ĐƯỜNG THI LƯU KÝ 2 (101 - 200 )

                                                 Untitled-21.jpg - 230.44 KB

                                                                    NGỌC ÁNH HỘ

 

NGÀY HỘI XUÂN THƠ

 

Trời xuân rực rở khắp muôn nơi,

 

Mới biết tin vui của Đất Trời..

 

Ngọc trắng tươi màu, gìn mãi Đạo,

 

Hoa hồng đượm sắc, giữ y Đời.

 

Loan ca khúc nghĩa, nơi an lạc,

 

Phụng múa điệu tình, cảnh thảnh thơi.

 

Ngày hội Xuân Thơ muôn tiếng chúc,

 

Càng thêm lộng lẩy nét xuân thời.

101

XUÂN THƠ 1992

 

Việt Nam Văn Hiến ánh xuân ngời,

 

Nghệ thật Tao Đàn tỏa khắp nơi.

 

Điểm nét thanh tân, tình hậu đất,

 

Tô duyên trang nhã, nghĩa phương trời.

 

Huy hoàn tợ ngọc lung linh hiện,

 

Lộng lẫy hình mai bát ngát hơi.

 

Đất nước con người ôi ! trác tuyệt,

 

Chúc mừng năm mới đẹp vui đời.

 

                                               (Hà Việt)

101

Xuân Thơ 1992

102

Ngày Hội Xuân Thơ

103

Hồng Duyên Mai Phẩm

104

Chia Sẽ Nỗi Niềm

105

Tiển Ngầm

106

Chúc Duyên

107

Việt, Triều Lưu Niệm

108

Hội Ngộ Thi Nhân

109

Mừng Tinh Tú Xuất

110

Mừng Xuân Tổ Quốc

111

Thơ Mời Hội Xuân 1993

112

Đáp Từ Hội Xuân 1993

113

An Bần Lạc Đạo

114

Ngộ Niềm Thi Cảm

115

Màn Nhung Sân Khấu

116

Giải Thoát

117

Say Đấm Làm Chi

118

Tìm Cơ Giải Thóat

119

Khánh Thọ Thân Sinh

120

Chiều Tây

121

Tây Đô

122

Quê Hương Yêu Dấu

123

Đất Nước Với Tình Yêu ( Bài 1 )

124

Đất Nước Với Tình Yêu ( Bài 2 )

125

Cần Thơ Khởi Sắc

126

Tài Nguyên Thiên Phú

127

Kỷ Niệm Trà Vinh

128

Nông Trường Cổ Lịch

129

Chúc Duyên Giai Ngẫu

130

Xuân Thơ 1993

131

Tam Kỳ Phổ Độ

132

Nhiệm Vụ Hiệp Thiên

133

Trách Nhiệm Cửu Trùng

134

Lễ Phẩm

135

Tiên Thiên Chánh Vị

136

Anh Thư Nữ Kiệt

137

Hoàng Hoa Thám

138

Hồn Thiêng Yên Bái

139

Nguyễn Trung Trực

140

Nhớ Gương Nguyễn Trãi

141

Phan Đình Phùng

142

Đinh Bộ Lĩnh

143

Lê Hoàn

144

Lý Thường Kiệt

145

Nguyễn Thời Trung

146

Lương Hữu Khánh

147

Nguyễn Thái Học

148

Mai Thúc Loan

149

Nguyễn Bỉnh Khiêm

150

Câu Trần Lưới Tục

151

Trước Bao Thử Thách

152

Bình Tâm Định Pháp

153

Chợt Tỉnh

154 

Một Giấc Tương Tư

155 

Buộc Ràng Danh Vọng

156 

Thương Tiếc Xa Ngàn

157 

Công Ơn Sanh Dưỡng

158 

Sáng Ngời Truyền Thống

159 

Chúc Thơ Trần Hà Tiếp Vận

160 

Việt, Triều Lưu Niệm

161 

Thơ Tặng Thi Hữu Song Vũ

162 

Mừng Cháu Tròn Trăng

163 

Kính Mừng Tăng Thọ

164 

Tình Thơ Tâm Pháp Bài ( 1 )

165 

Tình Thơ Tâm Pháp Bài ( 2 )

