý) đem thẳng lên Thượng Đảnh. Siêu thức càng hiển lộ sự xoay nhanh và sáng tỏ. Khi nào muốn nghỉ động tác nầy thì rút nhị Hành Sơn xuống sẽ thấy vòng quanh điển An Lư sẽ chụp lên Thượng Khuyết (Thượng Đảnh): ấy gọi là Lập Đảnh vậy. THI An Lư Lập Đảnh xuất giao thần, Đệ nhứt xác thân, đị nhị thân. Pháp nhiệm lập thành từ hóa thể, Đủ đầy báu vật ở trong thân. Sau khi tìm đủ nguyên nhân, định đoạt được lẽ mầu nhiệm của điều kết hợp thân tứ đại giả nầy là có đủ phương pháp chứng đắc từ đệ nhứt xác thân thành đệ nhị xác thân. AN LƯ LẬP ĐẢNH (hình 2) .................................................................................................. (Ấn chứng ALLĐ: Lục Tự Di Đà) .................................................................................................. THI Diệu lý ban truyền lập Đảnh Lư, Minh trình bửu cảnh tại thiên thư. Hậu kỳ mở hội khoa tràng dự, Định xuất thời trung chuyển đại từ. Linh điển Tam Bửu nếu biết lọc ra riêng biệt của mỗi ánh sáng tinh anh cùng cực, thì sự phân biệt mới thấy rõ đó là Nhựt Nguyệt Tinh trong mỗi dạng hình. AN LƯ LẬP ĐẢNH (hình 3) .................................................................................................. (Nhựt Quang trên Hành Sơn Dương) Chuyển Nhựt Nguyệt Tinh bằng tư tưởng Thuần Dương là dùng Huê Quang mà chiếu vào để vận chuyển theo Pháp Đạo thì sẽ thấy muôn vàn mầu nhiệm, khi vòng điển được tách rời ra ở vòng cung, thì ý tưởng muốn đem đến đâu cũng được dễ dàng, nên gọi vòng điển ấy là Kim Chuyên Như Ý. Nếu vòng Kim Chuyên Như Ý vận chuyển trên Thượng Khuyết thì gọi là An Lư, và gắn trên Kinh Đảnh thì gọi là Lập Đảnh. Kim Chuyên Như Ý như một sợi chỉ nhỏ nhưng kết tựu đầy tinh ba rắn chắc khôn lường, luôn luôn ẩn xuất nơi các đường kinh mạch, tủy sóng, khi vào lúc ra, luôn vận chuyển xoay tròn để thu hút cà buông thả thần điển theo sự giao cảm tự nhiên đều khắp. THI BÀI Chuyển An Lư Thiên Tòa mở rộng, Thống xuất Linh Tiêu động, Thầy khai; Hồng ân ban xuống huệ đài, Cho con chung tất hiền tài đảm đang. Duyên kiếp định đề trang danh phẩm, Thọ lịnh truyền tô đậm nét duyên; Làm sao cho đúng ý Thiên, Làm sao cho đúng Bửu Truyền Tàng Thơ Sự kết tựu theo giờ Nguyên Lý, Tuyệt vời xa thuần túy bí truyền; Trước sau đồng hướng Chân Nguyên, Siêu phàm nhập Thánh đắc truyền Bửu Kinh. Máy Âm Dương thông tình Nhật Nguyệt, Sự giao hòa mỗi chiếc hành tinh; Đồng chung là đại gia đình, Vận hành khí quyển màu xanh rực ngời. Màu xanh của Đất Trời tổng hợp, Chẳng biệt phân những lớp bụi trần; Vì màu xanh ấy của chung, Của Trời, của Đất, của cùng Âm Dương. Lập đặng Đạo mười phương đồng một, Là nhìn nhau sự rốt màu xanh; Phủ trùm trong mỗi vận hành, Hư linh tinh tuyệt, thiên thanh rộng tràn. Những trãi thân tựa màn nhân thế, Biết lập thân bảo vệ nguồn ân; Căn cơ duyên bổn phục huờn, Là do mỗi bước keo sơn thệ nguyền. Trong sự chuyển Pháp Đạo cần phải gìn giữ ý mật cho thật trọn vẹn bên trong, vì huyền cơ bất lậu, huyền cơ đây là linh điển vô vi mà mình đã đạt được. Cơ duyên đáng lưu ý nhứt là những người trong sứ mạng Thiên ân, không vì trước kia sẵn có cơ duyên lớn, Phẩm Đạo còn nhiều trong linh thể, mà chẳng chịu gìn theo khuôn thước của lề luật mới. Chỉ có lề luật mới của Tàng Thơ Bửu Pháp mới gom luyện tròn đủ những Phẩm Đạo tự có của mình hầu đạt thành, kịp ngày giờ làm việc cho Cơ Thiên, vì đây là hồng ân đại điểm của cơ Đại Đồng vận chuyển. Nếu vì thố lộ huyền cơ đôi chút là mất niềm tin của Thầy Mẹ, huống hồ chi trong cõi nhân sinh. Huyền cơ là sự kết hợp