.....NGHI LỄ CƠ BẢN

HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHIẾU MINH

XÃ TÂN PHÚ THẠNH, HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

  LỄ BỔN

     I/- PHẦN NGHI LỄ CƠ BẢN

A - NGHI LỄ

1 – Ý nghĩa Nghi Lễ

Nghi: là nghi thức, phép tắc phải theo, là những phương thức biểu lộ sự cung kính một cách trang nghiêm đối với các đấng vô vi bề trên và để tôn thờ, xưng tụng, tôn kính, nhớ ơn…

Lễ: Những ngày có tổ chức hội tựu lớn, có ý nghĩa, truyền thống, nhớ ơn, hoặc kỷ niệm, thành lập, mừng, chúc v.v…Lễ cũng là đạo đức chung về nhân phẩm, nhân cách vốn có của con người, gọi là đạo đức con người. Thành ngữ có câu: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Nên mọi hình thức sinh họat truyền thống có giá trị tâm linh nhằm đánh dấu những thời điểm quan trọng trong tiểu sử cuộc đời hay lịch sử chung nhân loại.

Nghi lễ: Là những quy định và trật tự khi tiến hành một cuộc lễ. Tất có quy định mẫu mực từ những khuôn thước lễ nghi được sắp thành bài bản để theo đó mà thực hiện.

Nghi lễ trong dân gian là đạo đức truyền thống, coi trọng tình cảm và huyết thống gia đình. Có những phong tục tập quán nghi lễ luôn được lưu giữ và trường tồn, nhiều nghi lễ quan hôn tang tế không thể thiếu trong các nền Tôn giáo. Trong Nghi Lễ đặc biệt là phần kinh cúng tứ thời, người đạo Cao Đài xem đây là một pháp môn vô cùng trọng đại.

Nghi lễ là một phương tiện dẫn dắt đời sống tinh thần con người đạt đến nguồn chánh tín cứu cánh, hoằng pháp lợi sanh, là mẫu mực chung cho các cuộc lễ nghi, tụng niệm, cũng như phương thức thờ cúng, cách hành lễ, sinh hoạt trong  phạm vi tín ngưỡng của tùy theo mỗi Tôn giáo khác nhau, vì bất cứ một Tôn giáo nào cũng phải có những hình thức nghi lễ để tiêu biểu tinh thần đạo vị của mình, mặc dù trên hình thức âm điệu của mỗi Đạo giáo có phần khác nhau nhưng mục đích vẫn là sự chí thành cầu nguyện, tán thán vị giáo chủ mà mình đã tín ngưỡng tôn thờ.

Mỗi khi hành lễ, muốn được sự hoà điệu âm thanh nhịp nhàng, tăng phần trang nghiêm cảm ứng, đưa người trở về trong tâm thức của ý nghĩa đạo pháp cao cả, chúng ta cần phải có những pháp khí để làm phương tiện hỗ tương trong những chương trình đại lễ như  Lôi âm cổ, Bạch Ngọc Chung, Thanh chung, nhịp xanh, nhạc công, cùng âm giọng bổng trầm của Ban đồng nhi từ câu kinh tiếng kệ hòa theo các thể điệu truyền thống Việt Nam như Nam Ai, Nam Xuân, Đảo Ngũ Cung …

Phải thành kính trong khi hành lễ, thành và kính là hai yếu tố cần phải có trong một buổi lễ. Phải thận trọng trong cử chỉ và hành động, tâm phải chuyên chú hướng đến Thiên bàn để tạo sự trang nghiêm trong buổi lễ, không làm mọi người chung quanh mất tập trung tâm ý thành kính hiến dâng.

Khi thực hiện một nghi thức hành lễ chúng ta phải theo đúng quy định Nghi lễ của Hội Thánh ban hành, dù là một buổi lễ đơn giản. Điều cần thiết là phải nói lên được tinh thần buổi lễ và có sự tín tâm chí thành của mọi người chung quanh.

Hình thức Nghi lễ đối với Đạo Cao Đài rất nhiều, nhưng riêng Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh được tóm lược và quy định trong trong Lễ Bổn nầy có đủ các phần như:

Bottom of Form

-Về Lễ phẩm Thiên Bàn

-Trên Thiên bàn gồm có: 1 đèn dầu (Thái Cực), bình bông (Tiên Thiên ngũ sắc), dĩa trái (Hậu Thiên ngũ vị), Lư hương (Ngũ Hành), Hoa tinh, Tửu khí, Trà Thần (tam bửu), nước trắng, nước trà (Âm Dương), Cập đèn (lưỡng nghi).