166 

Thơ Tặng Kỷ Sư Vũ Thế Trụ

167 

Tưởng Nhớ Th Thiện Linh

168 

Thơ Tặng Lê Thanh Nga

169 

Thơ Tặng Thi Hữu Thiện Thanh

170 

Thơ Tặng Huynh Chí Đạt

171 

Thơ Tặng Nguyễn Tấn Phát

172 

Thơ Tặng Phạm Tấn Thành

173 

Thơ Tặng Muội Duyên

174 

Nhiên Đức Bồ Tát

175 

Nhiên Hoà Như Lai

176 

Trầm Ẩn Kim Tiên

177 

Thuần Dương Đàn

178 

Gởi Bạn Văn Kuôl

179 

Thơ Tặng Thi Hữu Hãi Hà

180 

Thơ Tặng Thi Hữu Thanh Trần

181 

Thơ Tặng Thi Hữu Tứ Bạch

182 

Thơ Tặng Thi Bá Đức Nghiệp

183 

Thơ Tặng Thi Hữu Khánh Triều

184 

Thơ Tặng Thi Hữu Thanh Bình

185 

Thơ Tặng Thi Hữu Năm Ngay

186 

Thơ Tặng Thi Hữu Ký Ốm

187 

Thơ Tặng Thi Hữu Hoàng Linh

188 

Thơ Tặng Thi Hữu Bảo Trâm

189 

Thơ Tặng T.h Huỳnh Thanh Phong

190 

Thơ Tặng T.h Trần Lệ Khánh

191 

Thơ Tặng Thi Hữu Lê Minh

192 

Thơ Tặng T.h Hà Bửu Phát

193 

Thơ Tặng Thi Hữu Ái Nhân

194 

Thơ Tặng Thi Hữu Nam Phong

195 

Thơ Tặng Thi Hữu Năm Thiệp

196 

Thơ Tặng T.h Trần Minh Thông

197 

Thơ Tặng T.h Hoàng Thân

198 

Thơ Tặng Thi Hữu Ngũ Sắc

199 

Thơ Tặng Thi Hữu Thiện Linh

200 

Thơ Tặng T.h Giang Hồ Khách

 

 

 

 

ĐƯỜNG THI LƯU KÝ 2

NGỌC ÁNH HỘ

(Hà Việt) 

101

XUÂN THƠ 1992

 

Việt Nam Văn Hiến ánh xuân ngời,

 

Nghệ thật Tao Đàn tỏa khắp nơi.

 

Điểm nét thanh tân, tình hậu đất,

 

Tô duyên trang nhã, nghĩa phương trời.

 

Huy hoàn tợ ngọc lung linh hiện,

 

Lộng lẫy hình mai bát ngát hơi.

 

Đất nước con người ôi ! trác tuyệt,

 

Chúc mừng năm mới đẹp vui đời.

   

102

NGÀY HỘI XUÂN THƠ

 

Trời xuân rực rở khắp muôn nơi,

 

Mới biết tin vui của Đất Trời..

 

Ngọc trắng tươi màu, gìn mãi Đạo,

 

Hoa hồng đượm sắc, giữ y Đời.

 

Loan ca khúc nghĩa, nơi an lạc,

 

Phụng múa điệu tình, cảnh thảnh thơi.

 

Ngày hội Xuân Thơ muôn tiếng chúc,

 

Càng thêm lộng lẩy nét xuân thời.

   

103

HỒNG DUYÊN MAI PHẨM

 

Được  tin  Thi Hữu mở Thi Đàn,

 

Hà Việt nhanh chân chuyển tuệ trang.

 

Do bởi đề Xuân hè nối tiếp,

 

Cũng gì lý Đạo hội chưa tan.

 

Chút tình mong mõi thơ như ngọc,

 

Vài ý hằng ghi nhạc  tợ vàng.

 

Lưu ảnh, lưu tình bao kỷ niệm,

 

Những gì đẹp nhất của thời gian.

   

104

CHIA SẼ NỖI NIỀM

 

Ai khỏi dầng hồng hướng điểm tây,

 

Làm sao giúp đở được phen nầy.

 

Tấm lòng đưa đến hầu thanh thoảng,

 

Tấc dạ gởi về để giải khuây.

 

Sống thác chớ màng vì tợ gió,

 

Tồn vong đừng nghỉ bởi như mây.