thông đồng điện năng trong một nguồn máy. Nguồn máy nhỏ là của con người, nguồn máy lớn là của Tạo Hóa. AN LƯ LẬP ĐẢNH (hình 4) .................................................................................................. (Ấn chứng ALLĐ: Nhựt Quang trên Hành Sơn Dương) .................................................................................................. Sự đồng thông bao giờ cũng điều hòa như hơi thở của con người luôn thông xuất hòa nhập một cách thiên nhiên, tự nhiên mà không hề thay đổi. Nhưng huyền cơ linh điển luôn luôn ứng chuyển trong quy luật tự nhiên để con người ứng ngộ cái biết, cái có, cái thật chứng mà mình đã tìm được ấy, chớ dùng lời lẽ để diễn tả thì bằng cách nào cũng khó đúng với lẽ thật, mà còn vô tình sự diễn đạt có chỗ cách biệt xa vời với một ấn chứng vô vi mầu nhiệm của thiên nhiên. Huyền cơ luôn luôn biến đổi theo khả năng hành nhiệm và khiếu điển thiên nhiên tự có của mỗi căn cơ duyên giác, của mỗi sự kết hợp trước sau hài hòa ứng cảm. AN LƯ LẬP ĐẢNH (hình 5) .................................................................................................. (Nguyệt Quang trên Hành Sơn Âm) An Lư Lập Đảnh cần được trao đổi ý kiến trong phần Hội Kiến Pháp Môn về siêu thức vận hành chớ không nên vẽ ra lý siêu thức. THI Đừng nên thố lộ phép ra ngoài, Mà cứ xoay trong thế vẫn xoay. Ẩn tướng, ẩn thân, ưu ẩn thế, Tự nhiên thống xuất ứng hoằng khai. Không thể lậu điển, lậu pháp trước tình hình bổn thân chưa ổn định, còn đang dễ bị ảnh hưởng trước khí điển Nguyên Tử chen vào. Các con hiền nguyên căn sứ mạng đang gìn luyện pháp nguyên trước sự biến chuyển giữa thời đại Nguyên Tử thì không thể xem thường những khí chất độc hại của Nguyên Tử hóa học đang dãy đầy khắp mọi nơi. Chỉ có sức thu hút mạnh mẽ của khí điển Nguyên Sinh là loại điển Thuần Chuyển Nhất Quy mới hầu cảm hóa được Nguyên Tử mà thôi. Nhưng các con tình hình đang giồi luyện khí chất Nguyên Sinh thuở còn non kém, thì không thể vội vàng mà được, không khéo, các con khó bảo toàn được nguồn linh điển tự có của mình. Nên không thể xem thường việc tiếp xúc nhiều với những sự biến động bên ngoài khi tâm mình chưa đạt tịnh, và cũng không thể lấy những ấn chứng tự có của căn cơ, hoặc ấn chứng do có được từ Thuần Dương Bí Chỉ, hoặc ấn chứng do đạt được từ những nhân duyên kết hợp hiện thời mà truyền Pháp Đạo cho người khác, mà sự truyền pháp luôn luôn chiếu vào Tàng Thơ Bửu Pháp để truyền. Muốn thông đạt một cách trọn vẹn về Tàng Thơ Bửu Pháp thì cần phải nắm vững chắc về hình thức chủ lực nhất ở Hội Kiến Pháp Môn đối với Bộ Phận Siêu Nhiên, Bộ Phận Hoằng Dương Chánh Pháp, các Sĩ Nguyên nòng cốt, các Sĩ Đài gương mẫu. Thường thì trong sự khai triển Pháp Đạo đại thừa chưa được phổ biến đúng mức, vì có rất nhiều ý mật ở siêu pháp mà chẳng thể lộ ra, chỉ ngại làm ảnh hưởng đến những ý thông thường chẳng đặng giải bày tường tận. Chính vì những sai dời điểm nhỏ nhưng cũng có thể gây thiệt hại cho rất nhiều những công việc lớn về sau. Khẩu Khuyết Tâm Truyền là một lý chấp không, vì chỉ truyền tâm bằng ý thức cảm hóa mà chẳng dặng dùng lời lẻ hay từ ngữ nào thay thế được, nên đã nhận chìm phương tiện hữu vi một cách quá đáng, nên sau đó hình thức Khẩu Khuyết Tâm Truyền được đổi lại thành Khẩu Thuyết Tâm Truyền, là cách truyền bí quyết bằng tâm, nhưng được mượn lời nói để chỉ dẫn, mà không dùng chữ viết để ghi. Nhưng khi truyền Mật Tâm Bí Quyết chỉ dụng lời lẽ mà không có chữ viết để ghi lại thì cũng rất dễ ảnh hưởng biết bao khả