(Tất cả các bàn thờ khác đều theo hình thức lễ phẩm nơi Thiên bàn làm mẫu).

-Về Lễ nhạc: Nhạc Cao Đài luôn sử dụng theo nhạc cổ điển Việt Nam không pha chế, hòa trong Pháp khí kinh điển Cao Đài tạo thành âm nhạc để thiết cúng, mục đích nhạc lễ là để nương theo âm điệu hoà với tiếng kinh để tất cả đều tập trung một cách chí thành hiến dâng các đấng Thiêng Liêng trong giờ hành lễ.

-Về Nghi thức: Trong Nghi thức các phần tế lễ được lập thành nhiều nghi tiết như: Nghi tiết lễ Đại đàn, Nghi tiết lễ Quỳnh tương dạ yến, Nghi tiết lễ Tế Chiến Sĩ. Nghi tiết lễ truy điệu chức sắc trong tang lễ, Nghi tiết lễ Tri Ân Tiền Bối quá vãng, Lễ An Vị, Lễ Thượng Phướn, Lễ Thượng Tượng, Lễ Cúng Cửu Huyền thường lệ, Lễ Tiểu Đàn, Lễ phụng hiến Vu Lan, Lễ Nhập môn, Lễ Thọ phong Chức sắc. Lễ Cầu an bá tánh, Lễ kỵ cơm nơi gia đình, lễ Cầu giải bệnh v.v…

Là người tín đồ Đạo Cao Đài chúng ta phải luôn luôn tinh tấn tụng niệm. Mục đích chính là hướng dẫn con người trở về cảnh giới an vui giải thoát. Do đó học và hiểu rõ giá trị nghi lễ, để áp dụng đúng với ý nghĩa của nó, ngoài ra còn phải hiểu rõ được các nghi thức cũng như lễ phẩm đặc thù áp dụng một phương tiện tốt đẹp cho công việc tu dưỡng bản thân, và cảm hoá mọi người, đưa mọi người vào đạo một cách tốt đẹp, cũng như làm cho tổ chức ngày một thăng tiến.

2 – Ý nghĩa Lễ Nhạc

Qua bài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ngày 01/08 Đinh Hợi 1947 tại đền Thánh [1] có nêu trích Thánh giáo Ðức Lý Giáo Tông dạy rằng, trên Ngọc Hư Cung có hai câu liễn :


Phía hữu : Bát hồn vận chuyển ca Huỳnh Lão.

Phía tả    : Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn.

Kể từ phôi thai càn khôn vạn vật nầy, Chí Tôn là khối sanh quang, biến thành hai khối sanh khí, hai khối ấy trụ lại thành một khối lớn tương hiệp nhau mới nổ sanh tiếng âm, người ta gọi là nổ ầm, hay nghe tiếng Ni, Ðạo Phật sửa lại thành Úm ( Úm ma ni bát rị hồng ) nhờ tiếng nổ ấy bát hồn mới vận chuyển biến sanh vạn vật và loài người.'

Tiếng ấy bay ra nghe đến đâu thì khí sanh quang đến đó tức là có sự sống đến, bằng chẳng nghe được thì nơi ấy tiêu diệt nghĩa là chết mất mà thôi.

'Bởi cớ nên dùng những vật bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn là tấm da trâu đã chết mà với sự khôn ngoan của loài người nó mới có tiếng kêu được tức là làm cho nó sống lại được, nghĩa là bát hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ Ðức Chí Tôn, vì cớ nên khi nghe Nhạc Tấu Huân Thiên là có âm thinh sắc tướng, song hiểu xác lý: Khi dâng lễ Chí Tôn quy pháp định, thấy và nghe cả Bát Hồn vận chuyển dâng cái sống cho Ngài”.

Nên chi từ đây, khi Nhạc Tấu Huân Thiên chúng ta xem quý hơn dâng Tam Bửu, dầu phải lỡ đi nửa chừng trong Ðền Thờ, nghe đến đó phải dừng lại, cấm không được đi lộn xộn để khỏi giảm điều kính trọng dâng cho Chí Tôn mà không nên.

Lễ Nhạc do nơi âm thinh, bởi thế nên chúng ta thấy dù khắp muôn nơi từ nghìn xưa đến giờ phút nầy, dầu văn minh thế nào mà hiểu đặng nền tăng tiến lễ nhạc thì đều khen ngợi. Từ xưa danh Ðức Khổng Tử chỉnh đốn hoàn bị nền lễ nhạc có phương thế làm môi giới là khí cụ cho toàn vạn quốc đương buổi nầy, lấy tư cách lễ độ làm ngoại giao, nên Nhạc lễ Cao Đài tôn vinh Đức Thánh Khổng Tử làm vị Thánh Tổ.