 

Phú thơ âm hưởng ngời hương sắc,

 

Kính nguyện hồng ân của Mẹ Thầy.

   

105

TIỂN NGẦM

 

Qua những thời gian dạ nhớ thầm,

 

Người đi kẻ ở khó về thăm.

 

Trời thương, dẫu phải xa ngàn dậm,

 

Đất cảm, cho đành cách mấy năm.

 

Thuở ấy chờ nhau buồn hiện hữu ,

 

Giờ đây gặp lại khổ âm thầm.

 

Biết bao kỷ niệm chưa phân cạn,

 

Lại lúc trời tây, phút tiển ngầm.

   

106

CHÚC DUYÊN

 

Vui mừng lưỡng tộc chẳng phân hai,

 

Hà Việt kịp thời đến dự ngay.

 

Trước tỏ lời trao, Đời điểm mãi,

 

Sau bày ý gợi, Đạo thêm hoài.

 

Bền lòng son sắt, bền ân đức,

 

Vững dạ thủy chung, vững nghĩa tài.

 

Hạnh phúc ấm êm nồng thắm đượm,

 

Chúc duyên hựu hão rạng tương lai.

   

107

VIỆT, TRIỀU LƯU NIỆM

 

Hà Việthôm nay đến thất Triều,

 

Thâm tình cảm thấy biết bao nhiêu.

 

Lời thương trao đổi khơi lòng tỏ,

 

Ý nhớ luận bàn gợi dạ khiêu.

 

Chung bước đường dài, hồn bút kính,

 

Cùng đi nẽo thẳng, thể thơ yêu.

 

Thi giao kỷ niệm lưu tình đẹp,

 

Nghĩa ngọc càng thêm đậm sắc nhiều.

   

108

HỘI NGỘ THI NHÂN

 

Thi nhân hội ngộ tiệc vui chơi,

 

Mừng gặp đệ huynh thỏa dạ rồi.

 

Ngọc hữu tương giao đây với đó,

 

Kim bằng kết nghĩa bạn và tôi.

 

Chung trà ngọt đắng, bàn cơ Đạo,

 

Chén rượu nồng cay, luận sự Đời.

 

Tiếng nhạc lời thơ hòa điệu kết,

 

Thâm tình vang mãi khắp muôn nơi.

   

109

MỪNG TINH TÚ XUẤT

 

Mừng nay tinh tú hạ trần gian,

 

Với cả tình châu, nghĩa ngọc vàng.

 

Rực rở tâm thành truyền mãi lối,

 

Sáng ngời ý chí  sắp  thêm hàng.

 

Đẹp lòng quân tử dồi nghiêm thất,

 

Thỏa dạ hiền nhân điểm tuệ trang.

 

Vẹn thảo, tròn trung, Đời Đạo học,

 

Tuyệt vời trăng chiếu tỏa khang an.

   

110

MỪNG XUÂN TỔ QUỐC

 

Hà đồ Bát Quái dưỡng tâm  an,

 

Siêu xuất trung hòa ứng điển quang.

 

Tuế thượng mừng cầu, xuân Tổ quốc,

 

Tài tăng nguyện chúc, tết giang san.

 

Cơ đồ đất nước luôn bền bỉ,

 

Sự nghiệp quê hương mãi vững vàng.

 

Sức mạnh toàn dân chung sức dựng,

 

Ngày thêm giàu đẹp Việt Nam Bang.

   

111

THƠ MỜI HỘI XUÂN 1993

 

Kính mới thi hữu nghĩa sâu xa,

 

Nghệ sĩ văn nhân rất đậm đà.

 

Ước đặng ghi âm bài tự xướng,

 

Mong thành kỷ niệm bản song ca.

 

Tình lưu tiếp đón nơi An Nghiệp,

 

Tiệc mở mong chờ tại bổn gia.

 

Kết hợp chủ đề xây dựng cả,

 

8 giờ mùng 7 tết con gà.

   

112

ĐÁP TỪ HỘI XUÂN 1993

 

Thay mặt tòan ban tổ chức đây,

 

Trước xin cảm tạ địa phương nầy.

 

Sau là Nghệ sĩ chung tô điểm,

 

Cùng với Thi nhân hiệp đấp xây.

 

Trọng nghĩa Tao đàn, nguyền kết mối,

 

Thâm tình Bút mặc, quyết liên dây.

