TTBP 6. LỄ THỌ PHÁP SIÊU NHIÊN
A/- LỄ THỌ PHÁP SIÊU NHIÊN TỊNH TÂM TỐI THƯỢNGa/LỄ THỌ PHÁP SIÊU NHIÊN VÔ VI Khi thọ phương pháp Tịnh Tâm hoặc người nào sẵn có pháp tịnh khác, nay đã được kêu gọi vào Huyền Linh Đài cũng phải làm lễ thọ pháp Vô Vi Siêu Nhiên như sau:
-12 tiếng thanh chung làm lễ thỉnh Thánh. -Pháp Sư trấn họa thần điển. -Đồng Nhi đọc bài Giải oan. -Người thọ pháp đọc bài Thệ lãnh pháp. -Đồng Nhi đọc bài Khai pháp.
b/PHÉP TRẤN THẦN -Nam mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Kim Viết Cao Đài Tiên ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. -Thiên nhứt sanh thủy Địa lục thành chi, nhứt lục ký Địa ngũ hành nãi kỉ. Ngô kiêm tống động uế trược trần phi. -Dương chi đảo thủy biến sái ngộ đắc thanh lương. -Nam mô Quan Thế âm Bồ Tác Ma Ha Tát. (Cách trấn thần: Từ Bắc sang Nam, từ Đông sang Tây rồi đến Thiên Bàn trấn Thượng, Trung, Hạ. Chân trái lúc nào cũng nhớm tới trước từ nửa bàn chân phải khi họa Tam Thiên bằng hương, hoa và bạch thủy).
c/TRẤN THẦN Tả Mạng Thần, Hữu Mạng Thần nghe lời ta dặn, vâng lịnh Thiên Nhãn làm chủ cả châu thân, diệt vong niệm ma chướng, trừ lục dục thất tình, thâu tâm viên ý mã, giữ ma trong ma ngoài cho lòng người thanh tịnh, Thầy sẽ phong cho các vị Thần là một ông Thần lớn.
d/GIẢI OAN Dưới Chí Tôn có quyền Giáo Chủ, Hội Nguơn Tiên sẵn đủ cơ mầu; Máy lịnh định pháp cao sâu, Ma ha nước báu giải sầu trần gian. Đạo khí phục diệt tan trần lụy, Diệt yêu ma giải mị trừ tà; Điển linh giúp thế gần xa, Giải vòng nghiệp báo ta bà độ dân. Biển khổ vốn vùi thân linh hiển, Biết ăn năn niệm tiếng Cao Đài; Vĩnh sanh pháp báu trao tay, Đắp thân y bát chờ ngày giải lao. Lập đặng Đạo đưa vào Thiên vị, Miếng đỉnh chung có quý chi đây? Vì thương nên mới nỗi nầy, Hóa thân xuống thế lộn bầy trần gian. Lập đặng Đạo chỉ đàng chơn giả, Máy Thiên Cơ định quả là đây; Cả kêu con dại trần nầy, Mau mau quày gót tìm Thầy giải oan. đ/BÀI THỆ LÃNH PHÁP NGUYÊN SINH Kính lạy Thầy Mẹ và các Đấng Thiêng Liêng, nay con là (tên, họ thánh danh)xin thọ lãnh Pháp nhiệm Nguyên Sinh Vô Vi, nguyện cố gắng rèn luyện điển quang cho ngày thêm tươi sáng. Nhờ Ơn Trên điểm ban từ huệ. Nếu con chẳng gìn giữ Pháp Nguyên thì chịu tội với Cơ Thiên.