Nhạc được sản xuất trong tinh thần, mà tinh thần mới thiệt là Ðạo. Tại sao Nhạc là Lễ ? Dù cho nhiều loại đờn, kèn, trống âm thanh khác nhau, nhưng hòa âm cùng nhau đều giống nhau ở nhịp trường canh, ở nơi âm điệu, ở sự bổng trầm khoan nhặt, khi thì sâu lẳn, lúc vút tận trời mây do sự đồng điệu hòa lẫn tạo thành không hề riêng rẻ.

Trong khuôn khổ hòa điệu với nhau ấy là lễ. Cho nên lễ nhạc do nơi kết hợp hòa âm gọi là nhạc hòa, vì nhạc mà không hòa thì không thể thành nhạc.

3 – Nghi Lễ Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh

Nghi lễ Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh được lập thành lễ bổn làm chuẩn mực mọi hình thức hoạt động đạo sự Quan Hôn Tang Tế, được sắp sếp gọn nhẹ phù hợp với một phái đạo vừa lo cơ phổ độ vừa lo pháp đạo cơ Tịnh độ, nhưng tương đối đầy đủ về kinh lễ, kinh luật, nhạc, lễ, hòa. Về việc thờ phượng và kệ kinh luôn dựa trên nền tảng truyền thống lâu đời của Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh – Tòa Thánh Long Châu.

Nghi lễ là một trong những trọng tâm của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Nghi lễ đã được quy định những nét căn bản trong việc Quan hôn tang tế, biểu tượng thờ phượng, ý nghĩa cách cúng lạy v.v,,,, tạo thành một công trình chung cho toàn phái đạo. Lập thành Lễ Bổn được Hội Thánh kiểm duyệt và toàn đạo nhất trí cao để cùng thực thi trên đường hành đạo phụng sự nhơn sanh. /.

B- CHẤP TAY, XÁ, LẠY,

VÀ THỈNH THÁNH

1- Ý nghĩa và cách chấp tay

Khi hai tay chấp lại, thì ngón tay cái của bàn tay trái khuyết ấn tý trong bàn   trái, còn ngón tay cái của bàn tay phải thì chỉ vào khuyết Dần của bàn tay trái.

Khi lạy xuống thì hai bàn tay ngữa ra, nhưng vẫn giữ nguyên vị trí khuyết ấn tý trong bàn tay trái.

2- Ý nghĩa và cách xá

Việc xá lúc đứng hay quỳ đều phải giữ đúng ý nghĩa Thiên Địa Nhân như sau: chấp tay đưa lên (Thiên), đưa xuống (Địa), rồi rút vào ngực (Nhân).

          3- Ý nghĩa và cách lạy

Quỳ chấp tay đưa lên trán (Thiên), đưa xuống đất (Địa), rồi rút lên ngực (Nhân).

-Lạy Thầy (Đức Chí Tôn) 12 lạy, (tức 3 lạy, mỗi lạy 4 gật) vì Thầy làm chủ Thập Nhị Khai Thiên.

-Lạy Mẹ (Đức Phật Mẫu) 9 lạy. (Tức 3 lạy, mỗi lạy 3 gật) Vì Mẹ làm chủ Cửu Thiên Khai Hóa).

-Lạy Phật Tiên 9 lạy. (Tức 3 lạy, mỗi lạy 3 gật) Vì chư Phật Tiên trong hàng Cửu Thiên Khai Hóa).

-Lạy Thần Thánh 3 lạy (Vì Thần Thánh vào hàng thứ 3 trong 5 bậc tiến hóa.

-Lạy người sống 2 lạy (Vì 1 lạy Âm 1 lạy Dương, Âm Dương là nguồn bản sự sống)

-Lạy Vong linh 4 lạy (Vì 1 lạy Âm 1 lạy Dương và 2 lạy Vong linh).

4- Thỉnh Thánh

-Hai tay chấp lại đưa lên trán niệm   : Nam mô Phật.

-Đưa qua trái                                   : Nam Mô Pháp

-Đưa qua phải                                 : Nam mô Tăng.

Rồi đưa lên trán từ từ xá xuống niệm:

-Nam Mô Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn.

-Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn.

-Nam Mô Tam Giáo Tổ Sư, Tam Trấn Oai Nghiêm.