năng biến theo ấn chứng riêng mà truyền, chớ không phải bí quyết chung do Tàng Thơ Bửu Pháp chỉ truyền. Nên Tàng Thơ Bửu Pháp khi giảng đến Khẩu Thuyết Tâm Truyền thì luôn luôn kết hợp giữa hữu và vô để phá vỡ mọi sự chấp không, chấp có. Đó chính là những ký hiệu được đề ra nhằm phục vụ cho các giờ Hội Kiến Pháp Môn được hiểu một cách thống nhứt tinh tường.Tàng Thơ Bửu Pháp đã hiển hiện suốt cả một thời gian trên nhiệm trình Pháp Đạo của các ban hành pháp mà chứng minh về Phẩm Nguyên, rồi sau đó mới có thống nhất trong ý nghĩa tổng quy, là tổng quy mỗi ấn chứng do mình đã kết tụ được hiện thời, hoặc đã tạo được từ trước mà cộng lại thành một Phẩm Nguyên. AN LƯ LẬP ĐẢNH (hình 6) .................................................................................................. (Ấn chứng Allđ - Nguyệt quang trên Hành Sơn Âm) .................................................................................................. Những hình ảnh được ghi nhận trong sách Tàng Thơ Bửu Pháp, là điển hình khái lược về hình thức chung trong tư thế vận hành, cũng như những hình ảnh ấn chứng riêng do các Sĩ Nguyên đã đạt được. Không nên đem hình ảnh riêng mà luận giải, mà để tự nhiên cho người hành pháp nhìn hình ảnh riêng để tự xem xét kiểm nghiệm về những ấn chứng của mình đã đạt được. AN LƯ LẬP ĐẢNH (Hình 7) .................................................................................................. (Tinh Quang trên nhị Hành Sơn) Để phân biệt dễ hiểu giữa hình thức chung và ấn chứng riêng, thì những hình ảnh được chọn trong Thuần Dương với những bộ đại phục thanh thiên của Sĩ Nguyên là hình thức chung, còn những hình ảnh khác hơn thì tùy theo những ấn chứng riêng đã được điển hình gương mẫu. Lý pháp Tổng Quy đa dạng, đa năng, có khả năng giải bày tường tận mỗi u uẩn trong con người, là chìa khóa mở cửa của những bí quyết thành công trong mỗi Pháp Đạo; là điểm chỉ Thuần Dương khởi từ Thái Dương được tiến hóa thêm Dương mà đối lại Thái Âm tiến hóa thêm Âm, cũng như sự biến thể của Nguyên Sinh đi từ Thiếu Dương tiến hóa thêm Dương, từ thiếu Âm tiến hóa thêm Âm trong lẽ đối chuyển Chánh Vị. Mỗi pháp đạo đều có lý lẽ riêng của mình mà thuyết giảng. Nhưng lập thành đơn đạo không thể riêng biệt cách vận thiền Chánh Vị, cũng như phép nấu luyện phải cho đúng giờ giấc, đúng phương hướng tùy theo mỗi động tác của phép vận hành. Tứ Chánh Vị chỉ về Tứ Chánh Dương của Đông Tây Nam Bắc, còn Tứ Chánh Âm chỉ về Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc. Pháp Tổng Quy chỉ lấy con số Thuần Dương Tiên Thiên làm cơ sở chứng minh sự đối ứng thông đồng cùng Thuần Âm Hậu Thiên điểu hành trong vũ trụ, qua hình đồ Tri Tầm Phương Vị và Bát Chánh Vị. Hình Đồ Tri Tầm Phương Vị. .................................................................................................. AN LƯ LẬP ĐẢNH (Hình 8) .................................................................................................. (Ấn chứng ALLĐ - Nhựt Nguyệt Tinh trên nhị Hành Sơn) .................................................................................................. AN LƯ LẠP ĐẢNH (Hình 9) .................................................................................................. (Nhựt Nguyệt Tinh xoay trên kim Đảnh) AN LƯ LẬP ĐẢNH (Hình 10) .................................................................................................. (Ấn chứng ALLĐ - Nhựt Nguyệt Tinh gởi trên kim Đảnh) .................................................................................................. ĐỘNG