 

Tinh thần đòan kết luôn bền vững,

 

Kính chúc tân niên phước lộc đầy.

   

113

AN BẦN LẠC ĐẠO

 

Dương thế chỉ là cõi tạm nương,

 

Vì duyên đại điểm mới siêu thường.

 

Mùi danh không nặng, không phiền muộn,

 

Bả lợi chẳng màn, chẳng lụy vương.

 

Ẩn sĩ nhàn tu, gương tỏa sáng,

 

An bần lạc Đạo, tiếng thơm hương.

 

Càng cao đức cả tăng  phần huệ,

 

Thông suốt từ linh đến Phật đường.

   

114

NGỘ NIỀM THI CẢM

 

Ngộ niền thi cảm rộng mông mênh,

 

Trao đổi cùng nhau rạng tuổi tên.

 

Non nước thông tri đường tiến hóa,

 

Đất Trời tỏ rõ hướng đi lên.

 

Tinh thần kiến trúc, nền kiên cố,

 

Ý chí dựng xây, mống vững bền.

 

Sáng đẹp tinh tường hồn bút điển,

 

Thâm tình bút mặc chẵng hề quên.

   

115

MÀN NHUNG SÂN KHẤU

 

Vòng tròn trái đất chẳng ngừng quay,

 

Tuổi thọ lần xem cũng đến ngày.

 

Sân khấu tuồng Đời do giả mượn,

 

Màn nhung bảng Đạo chớ lầm thay.

 

Tường chơn khi thấy điều vô vọng.

 

Rõ thiện vì nghe phút trắng tay.

 

Định hướng duyên tiên hồi tỉnh thức,

 

Mới hầu giải nghiệp thoát bi ai.

   

116

GIẢI THOÁT

 

Giải thoát là phương tối nhiệm hành,

 

Thóat vòng duyên nghiệp dẫu bao quanh.

 

Ở nơi chấp ngã, lòng không chấp,

 

Nương chỗ tranh đua, dạ chẳng tranh.

 

Nương chỗ vọng tâm, tâm bất vọng,

 

Ở nơi biến tánh, tánh vô sanh.

 

Nội thân, ngọai thể đều thông thóat,

 

Thóat ấy chính là bậc Thánh anh.

   

117

SAY ĐẤM LÀM CHI

 

Cảnh thế sao nhiều nỗi ngược xuôi,

 

Lẻ nào đi tới, lẽ nào lui ?

 

Tham mê bả lợi nhiều căn bả,

 

Vọng tưởng mùi danh lắm vị mùi.

 

Chứa chấp ác hung, sao giải tỏa,

 

Chất chồng tội lổi, liệu phanh phui.

 

Chỉ là ảo mộng, là hư ảnh,

 

Say đấm làm chi phút ngậm ngùi.

   

118

TÌM CƠ GIẢI THÓAT

 

Sanh tử trần gian chẳng vững bền,

 

Nào hay sống thác giả đò quên.

 

Còn đi, còn đến, còn cao thấp,

 

Hết đến, hết đi, hết dưới trên.

 

Nhựt Nguyệt Càn Khôn đều vắng bặc,

 

Âm Dương Vũ Trụ cũng buồn tênh.

 

Tìm cơ giải thóat thông bờ bến,

 

Mới đặng rõ bày hướng tiến lên.

   

119

KHÁNH THỌ THÂN SINH

 

Thánh Đức Tân Dân tuế thọ trần.

 

Trùng thiên quang điển đượm trời xuân.

 

Ơn nhà hiếu để không dời đổi,

 

Nợ nước trung cang chẳng chuyển dần.

 

Đạo hiếu tâm thông tròn kết quả,

 

Nghĩa ân trí đắc vẹn nguyên nhân.

 

Càng nêu gương sáng cho mai hậu,

 

Lưu sử  ngàn năm mãi chiếu ngần.

   

120

CHIỀU TÂY

 

Trời đất mênh mang có rõ thông,

 

Tin chờ đâu nhĩ ! lạnh đêm đông.

 

Tuổi già há sánh thời quanh liệt,

 

Sức yếu sao bì thuở chiến công.

 

Chỉ việc trông mong sao chẳng thấy,

 

Lắm phen ngống đợi cũng như không.