-Nam Mô Ngôi Hai Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn

-Nam Mô Nhị Thiên Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn

C- LÔI ÂM CỔ , BẠCH NGỌC

CHUNG VÀ THANH CHUNG

a)- Kệ Lôi Âm Cổ Đại Đàn

- Lôi âm thánh cổ triệt hư không.                 (1 tiếng)

- Truyền tấu Càn Khôn thế giới không.       (1 tiếng)

- Đạo pháp đương kim dương chánh giáo.   (1 tiếng)

- Linh quang chiếu diệu Ngọc kinh cung.     (1 tiếng)

1- Hồi thứ nhứt   -Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 7 tiếng, rồi đánh nhịp 2 tiếng thành 9 tiếng.

-Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 10 tiếng, rồi đánh nhịp 2 tiếng thành 12 tiếng.

-Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 22 tiếng, rồi đánh nhịp 2 tiếng thành 24 tiếng.

2- Hồi thứ nhì   -Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 10 tiếng, rồi đánh nhịp 2 tiếng thành 12 tiếng.

-Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 22 tiếng, rồi đánh nhịp 2 tiếng thành 24 tiếng. Rồi đánh liên thinh đổ vót.

3- Hồi thứ ba   -Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 10 tiếng, rồi đánh nhịp 2 tiếng thành 12 tiếng.

-Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng tiếng cho đến 22 tiếng, rồi đánh nhịp 2 tiếng thành 24 tiếng. Rồi nhịp nhè nhẹ và đánh mỗi lần 3 dùi, đánh đủ 4 lần là 12 dùi. Ấy là thâu Thập nhị khai thiên./.

b)- Kệ Bạch Ngọc Chung Đại Đàn

-Thần chung khởi động thấu diêm đô.   ( 1dùi)

-Địa Tạng khai ân phóng xá cô.           ( 1dùi)

-Vận chuyển tam kỳ châu hiển hiện.     ( 1dùi)

-Thành tâm sám hối thoát tù đồ.           ( 1dùi)

1- Hồi thứ nhứt:

-Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 7 dùi, rồi đánh nhịp 2 dùi thành 9 dùi.

- Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 10 dùi, rồi đánh nhịp 2 dùi thành 12 dùi.

- Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 22 dùi, rồi đánh nhịp 2 dùi thành 24 dùi. Rồi liên thinh đổ vót.

2- Hồi thứ nhì:

-Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 10 dùi, rồi đánh nhịp 2 dùi thành 12 dùi.

- Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 22 dùi, rồi đánh nhịp 2 dùi thành 24 dùi. Rồi liên thinh đổ vót.

3- Hồi thứ ba:

-Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 10 dùi, rồi đánh nhịp 2 dùi thành 12 dùi.

- Nhịp nhè nhẹ rồi đánh từng dùi cho đến 22 dùi, rồi đánh nhịp 2 dùi thành 24 dùi. Rồi nhịp nhè nhẹ và đánh mỗi lần 3 dùi, đánh đủ 4 lần là 12 dùi. Ấy là thâu Thập nhị khai thiên./.

Cúng xong đánh chung bãi đàn:

4- Chung bãi đàn:

-Đàn tràng viên mãn chức sắc qui nguyên, vĩnh mục từ ân phong đều võ thuận.                                                         (đánh 1dùi)

-Thiên phong hải chúng quốc thới dân an, hồi hướng đàn tràn tận thâu pháp giới.                                                             (đánh 1dùi)

Án dà ra đế dạ ta bà ha./.                                         (đánh 1dùi),

Rồi 1 hồi vót, cuối cùng đánh 3 dùi là dứt./.

c)- Kệ Bạch Ngọc Chung Tiểu Đàn

1- Hồi thứ nhứt   (Báo đàn)

-Vân chung khấu hướng huệ trưởng Càn Khôn.     (1 dùi)

-Pháp giới chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn.               ( 1dùi)

-Án dà ra đề dạ ta bà ha.                     (1dùi, Rồi 1 hồi vót)

2- Hồi thứ nhì   (Nhập đàn)

-Thiết vi u ám tất giai văn.                                 (đánh 1dùi)

-Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.         (đánh 1dùi)

-Án dà ra đề dạ ta bà ha.                       (1dùi, Rồi 1 hồi vót)

3- Hồi thứ ba   (bãi đàn)

-Đàn tràng viên mãn chức sắc qui nguyên, vĩnh mục từ ân phong đều võ thuận.                                                         (đánh 1dùi)

-Thiên phong hải chúng quốc thới dân an, hồi hướng đàn tràn tận thâu pháp giới.                                                            (đánh 1dùi)

Án dà ra đế dạ ta bà ha./.                                         (đánh 1dùi),

Rồi 1 hồi vót, cuối cùng đánh 3 dùi là dứt./.