TÁC TÁM XUẤT LINH TỬ Việc vận hành pháp đạo Xuất Linh Tử được khởi điểm từ trung Khuyết. XUẤT LINH TỬ (hình 1) .................................................................................................. (Nam Mô Kim Chuyên Như Ý Huỳnh Kỳ Đại Đạo Khai Xuất Pháp Thân) TÁM LÀ LINH TỬ XUẤT HUYỀN Tây phương trung điểm Dương liền khuyết Khôn. Sơn Âm như tại Kỳ Dương, Chuyển từ tâm thức thượng lương bệ Đình. Kim Chuyên Như Ý niệm danh, Huỳnh đình ấn tượng khai thành pháp thân. Hồng kỳ xuất nhập lần lần, Cũng từ siêu thức điểm phần liên hoa. Tâm không, tùy khiếu nhiếp hòa, Đoạt huyền như ý rõ là siêu nhân. ĐIỂM PHÁP Trụ hình chi thể,, hướng về Phương Tây. Hành Sơn Dương quyết tý cung khôn để ngay Trung Khuyết, Hành Sơn Âm cũng vậy nhưng hạ vị, bế thần nhãn, hít hồng tỳ từ Trung Khuyết lên Thượng Khuyết cùng câu niệm đi theo: “Nam Mô Kim Chuyên Như Ý Huỳnh Kỳ Đại Đạo Khai Xuất Pháp Thân”. Rồi đem hồng kỳ ra vào nhè nhẹ và siêu thức ứng chuyển giữa một liên trì bửu cảnh, càng nâng pháp thân lên từ hơn năm thước thì bắt đầu tâm không và tùy khiếu điển. THI Điểm pháp xuất linh thấy tuyệt vời, Cũng thông tất cả Đạo và Đời Vô minh không thể che mờ được Nguyên lý Âm Dương của Đất Trời. * * * Siêu thừa mật chỉ xuất oai thần, Như Ý Kim Chuyên kết bổn thân. Tuy thấy dẫu bằng dây chỉ nhỏ, Gắn liền mỗi ý hiệp siêu nhân. * * * Hóa hiện nguơn thần tại pháp thân, Ứng ra muôn cảnh xuất Dương Thần Huỳnh đình tỏ ngộ linh châu rực, Nhiếp phục kỳ trung chiếu điển ngần. * * * Xuất linh hòa nhập cõi hư linh, Trình ý thiên công lập phẩm trình Điển pháp tỏa ngời thông pháp điển, Kinh thơ ứng ngộ đắc tâm kinh. Xuất Linh Tử không phải là xuất đi cái hồn chính thức, mà chỉ xuất hồn phụ thuộc cùng với những phần phách, nhưng cũng có những phần phụ thuộc và vài điểm phách ở lại trực tiếp bên hồn chính thức. Người xuất hồn phụ thuộc và phách trong cơn ngủ cũng là một kỳ quan cực kỳ vi diệu, khi biết rằng những màn ảnh đó do trực giác và thính giác đi tiếp thu bên ngoài rồi chiếu vào cho hồn chính thức xem lại, nhưng chỉ ghi lại những gì đã có thu sẵn đang lưu giữ, khi cần mới chiếu xem lại mà thôi. XUẤT LINH TỬ (Hình 2) .................................................................................................. (Ấn chứng XLT.2: Kim Chuyên Như Ý thống hiệp…) .................................................................................................. THI BÀI Ngày vận chuyển Xuất Linh Tử điển, Máy huyền cơ hiển hiện muôn nơi; Thông cùng bộ máy Đất Trời, Lập thành quy lệ cho đời Thượng Nguơn Chuyển Thánh Đức tuần hườn phục thỉ, Hóa siêu nhiên mật chỉ Từ Tôn; Sĩ Nguyên cây Đạo bảo tồn, Hồng kỳ rạng phất Thiên Ân thầy truyền. Tiếp mật nhiệm không riêng hành nhiệm, Lãnh Tàng Thơ là chuyển Đại Kỳ; Huỳnh môn tượng ấn cung vi, Vừa hành môn nội, vừa đi ngoại thành. Để thông xuất vận hành đều khắp, Bảng phong thần chỉnh sắp ngày xưa; Lập phong thân bảng lọc lừa, Xuất linh hóa hiện rước đưa nhân hiền. Từ các cõi huyền nhiên siêu xuất Đến các nơi phần đất hữu vi; Đến giờ Mẹ chuyển cơ quy, Đắc thành phẩm nhiệm có gì xa đâu? Pháp Hoa Tự trong câu đề rõ, Sử Ngọc đề chứng tỏ minh trưng, Tự nhiên nhàn lạc tâm trung, Đẻn thần sáng rực khắp cùng châu thân. Dụng khí cụ quy phong nồng độ, Vô Lượng Quang từ chổ Di Đà; Ghi âm từ thức lại da, Viên minh mật chỉ chính là cửa thông. Người hay vật đều đồng mật chỉ, Nhưng tùy theo trúc ký định hình; Gom thành ý thức hữu tình, Giải cơn ảo mộng để nhìn lại tâm. ĐỘNG TÁC