e/BÀI KHAI PHÁP SIÊU NHIÊN Đầu cúi lạy cung vàng Bạch Ngọc, Chúng con nay nguyền học pháp Thầy; Nguyện cùng Diêu Mẫu cung Tây, Ân lành truyền rãi pháp nầy Vô Vi. Đuốc Thiêng Liêng Huỳnh Kỳ phưởng phất, Bảng Phong Thần gom tất chí công; Tề Thiêncó phép thần thông, Trụ hình đứng giữa trợ trong pháp hành. CầuThất Tinhđiểm thanh ngũ sắc, Xuống phò trì cho các Tinh Quân; Lạy cầuPhật Pháp chín từng, Rưới bầu linh dược điển hồng rạng soi. CầuNgũ Đếban thời ngôi báu, Trợ Ngũ Hành rèn tạo đức tin; Lạy cầuNguơn Thỉvô hình, Biến ra hai ngã hữu hình, vô vi. Để dẫn lối người đi ra trận, Bảng Long Hoa tường tận Trung ương; Cầu xinHộ Pháp Đông Phương, Hộ trì chánh pháp an khương đời đời. CầuNgũ Đếcung trời hòa bản, Khúc nhạc thiêng rung cảm lòng trần; Cầu xincác vị Sơn Thần, Vô hình cao thượng án trần điểm ghi. Ngày Long Hội trường thi đã đến, Các con nguyền cùng lệnh mà lo; Vô vi quyền nhứt ban cho, Chấp hành thừa nhiệm vai trò Tiên ban. Nghìn năm ánh sáng pháp tràng, Chúng con gìn giữ muôn ngày điển linh./. Vừa qua là lễ thọ pháp Nguyên Sinh đầu tiên. Phần nầy còn được tùy nhân duyên có thể tập trung nghi thức trong phần Sớ Thọ Tịnh như sau: ê/SỚ THỌ TỊNH TÂM TỐI THƯỢNG VÔ VI -Nam mô Thái Cực Thuần Dương Siêu Nhiên Điểm Chuyển. -Nam mô Hồng Mông Chi Khí Biến Hóa Tam Nguơn. CẨN NGUYỆN Đệ Tử thọ Thiên ân …………………………….….. Kính trình ân Thiên tiếp nhận người thọ pháp: …………………................................................... xin thọ lãnh pháp nhiệm Tịnh Tâm Tối Thượng Vô Vi và nguyện cố gắng rèn luyện điển quang cho ngày thêm tươi sáng. Nhờ ơn trên điểm ban từ huệ. Nếu (tên người thọ pháp) …………………. chẳng gìn giữ pháp nguyên, thì chịu tôi với Cơ Thiên. Đệ tử thành tâm kính bái. ………….., ngày …. tháng ….. năm …… Kính Chiếu Trình Người Thọ Lãnh: Đệ Tử Thọ, Thiên ân: (chữ ký) Thánh Danh: …………….. Sĩ Nguyên Thế Danh:………………… THI Vừa qua Mẹ dạy việc trình dâng, Thọ pháp Tịnh Tâm đặng vẹn phần. Làm lễ xong rồi thì nhiệm vụ, Giáo Sư truyền pháp tiếp khai ân.
Khi người lãnh pháp đã làm lễ thọ pháp xong thì kể như là tăng thêm một Sĩ Đài trong Cơ pháp Vô Vi Pháp. Nhiệm vụ Giáo Sư Nguyên Sinh lần lượt hướng dẫn 12 động tác Phương Pháp Tịnh Tâm Tối Thượng Vô Vi, và truyền đạt những lý pháp cho thật nhiều để mỗi ngày thêm bền chặt. Pháp Tịnh Tâm là một nền tảng của Đài Nguyên, là những nấc thang để bước lên Đài Pháp, 12 động tác Tịnh Tâm gồm có 5 động tác chuẩn trang: (1,2,3,4,5);4 động tác luyện: (6,7,8,9); 1 động tác kết quả: (10); và 2 động tác kết: (11,12). Người Thọ Tịnh Tâm đều được mang Huy Hiệu Vô Vi Pháp và cùng nhau phục vụ chung Nguyên Lý Đại Đồng. Mỗi động tác hành pháp, các con phải thật sự làm chủ lấy mình nhưng không cố chấp vào cái biết của mình. Sự thố lộ vận chuyển ra ngoài thể xác là sai pháp, chỉ đưa đến những thiệt hại khôn lường khi tà thần dựa vào sự thố lộ ấy mà khuấy động. Biết bảo toàn linh điển bằng cách mỗi sự vận chuyển nội thân đều không cho dễ dàng truyền cảm thố lộ ra ngoài, là phương pháp làm tăng thêm điển lực dồi dào cho cơ thể và phép vận chuyển càng được tinh thuần trong sự nấu luyện Âm Dương Tam Bửu. Pháp Tịnh Tâm rất tùy duyên và phù hợp cả ba bực Thượng, Trung, Ha. Dầu cho người thọ hành Thuần Dương Bí Chỉ, hay Mật Tâm Đại Tịnh Tuần Huờn Chi Nhựt cũng đều lấy phương pháp Tịnh Tâm nầy làm mở đầu trong các giờ hành pháp.