1-   Phân biệt 3 loại chung:

-Tiếng khắc chung, (dùi chung gõ nhẹ trên miệng chung rồi để luôn không giở lên, nghe âm thanh ngắn) là báo hiệu chuẩn bị đọc kinh, hoặc đọc sớ, hoặc khi quì xuống, khi đứng lên, khi lạy xong quì lên.

-Tiếng chung vừa (gõ nhẹ, âm thanh ngân nhỏ) là báo hiệu xá, hoặc cúi đầu.

-Tiếng chung lớn (gõ mạnh, âm thanh ngân to) là báo hiệu lạy.

          2- Cách hầu chung hành lễ

          -Chung 3 tiếng báo tin chuẩn bị hành lễ

          -Chung 6 tiếng báo tin hiện diện đầy đủ.

          -Chung 9 tiếng xá đàn, bước vào vị trí.

          -Chung 12 tiếng xá, quỳ, và Thỉnh Thánh.

D/- HÌNH THỨC THỜ PHƯỢNG

TẠI HỘI THÁNH

a)- Khuôn ảnh trên Thiên Bàn

1-Thánh Tượng Thiên nhãn có Nhựt Nguyệt Tinh kiểu hàng thẳng đứng đặt giữa Thiên bàn ở vị trí cao nhất phía trong Bát Quái Đài.

2-Nối tiếp là một hàng thẳng xuống là khuôn ảnh Thập Tự Tam Thanh có đôi liễn Phật Nhựt Tăng Quy - Pháp Luân Thường Chuyển.

3-Nối tiếp theo nữa là khuôn ảnh Đức Ngôi Hai Giáo Chủ. Là vị Giáo chủ của Phái Đạo Cao Đài Chiếu Minh.

4-Trên Thiên Bàn cũng có Nhứt Trấn oai nghiêm Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhưng chỉ thờ vô vi nên không để khuôn ảnh.

b)- Lễ phẩm trên Thiên bàn

   

Ảnh

   

3

 

1

 

2

   

4

   

9

 

7 5 6

 

8

Ý NGHĨA BIỂU ĐỒ LỄ PHẨM THIÊN BÀN

Số BIÊU ĐỒ

VẬT

TƯỢNG TRUNG

PHỤ GHI

Số 1

Đèn lưu ly

Thái Cực

Tâm đăng

Số 2

Bình bông

Dương

Tiên Thiên ngũ sắc

Số 3

Dĩa trái cây

Âm

Hậu Thiên ngũ quả

Số 4

Lư hương

Ngũ Hành

Giới. Định. Huệ. Giải. Tri

Số 5

3 ly rượu

Khí

Chuyển

Số 6

Bạch thủy

Tinh

Tịnh

Số 7

Trà

Thần

Động

Số 8 và 9

Bộ chưng đèn

Lưỡng Nghi

Nhật nguyệt

1- Đèn Thái cực đặt ở giữa gọi là Thái cực đăng, được thắp sáng liên tục trên Thiên bàn, tượng trưng cho nguồn gốc của vũ trụ, là động năng nguyên thủy và vĩnh cửu phát sinh hai năng lực Âm Dương trong trời đất để hóa sinh muôn loài, vạn vật.

Thái cực đăng còn tượng trưng cho tâm đăng như Kinh Đại Thừa Chân Giáo có dạy: “Ngọn đèn các con thờ chính giữa đó là giả mượn làm tâm đăng, Phật Tiên truyền đạo cũng do đó, các con thành đạo cũng tại đó...”

2- Bình hoa biểu hiện cho sự xanh tươi tốt đẹp, chỉ về tinh là hình thể con người. Năm sắc hoa là tượng trưng cho năm mầu da trên thế giới: vàng, trắng, đỏ, xanh, đen.

3- Dĩa trái cây xếp theo vị trí âm dương, trái cây tượng trưng cho Hậu thiên Ngũ vị đối với Tiên thiên ngũ khí. Trái cây cũng biểu hiện cho người tu hành được thành công đắc quả.

4- Chính giữa để Lư hương vừa đủ cắm 5 cây hương, khi hương tàn không bị rơi ra ngoài; Lư hương với 5 cây hương tượng trưng cho nơi quy tụ của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) còn gọi là Giới hương, Định hương, Huệ hương, Tri kiến hương, Giải thoát hương.