CHÍN BẾ HUYỀN MÔN Việc vận hành pháp Đạo Bế Huyền Môn được khởi điểm từ Thính Hội ra Ngân Giao. BẾ HUYỀN MÔN (Hình 1) .................................................................................................. CHÍN LÀ PHÁP BẾ HUYỀN MÔN, Sơn Âm Dương hạ. Càn cung khuyết lần Hồng kỳ, chuyển Thính, sang Ngân Tố Liêu lại chuyển đến phân Huê Quang Lại lên Thượng Khuyết nhập tràng, Lại xuống môn hạ mà sang Huỳnh Đình Lại tìm Nhũ Bộ xoay quanh, Độ tam tượng ấn vào thành Nhũ Căn Thế rối giáp lại hạ tràng, Xuyên qua Cốc Đạo, Sơn Âm nhiệm trình Tán Âm Dương thuận, nghịch minh Gọi tam thập lục vận hành pháp thân. ĐIỂM PHÁP Trụ định chi thể, bế thần nhãn, Hành Sơn Âm Dương hạ vị, quyết tý cung Càn. Hít hồng kỳ từ Thính Hội cho trở ra Ngân Giao, rồi từ Tố Liêu lên Huê Quang, từ Huê Quang lên Thượng Khuyết, thì hồng kỳ mới nhé nhẹ đem xuống Mạng Môn, xuuyên qua Huỳnh Đình và chạy lên tới Nhũ Bộ. Nghĩa là khi đi tới chính giữa của cặp Nhũ Bộ thì hai mối ấy liền kéo trở lên và xoay vòng tròn luôn tam độ. Xong, gom lại hai điểm Tinh của Nhũ Bộ tức Nhũ Căn mà ấn sâu vào tuốt phía sau hai mối gặp lại nhau mới đem xuống phía sau của Hạ Khuyết (gọi là Hậu Hạ Khuyết) mà xuyên ngang qua Cốc Đạo mới dùng hành Sơn Dương mà tán Âm Dương bằng cách tạm thập lục chuyển theo vòng thuận kim đồng hồ, rồi tam thập lục chuyển vòng nghịch. Âý là luyện Tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần huờn hư luyện hư huờn vô vậy. BẾ HUYỀN MÔN (Hình 2) .................................................................................................. (Ấn chứng BHM.1) .................................................................................................. THI Trước sau đầy đủ phép khai thông, Khử trược đều theo lệ giáp vòng. Nên Bế Huyền Môn cần phải biết, Làm sao thuận lợi kiếp nhân phong. THI BÀI Những chất khí huyền thâm hư ảo, Thường ứng ra nuôi não, dưỡng cơ; Đó là thứ điện mập mờ, Tỏa đều rộng khắp để chờ nhân duyên. Việc quyết định nên nghiên cứu lại, Để nhận mình vào cái duyên do, Tâm yên trước cảnh tịnh đò, Có đâu thiếu hụt duyên do mà lường. Ánh trắng trong mười phương cũng rõ, Cũng không bằng tốc độ huyền quang; Lại còn lưu ảnh rõ ràng, Không như ảo tưởng dậm ngàn chuyển đi. Cái ảo thân có gì hư thực, Thị giác tìm chừng mực ra thôi; Tìm trong kiếp sống tạm thời, Sống trong sự giả, ăn lời cho nhau. Thương những cảnh sầu đau thân phận, Nhưng mỗi duyên lấn cấn hòa duyên; Trả chưa dứt hết nghiệp tiền, Lại thêm đầy dẩy oan khiên hiện thời. Kìa ám hiệu cho đời ghê sợ, Đời ngỡ rằng cái cớ cạnh tranh; Mặc tình nhiều nỗi phui phanh, Để chờ ân xá tội tình bao nhiêu. Quyền quyết định sao liều lĩnh thế, Xóa bản quyền thể lệ của mình; Để nhờ người khác phân minh, Trong khi mình đủ quyền hành thế ni. THI Điểm truyền sứ mạng thọ từ ân, Ứng phục huờn đơn chuyển pháp thần. Giáp mối Âm Dương hòa điệu lý, Giao phân hỗn hợp luyện kim thân. Sứ mạng cao cả từ bốn vị được chuyển hồng ân, đồng thông linh điển là giáp mối Âm Dương, tường cơ diệu lý để hoàn thành công cuộc kết tựu kim thân. Thực hiện theo cách vận chuyển tinh điển là trau sửa thân tâm, điều hòa huyết mạch, dung dưỡng đường huyết mạch tốt xinh, mà nguồn gốc là ở huyện Huyền Môn hầu lưu thông Tinh Khí Thần trong khi tinh luyện, đem lại hiệu quả lớn lao trong việc luyện kết Kim thân mà bảo tồn Thánh thể. Nếu một khi cần thiết tam ngưng đường khử trược mới chỉ tạm dụng cách Trảm Xích Long và Sát Bạch Hổ mà thôi. THI BÀI Trảm Xích Long, sát kỳ Bạch Hổ, Phép diệu thường chỉ chỗ hoằng thâm; Cho nhân sanh khéo mà tầm, Bề ngoài tạm dụng ngưng cầm lệ giao. Nhưng chủ yếu không hao tán điển, Mỗi mạch giao thông chuyển tinh tường; Một là hữu thể ngưng luôn, Hai là chỉ dụng con đường bên trong. Để trách sự phiền lòng tuổi thọ, Hoặc nẽo đời dẫu có bôn hành; Pháp cần khử trược lưu thanh, Hợp theo lý sự điều hành của thân. BẾ HUYỀN MÔN (hình 3) .................................................................................................. (Ấn chứng BHM.2) .................................................................................................. THI Đại thể hư linh rất rộng tràn, Tìm trong Nguyên Lý rõ thời gian. Mỗi phần kết hợp thông đồng tất, Vì bởi một màu điển khối quang. * * *
ĐỘNG TÁC MƯỜI THÂU TAM BỬU Việc vận hành Pháp Đạo Thâu Tam Bửu được khởi điểm từ Tố Liêu, Ngân Giao, Thính Hội, Trung Khuyết. THÂU TAM BỬU (hình 1) .................................................................................................. MƯỜI: THÂU TAM BỬU CHUYÊN CẦN, Hồng kỳ khởi điểm từ phần Tố Liêu. Ngân Giao, Thính Hội đủ điều, Cũng như tâm thức vọng triều Huyền Khung. Hồng kỳ lại chuyển lần lần, Từ nơi Thượng Khuyết sang phần Mạng Môn. Xuyên qua bờ giác tỉnh hồn, Niệm câu Kim Viết Tiên Ông điểm cùng. Mỗi lần chuyển thượng: Huyền Khung … Chuyển hạ: Kim Viết … túc chung thường hành. Thượng tiền, Hạ hậu ghi rành, Hoàn chung khuyết vị nhớ hành nhậm tân. ĐIỂM PHÁP Hành tịnh chi thể, Vừa hít hồng kỳ từ Tố Liêu, Thính Hội và Ngân Giao cũng như từ Trung Khuyết cùng một lúc rút lên cung Thượng Khuyến vừa niệm: “Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn”. Rồi hồng kỳ vừa nhè nhẹ đi từ Thượng Khuyết xuống tới Mạng Môn xuyên qua cung Huỳnh Đình vừa niệm: “Kim Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”. Cứ chuyển hồng kỳ lên thì niệm câu trên, chuyển xuống thì niệm câu dưới. Tâm thì mật niệm như thế. Điều hòa hồng kỳ. Xong, cũng phải nhị túc khởi hành đều nhịp như thường hành vậy. (Nên nhớ. Hể đem hồng kỳ lên thì vòng theo tiền đồ, còn trở xuống thì hậu đồ là đúng). Khi nào muốn nghỉ thì đem hồng kỳ lên Thượng Khuyết để luôn ở đó, và ánh sáng Thuần Dương Tam Bửu sẽ chiếu ngời nơi ấy. (Chú ý: Khi xuyên qua Vũ Hà phải nhíu Hậu Môn, lúc muốn nghỉ nhớ nuốt tân dịch khi đem hồng kỳ lên để nghỉ). THI Thống Tam, quy Ngũ tựu chơn thần, Là để luyện thành đệ nhị thân. Phép báu trao tay là Bửu Pháp, Luyện thành Thánh Thể đắc Thiên Ân. * * * Tam Bửu gom về tại Thượng Cung, Tỏa ra muôn pháp hiện nhau cùng Hồng kỳ linh diệu cơ mầu nhiệm, Đại thể đồng thông rực phẩm trung. * * * Tinh Khí giao thông để tựu Thần, Ngoài thân trong cũng gọi là thân. Trong là đệ nhị, vô hình thể, Ngoài đệ nhứt thân, ấy xác trần. * * * Bảo toàn chơn thể chớ xem thường, Chỉ có nhuận điền hội đủ Dương. Giải tỏa xa mờ trong ký ức, Mới làm rộng sáng cả mười phương. * * * Trời đất xoay tròn một Lý Nguyên, Tìm nhau thấy đủ mỗi duyên tiền, Sông mê giáp mối sang bờ giác, Đốc Mạch cầu giao thỏa dạ nguyền. THÂU TAM BỬU (hình 2) .................................................................................................. (Ấn chứng TTB.1) .................................................................................................. Nam mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Kim Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. ĐỘNG TÁC MƯỜI MỘT NGŨ KHÍ CHÂU BẠCH NGỌC QUANG Việc vận hành Pháp Đạo Ngũ Khí Châu Bạch Ngọc Quang được khởi điểm từ trái Châu bên ngoài. NGŨ KHÍ CHÂU BẠCH NGỌC QUANG (hình 