 

Bao nhiêu cơ cuộc chưa rằng thỏa,

 

Xế bóng chiều tây vẫn nặng lòng.

   

121

TÂY ĐÔ

 

Thành phố quê tôi thật vẻ vang,

 

Hùng anh trung dũng sử ghi trang.

 

Lung linh bến Bắc dòng sông bạc,

 

Thoai thoải bờ Nam bãi cát vàng.

 

Đó bến Ninh Kiều ngời chiến thắng,

 

Đây phần Đất Hậu rạng vinh quang.

 

Thuyền xe tấp nập, người mua bán,

 

Sản xuất tăng gia cảnh thịnh nhàn.

   

122

QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU

 

Quê hương yêu dấu tuyệt xuân trang,

 

Tình cảm trong tôi mãi ngập tràn.

 

Sắc nước lung linh tô dáng ngọc,

 

Màu hoa lộng lẩy điểm dung nhan.

 

Đường thương chan chứa ân tình thắm,

 

Lối mộng đầy vơi kỷ niệm vàng.

 

Cảnh vật hồn nhiên tươi sáng đẹp,

 

Hòa theo khúc nhạc với cung đàn.

   

123

ĐẤT NƯỚC VỚI TÌNH YÊU ( BÀI 1 )

 

Gương sáng lưu truyền, Chí  nấu nung,

 

Tạo nền thống nhất Bắc, Nam, Trung.

 

Nhớ ơn Liệt Sĩ dành cơ nghiệp,

 

Nhớ nghĩa Thương Binh giữ đất hùng.

 

Nhớ những cụ ông trong lửa đạn,

 

Nhớ từng bà mẹ cảnh bom tung.

 

Hồn thiêng sông núi luôn bừng khí,

 

Lịch sử vinh quang chiếu khắp cùng.

   

124

ĐẤT NƯỚC VỚI TÌNH YÊU ( BÀI 2 )

 

Khắp cùng non nước một tình thương,

 

Xây dựng ngày thêm cảnh phú cường.

 

Phát triển Dân Sanh ngời đất nước,

 

Mở mang Dân Trí đẹp quê hương.

 

Trái tim chàng nghệ luôn bừng thắm,

 

Khối óc nàng thơ mãi rực hường.

 

Tương hợp giao duyên hòa điệu hát,

 

Vui đời hạnh phúc vững miên trường.

   

125

CẦN THƠ KHỞI SẮC

 

Cần Thơ khởi sắc, sắc nguy nga,

 

Phố chợ đông vui, nghĩa đậm đà.

 

Xe cộ ngược xuôi, đường tráng lệ,

 

Gái trai nhộn nhịp, cảnh phồn hoa.

 

Tây Đô anh kiệt, danh lừng lẩy,

 

Sông Hậu nàng hương, tỏa rộng xa.

 

Có những nhà thơ, nhà nghệ sĩ,

 

Luôn đem chí khí điểm sơn hà.

   

126

TÀI NGUYÊN THIÊN PHÚ

 

Aùnh sáng tương lai thắm đượm ngàn,

 

Hướng về đất nước dựng nên trang.

 

Việt Nam thiên phú, nhiều kho báu,

 

Tổ Quốc hùng cường, rực điện quang.

 

Hội đủ nhân tài tô gấm vốc,

 

Đồng chung sự nghiệp điểm giang san.

 

Vui Đời đẹp Đạo hồn dân tộc,

 

Truyền thống đấu tranh đậm sử vàng.

   

127

KỶ NIỆM TRÀ VINH

 

Trà Vinh rực sáng cả muôn lòng,

 

Hạnh phúc quê hương thỏa ước mong.

 

Kia những con đường, tình trải mộng,

 

Đây nhiều thời vụ, nghĩa tràn bông.

 

Bờ ngô đượm sắc nàng thôn nữ,

 

Lối nhỏ thơm màu áo trắng trong.

 

Đa dạng cây trồng trên mảnh đất,

 

Tương lai rạng rở kết giao đồng.

   

128

NÔNG TRƯỜNG CỔ LỊCH

 

Nông Trường Cổ Lịch rực trời thanh,

 

Nước ngọt hòa duyên với đất lành.

 

Trên tiếp hàng muôn màu trái đỏ,

 

Dưới chờ trùng vạn sắc tom xanh.

 

Nhân tài có sẳn cùng vươn tới,

 

Lực lượng còn đây hãy tiến nhanh.

 

Khai thác tận nguồn theo hướng mới,

 

Thành công tiến đến đại công thành.

   

129

CHÚC DUYÊN GIAI NGẪU

 

Hoa hồng rực rở  điểm xuân thì,

 

Giai ngẩu vầy duyên, sắc thắm ghi.

 

Kính bút trăm năm, ngày Hội Cưới,

 

Chúc lời hạnh phút, lễ Vu Quy.

 

Song tình kết mối, gìn chân lý,

 

Nhị tộc  đoàn viên, giữ Đạo nghi.

 

Nét ngọc trang ngà hòa điệu kết,.

 

Bài thơ kỷ niệm đậm tương tri.

   

130

XUÂN THƠ 1993

 

Chúc mừng năm mới thắm tình xuân,

 

Hội ngộ duyên thơ tuyệt tác trần.

 

Rượu tiếp hân hoan, khơi ý chí,

 

Trà dâng hớn hở, gợi tinh thần.

 

Quê hương tươi sắc tròn ân nước,

 

Tổ quốc rực màu, vẹn nghĩa dân.

 

Trí thức tỏa ngời hương Đạo đức,

 

Tân niên ngũ phúc đủ trăm phần.

   

131

TAM KỲ PHỔ ĐỘ

 

Con đường phổ độ khá tầm  tri,

 

Nhứt, Nhị, Tam Nguơn cổ đại thì.

 

Trước có Nhiên Đăng truyền Phật Giáo,

 

Sau là Thái Thượng điểm Tiên Quy.

 

Đạo hiền Đạo hiếu thời Hy Phục,

 

Đạo Thánh, Đạo Nhân thuở Phục Hy.

 

Thích, Lão,Nho Tông lần kế tiếp,

 

Ngọc Hoàng Thượng Đế chuyển Tam Kỳ.

   

132

NHIỆM VỤ HIỆP THIÊN

 

Hộ Pháp đồng thông điểm nhất quy,

 

Lập thành Chi Pháp chẳng sai di.

 

Hữu phân Thượng Phẩm coi Chi Đạo,

 

Tả định Thượng Sanh giữ Thế Chi.

 

Thập Nhị Thời Quân cùng tiếng gọi,

 

Tam Cơ Sứ Mạng phải cho y.

 

Tiếp, Khai, Hiến, Bảo thông tường luật,

 

Nhiệm vụ Hiệp Thiên rạng rở kỳ.

   

133

TRÁCH NHIỆM CỬU TRÙNG

 

Cao Đài Nam Việt rạng Thiên thư,

 

Ứng Cửu Trùng Thiên trách nhiệm như :

 

Nhứt Phật Giáo Tông thông bổn Phật,

 

Tam Tiên Chưởng Pháp tiếp Đầu Sư.

 

Phối ba mươi sáu ghi phần Thánh,

 

Giáo bảy mươi hai chỉ bậc từ.

 

Đồ đệ tam thiên hàng Giáo Hữu,

 

Lễ Sanh, Chức Việc thật vô ư.

   

134

LỄ PHẨM

 

Tả hưũ không nghiêng, giữ chánh tông,

 

Trước đèn Thái Cực đặt bên trong.

 

Hậu Thiên Ngũ vị, tầm nơi trái.

 

Ngũ sắc Tiên Thiên, nghiệm ở bông.

 

Trà kết tửu hoa, Tam bửu định,

 

Trà chung bạch thủy lưỡng nghi đồng.

 

Nấc thang tiến hóa Nguyên Chân Lý,

 

Gồm đủ Âm Dương,Thủy Hỏa Phong.

   

135

TIÊN THIÊN CHÁNH VỊ

 

Vận hành Bát Quái rõ càn Khôn,

 

Nam Bắc phân minh sự bảo tồn.

 

Ly thuộc, Đông cung huyền ứng điển

 

Khảm vềTây độ biến siêu hồn,

 

Chấn Đoài, Đông Bắc, Đông Nam ải,

 

Tốn Cấn Tây Nam, Tây Bắc môn

 

Tứ Chánh hiệp đồng, thông Tứ Ngẫu,

 

Tiên Thiên vô Cực Đại Từ Tôn.