 

3

 

1

 

2

 
             
             
   

5

 

4

   

Giới hương: nghĩa là phải giữ trọn giới cấm cho tâm mình trong sạch; do sợ luật luân hồi quả báo của trời, nên mới dấn thân vào đường tu niệm, khi vào đường tu niệm thì phải trọn giữ giới cấm cho tâm được trong sạch, tức là cây hương ở giữa.

- Định hương:giới cấm rồi, thì phải học về Thể Pháp và Bí Pháp của đạo; lúc đó mới thiền định cho tâm thần an tịnh được, tức là cây hương ở phía bên trái của Thiên bàn (bên bình bông), thuộc về Pháp.

- Huệ hương: nghĩa là thiền định rồi phát huệ; khi đã thiền định rồi, thì trở thành người có huệ sáng suốt, ấy là đoạt Pháp, tức là cây hương ở phía bên phải của Thiên bàn (bên dĩa trái) thuộc về Tăng.

- Tri kiến hương: nghĩa là phát huệ rồi gia công thêm nữa thì sẽ biết cái lẽ màu nhiệm của tạo hóa tức là đắc lục thông. Tri kiến, nghĩa là biết và thấy.

Khi đoạt Pháp rồi, thì sẽ thấy được thế giới vô hình, và biết được sự mầu nhiệm của Đức Chí Tôn, ấy là đã đoạt Đạo, tức là cây hương hàng ngoài bên trái.

- Giải thoát hương: nghĩa là giải thoát luân hồi quả báo; được giải thoát luân hồi quả báo, tức là đoạt đến phẩm vị Phật, tức là cây hương ở phía bên phải.

Cách cắm hương như sau: Phía trong 3 cây ngang nhau, cắm cây giữa trước, sau đó cắm cây phía bình hoa rồi đến cây phía đĩa trái. Phía ngoài cắm 2 cây ngang nhau, cũng cắm cây phía bình hoa trước. Trên Thiên bàn, ngoài ra 5 cây hương thắp cúng tứ thời, nếu gia đình nào có điều kiện thì làm một cây ở giữa lư hương để thắp hương vòng cả ngày và đêm.

Sau khi sắp sếp xong đâu đó, người tín đồ quỳ trước Thiên bàn, chắp tay để giữa trán niệm Nam Mô Phật, chuyển sang bên thái dương trái niệm Nam Mô Pháp, sau đó chuyển sang bên thái dương phải niệm Nam Mô Tăng.

5- Ba ly rượu là tượng trưng cho ba cõi: Hạ giới, Trung giới, Thượng giới, Phàm nhơn, Thần, Thánh, Tiên, Phật. Khi cúng rót rượu ba phân tượng trưng cho ba bậc tu hành: Hạ thừa, Trung thừa, Thượng thừa; và ba bậc trí thức là: Hạ lưu, Trung lưu, và Thượng lưu.

6- Chén nước trắng (bạch thuỷ: Dương) đặt bên trái.

Nước trắng: là Dương. Nước Dương

7- Chén nước trà (âm) đặt bên phải.

Nước trà: là Âm.

8 và 9 Hai cây đèn hai bên trái và phải, ngay trước bình hoa và đĩa trái, đây là hai cây đèn Lưỡng Nghi. Cặp đèn Lưỡng nghi ứng với đèn Thái Cực ở giữa, bên trong, tượng trưng cho nguyên tắc hóa sinh của vũ trụ “Thái cực sinh lưỡng nghi”.

Bông chỉ về Tinh, rượu chỉ về Khí, trà chỉ về Thần. Tinh, Khí, Thần, là Tam bửu của các Đấng Thần, Tiên, Thánh, Phật.

Thời Tý, Ngọ cúng rượu. Thời Mẹo, Dậu cúng nước Âm Dương tức là nước trắng và nước trà, các ngày lễ cúng trong gia đình phải có Tam bửu đầy đủ.

Khi cúng Thầy phải đốt cho đủ 5 cây hương gọi là Tượng Ngũ Khí như sau: Cắm hàng trong 3 cây gọi là: Tam Tài, thêm hàng ngoài hai cây gọi là: Âm Dương.

Người tín đồ Cao đài hàng ngày có 04 khóa lễ vào các giờ Tý, Mão, Ngọ, Dậu (thời Tý từ 11 giờ đêm đến 1 giờ khuya, thời Mão từ 5 giờ sáng đến 7 giờ sáng, thời Ngọ từ 11 giờ trưa đến 1 giờ trưa, thời Dậu từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối); một ngày có 24 giờ, chia cho 12 tức là Thập Nhị Thời Thần, mỗi một thời có 2 tiếng đồng hồ.