1) .................................................................................................. Nam Mô DTKM Thượng Đẳng Vô Cực Từ Tôn. MƯỜI MỘT: NGŨ KHÍ BẠCH QUANG Bế quang siêu thức tìm đồng Châu Thiên. Khai Ngân Giao để thâu huyền, Nhậm tân chuyển hạ, Huỳnh Tuyền, Mạng Môn Lên đài Bát Quát độ hồn, Đến cung não bộ lộ chơn điển tìm Khai quang động Thập nhị huyền, Diêu Trì Kim Mẫu ứng truyền cao sâu. Thường hành mới thấy nhiệm mầu, Xong huờn nguyên lại từ đầu bế quang. Hoàn chung thì nhớ nhậm tân, Nhập cung khuyết vị chiếu ngần tuệ quang. ĐIỂM PHÁP Trụ hình tự nhiên, thần nhãn khai thông hướng về phía trước, siêu thức ứng chuyển một vầng quang điển có trái châu sáng tỏ theo hồng kỳ vào Ngân Giao và nuốt tân dịch, rồi cho chạy xuống tới cung Huỳnh Đình. (khi vừa hít vào thì cũng vừa bế thần nhãn).Rồi từ cung Huỳnh Đình dẫn trái châu xuyên qua Mạng Môn (nhíu hậu môn đem qua). Xong, từ đường Bát Quái ấy, trái châu được lưu thông chạy lên tới não bộ và xuyên qua Huê Quang tiền diện. Khi sang qua Huê Quang thì Song Mâu Quang cũng mở sáng theo và nhìn thẳng lối đi, vừa chớp thần nhãn vừa thường hành đạo khởi, tâm thì mật niệm như vầy: “Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Thượng Đẳng Vô Cực Từ Tôn”. Khi niệm đủ câu thì dừng lại, rồi bế nhãn và bắt đầu làm động tác y như cũ, tới khi nào chớp thần nhãn thì cũng vừa hành vừa mật niệm như vậy. Cứ tiếp tục vận hành lại trụ hình như vậy hoài, đến khi nào muốn nghỉ thì lúc trái châu chạy đường Bát Quái, vừa tới Phong Phủ (tức khỏi Giáp tích) thì nuốt tân dịch rồi đem tuốt lên Thượng Khuyết. THI Châu thiên ngời tỏ khắp muôn nơi, Ứng Bạch Ngọc Quang hiệp bổn Trời. Mỗi bước vận hành thêm điểm lợi, Cho ta xây đắp Đạo và Đời. * * * Sáng ngời Nguyên Lý dịch kỳ ba, Tỏ lộ hồng quang tại bửu gia. Minh triết siêu nhiên tường mật chỉ, Kỳ trung tại ngoại ở Sơn hà. * * * ĐỘNG TÁC MƯỜI HAI LỤC TỰ KIM NGÔN PHI LONG ĐẢO VÕ Việc vận hành Pháp Đạo Phi Long Đảo Võ được khởi điểm từ Trung Khuyết. LỤC TỰ KIM NGÔN PHI LONG ĐẢO VÕ (hình 1) .................................................................................................. Tường mật chỉ từ ấn chứng do những động tác thông đồng nguồn điển với nhau. Việc thông đồng mật chỉ là nói về khẩu thuyết bí quyết của pháp Đạo. MƯỜI HAI: LỤC TỰ KIM NGÔN, Phi Long Đảo Võ trụ phần Bát Tiên. Hồng kỳ tâm thức khởi nguyên, Thượng cung lục tự tam tiên điều hành. Hạ vòng Bát Quái thiên thanh, Mạng Môn xuyên đến Huỳnh Đình nhiếp cung. Thế rồi thượng chuyển khuyết trung, Tâm huyền lục tự tam cung ứng chầu. Sơn Âm Dương chuyển đồng thâu, Hoàn chung Thượng Khuyết nhiệm mầu cảnh trên. ĐIỂM PHÁP Trụ hình nghiệm thiết theo thế chữ bát (..........) siêu thức khởi từ tâm, cho hồng kỳ vào thật dài cùng lúc đưa lên Thượng Khuyết và niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”, cho đủ tam độ trong một hồng kỳ. Xong, cho hồng kỳ nhè nhẹ vòng theo Bát Quái chạy xuống Mạng Môn, xuyên qua cung Huỳnh đình, rồi nhíu Hậu môn cho hồng kỳ trở lên Trung Khuyết thì bắt đầu niệm Lục Tự Di Đà tam độ như trước để đem lên Thượng Khuyết rồi lại cho hồng kỳ nhè nhẹ trở ra theo đường Bát Quái cho xuống Mạng Môn và cứ chạy vòng vòng như thế hoài. Hễ hít hồng kỳ lên thì đôi hành Sơn Âm Dương cũng điều chuyển theo lên, còn đưa xuống thì đoi Hành Sơn Âm Dương cũng điều chuyển theo xuống. Khi nào muốn nghỉ thì từ chỗ đem hồng kỳ lên Thượng Khuyết cho đủ Lục Tự tam độ thì hồng kỳ nhè nhẹ, êm đềm được gom tụ đầy đủ linh điển nơi đó mới nghỉ. THI Phi Long Đảo