   

136

ANH THƯ NỮ KIỆT

 

Thế thượng thường nhiên, luật chẵng thường,

 

Học nhân tiếng để rạng danh gương.

 

Nhị Trưng Nữ Kiệt, tình lưu dấu,

 

Chân Thị Anh Thư, nghĩa vấn vưưng.

 

Đất Á gương trinh, người vẫn nhớ,

 

Trời Âu sử tiết, chúng còn thương.

 

Trăng thanh soi tỏ bao hình ảnh,

 

Chiếu cả lòng dân đến Thượng đường.

   

137

HOÀNG HOA THÁM

 

“Hùm Thiêng Yên Thế” tướng quân hùng,

 

Mượn chước gian tà lập kế trung.

 

Cả Trọng thật thù nên chẳng vị,

 

Ông Đề giả tử để không dung.

 

Lầm mưu giặc Pháp thua vong loạn,

 

Phải lược nghĩa quân đánh tứ tung.

 

Thương Phức khiếp kinh giờ rõ mặt,

 

Hoàng Hoa Thám vẫn tiếng vang lừng.

   

138

HỒN THIÊNG YÊN BÁI

 

Phong trào sôi nỗi chí hùng anh,

 

Bởi hận thù kia nặng chỉ mành.

 

Khắp tỉnh Đông Tây cờ thắm đỏ,

 

Các miền Nam Bắc nước ngời xanh.

 

Lời kêu vạn chúng, ta càng đượm,

 

Thơ gởi Toàn Quyền, giặc vẫn tanh.

 

Lịch sử vẻ vang muôn thuở kiếp,

 

Hồn Thiên Yên Bái mãi trường sanh.

   

139

NGUYỄN TRUNG TRỰC

 

Nguyễn Trung Trực  một đại danh thần,

 

Mưu lược chiến trường thật khó cân.

 

Nhật Tảo lửa hồng thiêu xác giặc,

 

Kiên Giang sóng chuyển, dậy lòng dân.

 

Sống thời vẹn chữ trung non nước,

 

Chết để tròn câu hiếu mẫu thân.

 

Giặc Pháp thảy nghe đều khíp sợ,

 

Lừng danh Quảng Lịch chiếu gương ngần.

   

140

NHỚ GƯƠNG NGUYỄN TRÃI

 

Hà Đông sao sáng mãi không tàn,

 

Hiếu nghĩa nhân tình rạng sử trang.

 

Vì nước trả thù, kinh giặc ngoại,

 

Vì nhà rửa hận, khíp Minh bang

 

Trước vì Thái Tổ tru tam tộc,

 

Sau được Thánh Tôn giải tỏa an.

 

Đó nghiệp hùng anh gương Nguyễn Trãi,

 

Ngời linh hiển hích khắp giang san.

   

141

PHAN ĐÌNH PHÙNG

 

Tại ngọn Ngàn Trươi họp nghĩa quân,

 

Giữa mùa mưa lũ, giặc bao vần.

 

Giang sơn gẩm lại đau lòng nghĩa,

 

Gấm vốc tầm qua xót dạ nhân.

 

Mượn khoản rừng thưa lừa giặc kế,

 

Nhờ khe núi kín tiến binh gần.

 

Phan Đình Phùng tiếng tâm vang vội,

 

Chiến thắng vụ quang sử sáng ngần.

   

142

ĐINH BỘ LĨNH

 

Cũng bởi nước nhà loạn sứ quân,

 

Nhờ Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong phần.

 

Đại Cồ Việt quốc, vui lòng tướng,

 

Vạn Thắng Vương ngôi, thỏa chí dân.

 

Nguyễn Bặc, Đinh Điền ngời tiếng để,

 

Lê Hoàn, Phạm Hạp rạng danh nhân.

 

Đinh Tiên Hoàng Đế lưu truyền sử,

 

Niên hiệu Thái Bình cảnh thạnh tân.

   

143

LÊ HOÀN

 

Lê Hoàn danh rạng chức càng cao,

 

Thái Hậu đề dương, khoát ngự bào.

 

Giữa lúc Ấu Vương còn thế chậm,

 

Vưà khi Tiên Đế mãn phần mau.