Thời Tý: Đúng 12 giờ đêm là chính giữa của thời, là trung hoà chi đạo, là giờ giáp giới, ngày cũ hết, ngày mới bắt đầu, nên 12 giờ đêm 30 tháng 12 gọi là giờ giao thừa.

Thời Tý là thời cực Âm sinh Dương, do nhất điểm Dương sinh chi thủy, vận chuyển càn khôn hóa sinh vạn loại. Cúng thời này phải dâng rượu và sẽ được hưởng khí sinh quang làm cho khí phách được mạnh mẽ, trí não sáng suốt.

Thời Mão: là thời Nguơn Thần, sau những giờ định tịnh mà phát khởi biến hóa, sinh trưởng muôn loài, do Âm Dương vãng lai giao thời, gọi rằng Thủy Hỏa ký tế, vạn loài hữu sinh. Cúng thời này phải dâng trà và sẽ được hưởng Thần lực làm cho Chơn Thần được khoẻ mạnh.

Thời Ngọ: là thời Nguơn Khí có đầy đủ ánh sáng Dương quang, soi thấu cả nguồn sinh khí của toàn thể muôn loài, tức là cực Dương sinh Âm, là nguồn tịnh dưỡng Nguơn Khí, nên phải cúng rượu. Khi đó sẽ được hưởng khí sinh quang nuôi dưỡng khí phách được an tịnh.

Thời Dậu: là thời Nguơn Thần, Âm Dương giao thời, Thủy Hỏa ký tế, vạn loại toại yên, nên phải cúng trà và sẽ nuôi dưỡng Chơn Thần an tịnh.

Khi cúng Thầy phải cắm 5 cây hương, hàng trong cắm 3 cây gọi là án Tan tài (cây giữa cắm trước, sau đó cây bên bình bông trước và cây bên dĩa trái sau).

Thêm hàng ngoài 2 cây nữa gọi là Âm Dương (cắm cấy phía bình bông trước và cây bên dĩa trái sau). Thứ tự theo hình số dưới đây:

Lư hương chỉ về An Lư Lập Đảnh nên để ngay giữa, ý nghĩa năm cây hương là Ngũ hành, Ngũ khí triều nguơn, hay gọi là Ngũ hương gồm: Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Tri kiến hương.

Bàn thờ Thiên Bàn tại Hội Thánh:

Trén có Thánh tượng Thiên Nhãn có Nhựt Nguyệt Tinh một hàng thẳng đứng như sau:

 

Nghi thức Thiên Bàn

 

 

 

 

 

   

Ảnh

   

3

 

1

 

2

   

4

   

9

 

7 5 6

 

8

 

 

Khuôn thờ Thiên Nhãn

 

 

Kế đến Thập nhị Tam Thanh có 2 câu liễn hai bên:
PHẬT 
 NHỰT TĂNG  HUY

và PHÁP  LUÂN  THƯỜNG  CHUYỂN.

 

 

Cuối cùng là khuôn ảnh Đức Ngôi Hai Giáo Chủ.

 

 


        Các Thánh Tịnh, Nhà Tịnh cũng thờ y như vậy, nhưng Thiên Nhãn, Tam Thanh, Đức Ngôi Hai thì chung một khuôn.

Bát Quái Đài là phần hồn của đạo, nơi thờ Đức Chí Tôn và các vị Giáo Chủ. Nơi đây gọi là ngôi Chánh Điện được lập thành một Nghi Thức Thiên Bàn như sau:

Trên Thiên bàn gồm có Khuôn ảnh Thiên Nhãn, Khuôn ảnh Thập Tự Tam Thanh, Khuôn Ảnh Đức Ngôi Hai Giáo Chủ.

- THIÊN BÀN

Khuôn ảnh thờ nơi Hội Thánh

       

1

       
 

4

     

2

     

3

Lễ Phẩm

       

5

       
 

10

   

8

6

7

   

9

Bàn thờ Nhị Trấn và Tam Trấn Oai Nghiêm:

Cửu Trùng Đài là phần Thể của đạo, nơi hội tựu Chức Sắc, Chức Việc cùng Nhơn Sanh để đảnh lễ Đức Chí Tôn và các vị Giáo Chủ.

-Bên trái thờ khuôn ảnh Đức Quan Thánh Đế Quân 關聖帝 phần lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn.