võ dạy rành minh, Lục Tự Kim Ngôn lập bổn trình. Sắc chỉ thọ hành từ thượng lịnh, Thường khai luân chuyển tại cung đình. * * * Thượng đài tiếp ứng đại căn cơ, Ngời tỏ huỳnh trung đợi đúng giờ. Pháp thệ hoằng thâm siêu xuất cả, Phi Long Đảo Võ rạng Thiên Thơ. THI BÀI Ngũ Khí Châu rạng phần siêu xuất, Ứng thượng đài đúng mức vận kỳ; Điển linh hiển hóa cao nghi, Thiên ân sứ mạng hậu kỳ đã ban. Từ ý thức việc làm Nguyên Lý, Đến nhiệm trình mật chỉ siêu cơ; Nguyên Sinh ứng hiện kịp giờ, Lập đời Thánh Đức Tàng Thơ ban đồng. Sang Lục Tự Phi Long Đảo Võ, Máy tuần huờn ngời tỏ thượng cung; Hồng kỳ thuần điển chuyển cùng, Đại kỳ Huỳnh Lão viên dung Đạo thành. Ngọc minh châu tinh anh ngời sáng; Đó chính là tỏ rạng chơn như, Huệ đài kim khuyết cung hư, Minh tâm duyên giác đại từ Phẩm Nguyên. Tượng khí hiện thông thiên triệt địa, Mỗi vận hào quang tỏa xung thiên; Nói lên bí quyết nhuận điền, Trở về định vị siêu nhiên bản đài. Thông máy tạo ẩn khai thượng hạ, Hóa Tam Thanh thiền tỏa Ngũ Cơ; Nguyên Sinh bổn chuyển Tàng Thơ, Đại Đồng Nguyên Lý bến bờ đồng thông. LỤC TỰ KIM NGÔN PHI LONG ĐẢO VÕ (hình 2) .................................................................................................. (Ấn chứng LTKN.PLĐV.1: Lục Tự Di Đà) .................................................................................................. Khi đạt được Cửu Phẩm Huyền Linh Đài là có khả năng được tuyển chọn trong Bộ Phận Siêu Thiên hay Tứ Huệ v.v… Vì cơ Vô Vi Pháp còn được chuyển vận chủ lực nhất từ Bộ Phận Siêu Thiên, là bộ máy thông công cùng vô vi mầu nhiệm qua các nguồn điển Siêu Thiên, Hồng Thiên và Tứ Huệ. Luôn gắn liền trong trách nhiệm của cơ Đại Đồng Quy Linh Hiệp Nhứt mà phục vụ các Tôn Giáo, phục vụ Đại Đồng, cũng như phục vụ cơ đồ Thượng Nguơn Thánh Đức. Tất cả những người Đồng Tử trong cơ Vô Vi Pháp phải giữ 5 điều luật là: Cung, Khiêm, Tín, Mẫn, Huệ. Toàn bộ Cơ Pháp phải được củng cố mạnh mẽ về hình thức Hội Kiến Pháp Môn, Vì Hội Kiến Pháp Môn không thể thiếu được trong ý nhiệm Cơ Pháp. Hội Kiến Pháp môn là nhiệm vụ của tất cả những người trong Cơ Pháp, tùy theo sự ứng hiện của mỗi nơi mà hiệp mặt cùng nhau theo quy định để trao đổi học hỏi và nhắc nhở lẫn nhau những gì thiếu sót trong Cơ Pháp. Đồng thời cùng trợ duyên cho nhau những phần liên quan đến Cơ Pháp. Chữ Hội Kiến cũng là điểm nhận thức sâu sắc. Chữ Kiến là biết, là thấy, là điểm sâu sắc trong danh từ Pháp Đạo, Kiến cũng là sự sáng rộng qua lý giải. Trong Cơ Pháp có một bộ phận đặc biệt gọi là cơ Siêu Nhiên Hoằng Pháp để luân hành nhiều nơi không cố định. Đây là phái đoàn hành hóa để phổ truyền Chánh Pháp, trợ duyên Chánh Pháp, vừa đi giảng thuyết về lý của Pháp Đạo, của sự hình thành trong Cơ Thế, Cơ Đại Đồng Quy Linh Hiệp Nhứt. LỤC TỰ KIM NGÔN PHI LONG ĐẢO VÕ (hình 3) .................................................................................................. LỤC TỰ KIM NGÔN PHI LONG ĐẢO VÕ (hình 4) .................................................................................................. (Ấn chứng PLĐV.3) .................................................................................................. MẬT TÂM VÔ VI HUYỀN LINH ĐÀI .................................................................................................. Tiếp Bài: Nội ngoại tương ứng, tương giao, Đồng thanh, đồng khí khít khao tương cầu. Khiến nên bền chặt nghĩa sâu, Lập nền trung chánh gồm thâu mật truyền. Vì trung là lý của khiêm, Rõ ràng biến đổi lại liền kết giao. |