Tịnh Tâm Tối Thượng Vô Vi là một đặc ân hiện hữu trong ý nghĩa Đại Đồng nhất. Cũng chính vì ý nghĩa tùy duyên rộng lớn ấy nên gọi là Tối Thượng Vô Vi, có đầy đủ chứng minh qua hình đồ Tiểu Châu Thân hòa nhập với Đài Nguyên. THI Lời châuTỪhuệ ứng tâm truyền, Bí chỉTÔNthờ thọ lý nguyên. Đầu máyKimchương là tuệ giác, Những phầnMẪudạy trẻ rành biên.
THI BÀI Sự thay đổi từ cơ mật nhiệm, Do các con tự kiểm điểm thân; Nghiệm xa rồi lại xét gần, Bao giờ cũng có Thiên Ân điểm truyền. Đừng lo ngại trần duyên xa thẳm, Việc đáo đầu nghìn dặm sơn khê; Minh minh, ảo ảo tư bề, Đồng thông nhờ pháp chỉ về điển quang. Ngày Thánh Đức hòa an đồng nhất, Cũng như trong ý mật từ lành; Âm Dương không thể phân tranh, Còn tranh, còn chiến, còn thành sự chi? Đạo không phân những gì động tịnh, Động tịnh do ở chính mình phân; Đạo là hiệp đủ lượng cân, Đạo là kết lại đủ phần Âm Dương. Luyện tâm thanh cần nương ý thức. Ý thức nào, sự thực vì mình; Quay về rốt ráo cái nhìn, Nơi mình điểm chính là linh hồn nầy. Còn thể xác giả đây tạm mượn, Để một ngày chẳng nhượng cầu xin; Vô thường không chút vị tình, Bắt hồn trả xác, hỏi mình về đâu? Đạo mầu nhiệm giải câu hỏi ấy, Trả xác phàm còn lại kim thân; Kim thân khác hẳn xác trần, Kim thân nhờ luyện kết phần Âm Dương. Luyện Tam Bửu, tinh tường hành định, Nuôi điểm lành bằng hạnh, bằng duyên; Hồn nầy có chỗ ngự yên, Để về cảnh thật an nhiên hưởng nhàn. Vậy mới gọi việc làm siêu pháp, Vậy mới rằng hòa hạp điển linh; Gom thành đầy đủ nơi mình, Quy Tam, hiệp Ngũ kết tinh đủ đầy. Học cho đủ pháp Thầy, pháp Mẹ, Học cho tròn hai lẽ trược, thanh; Học cho thông lý vận hành, Học cho đúng với màu xanh của Trời. Đời Đạo hiệp vị ngôi thành quả, Luật bản duyên có cả xưa nay; Xem trong luật lý định bày, Ẩn tàng sâu kín không ngoài, chẳng trong. Mẹ dạy con tấm lòng dâng hiến, Mẹ khuyên con gìn điển của mình; Lẽ nào con chẳng hết tình, Lẽ nào con chẳng giữ gìn lấy con. Đời còn khổ nên còn sàng lọc, Bởi Đời là khóa học người tu; Một khi Đời quá sương mù, Trở về thực tế ai tu biết liền. Học Đạo có Chơn Truyền Chánh Pháp, Sự nhẫn hòa sẽ ráp thành khuôn; Các con gìn giữ kỷ cương, Lời vàng Mẹ dạy soi đường cho nhau. Tiếp theo đây phần trao động tác, Để Giáo Sư truyền pháp Tịnh Tâm; Thực hành nghiêm thiết tri tầm, Càng đi càng thấy cao thâm nhiệm mầu.
|