 

-Bên phải thờ khuôn ảnh Đức Quan Âm Như Lai 觀音如來, phần lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn.

 

 

 

-Bên giữa có bàn thờ Nội Nghi, phần lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn.

         
         
         
         

          Hiệp Thiên Đài là phần phách của đạo, là nơi thông công giữa Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài.

Bàn thờ Hộ Pháp thờ nơi Hội Thánh, Thánh Tịnh, từng dưới của Hiệp Thiên Đài, đối diện nhìn lên Điện Thầy ở Bát Quái Đài.

          Cách thờ ở 2 tầng Hiệp Thiên Đài như sau:

-Tầng trên thờ khuôn chữ Đông Phương Chưởng Quản 東方掌管, phần lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn.

 

 

         
         
         
         

-Tầng dưới thờ khuôn chữ Khí, Cả 2 bàn đều đối diện với Bát Quái Đài. phần lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn.


Bàn thờ Hộ Pháp thờ nơi Hội Thánh, Thánh Tịnh, từng dưới của Hiệp Thiên Đài, đối diện nhìn lên Điện Thầy ở Bát Quái Đài.
phần lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn.

         
         
         
         

f )- Thờ nơi Thiên Phong Đường:

         
         
         
         

Thiên Phong Đường là một hội trường lớn để diễn đàn các lễ hội. Phía trong thờ Tiền Khai Đại Đạo là 12 môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn ngày khai đạo cao Đài, và thờ các vị Anh Linh Tiền Bối cơ sở đạo, là các vị Tiền bối quá vãng đã có công gầy dựng và nối truyền cơ sở đạo hiện tại, Bên trái bàn thờ Tiền Vãng Nam, và bàn thờ Chiến Sĩ. Bên phải có bàn thờ Tiền Vãng Nữ và bàn thờ vong linh dành cho các vong linh nhỏ tuổi.

Phía ngoài thờ đối diện với bàn thờ Tiền Bối là trang thờ Tổ Quốc Việt Nam nằm trên cửa giữa.

         
         
         
         

          E/- HÌNH THỨC THỜ PHƯỢNG

          TẠI THÁNH TỊNH, NHÀ TỊNH

a)- Khuôn ảnh thờ nơi Bát Quái Đài:


(Nơi Thánh Tịnh, Nhà Tịnh thờ chung một khuôn ảnh có đầy đủ gồm:)

1-Ảnh Thánh Tượng Thiên Nhãn có Nhựt Nguyệt Tinh kiểu hàng thẳng đứng.

2-Chữ Thập Tự Tam Thanh có đôi liễn Phật Nhựt Tăng Quy - Pháp Luân Thường Chuyển.

3-Ảnh Đức Ngôi Hai Giáo Chủ. Là vị Giáo chủ của Phái Đạo Cao Đài Chiếu Minh.

4-Trên Thiên Bàn cũng có Nhứt Trấn oai nghiêm Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhưng chỉ thờ vô vi nên không để khuôn ảnh.

5-phần lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn tại Hội Thánh.

b)- Khuôn ảnh thờ nơi Cửu Trùng Đài:

(Thờ nơi Cửu Trùng Đài vẫn y như Hội Thánh).

c)- Khuôn ảnh thờ nơi Hiệp Thiên Đài:

(Thờ nơi Hiệp Thiên Đài vẫn y như Hội Thánh).

d)- Khuôn ảnh thờ nơi Thiên Phong Đường:

(Thờ nơi Thiên Phong Đường vẫn y như Hội Thánh).

          F/- HÌNH THỨC THỜ PHƯỢNG TẠI TƯ GIA

Lập vị Thượng Đế thờ tại tư gia thì phải lựa nơi nào cho tinh khiết, tốt hơn hết là giữa nhà, lập trang thờ cho cao và treo màn cho ấm cúng chỗ thờ phượng. Về hình thức thờ phượng có 2 phần quan trọng:

a)- Khuôn ảnh:

-Thờ nơi tư gia chỉ có một khuôn ảnh Thánh Tượng Thiên nhãn có Nhựt Nguyệt Tinh kiểu hàng thẳng đứng đặt giữa Thiên bàn ở vị trí cao nhất trong nhà như sau:


b)- Lễ phẫm:

-Phần lễ phẩm y như lễ phẩm Thiên bàn tại Hội Thánh.

         

 


[1] Trích thuyết đạo, quyển 1, trang 59

Home Lễ bổn .....NGHI LỄ CƠ BẢN