 

Ngoại bang phải lúc đang chờ tới,

 

Quân Tống thưà cơ đã kéo vào.

 

Khiến giặc thua to không sánh nỗi,

 

Tiền Lê rực rở đến ngàn sau.

   

144

LÝ THƯỜNG KIỆT

 

Mưu lược chiến trường thật khó cân,

 

Phò vua giúp nước rạng trung thần.

 

Nhiều phen chống giặc, ngời danh dũng,

 

Lắm lúc thủ thành đậm tiếng nhân.

 

Lập những kỳ công cùng đất nước,

 

Tạo bao chiến tích với quân dân.

 

Lý Thường Kiệt mãi danh đề sử,

 

Soi sáng niềm tin tỏa chiếu ngần.

   

145

NGUYỄN THỜI TRUNG

 

Ông Nguyễn Thời Trung, tổ đóng giầy,

 

Sang Tàu tìm học chuyển về đây.

 

Vương lên dẫu phải đầu chông nhọn,

 

Tiến tới xá chi mặt đất lầy.

 

Chung sức vì dân hầu trọn đủ,

 

Góp công với nước mãi thêm đầy.

 

Cũng là ý nghĩa cho đời sống,

 

Sống mãi trong nghề được đắp xây.

   

146

LƯƠNG HỮU KHÁNH

 

Lương Hữu Khánh xưa thật tướng hùng,

 

Phi thường sức mạnh hổ còn rung.

 

Văn chương soi sáng nguyên lòng chánh,

 

Tài đức tỏ ngời một dạ trung.

 

Ẩn Mạc không công, công lại nãn,

 

Phò Lê lập trận, trận thêm nung.

 

Thời lai thế dũng không quên thuở,

 

Qua một bài thơ lúc túng cùng.

   

147

NGUYỄN THÁI HỌC

 

Nguyễn Thái Học xưa lập mống nền,

 

Xa gần hưởng ứng để làm nên.

 

Giữa thời thù hận bao mùi khói,

 

Nhằm lúc giặc cuồng lắm đạn tênh.

 

Được thế, hùng anh  đồng hiệp sức,

 

Sa cơ, chí khí vẫn luôn bền.

 

Trước giờ lịch sử dòng thơ thép,

 

Chặt đứt mộng hồn lũ quạ kên.

   

148

MAI THÚC LOAN

 

Mai Thúc Loan người địa phận Hoan,

 

Tuy nghèo nhưng khó sánh tâm vàng.

 

Trải bao phiền thuế, toan trừ biến,

 

Lắm cuộc hờn sưu, quyết giải nàn.

 

Lời gọi đồng thề xây rạng sử,

 

Tiếng kêu hưởng ứng dựng ngời trang.

 

Nghe uy Đường Lý đều rung sợ,

 

Hắc Đế lừng danh khắp Vạn An.

   

149

NGUYỄN BỈNH KHIÊM

 

Trình Quốc Công xưa Nguyễn Bỉnh Khiêm,

 

Trạng nguyên thời Mạc được phong quyền.

 

Tinh thông lý số, đề thơ để,

 

Tuyệt thấu tiên tri, sấm ký truyền.

 

Đạo đức con người bền nghĩa khí,

 

Tình thương nòi giống vẹn trung kiên.

 

Soi gương trí Đạo muôn đời kiếp,

 

Học một biết mười, hiểu tự nhiên.

   

150

CÂU TRẦN LƯỚI TỤC

 

Say đấm làm chi cảnh khổ nàn,

 

Yêu tinh lấp ngõ lại chen đàng.

 

Câu trần ám muội, bao phiền muộn,

 

Lưới tục hôn mê, lắm thở than.

 

Chạnh kiếp sa cơ, ai giải cứu,

 

Tủi đời thất thế, mặc kêu oan.

 

Ôi ! vòng  duyên nghiệp thương hờn đủ,

 

Phải khá tầm tri chớ buộc ràng.

   

151

TRƯỚC BAO THỬ THÁCH

 

Từng trãi phong sương bước Đạo trường,

 

Đi từ ý thức đến đề chương.

 

Đời cho cay đắng, cho lề luật,

 

Đạo giúp mặn nồng, giúp kỷ cương.

 

Mỗi đoạn chông gai nung chí khí,

 

Từng cơn thử thách, luyện kiên cường.

 

Xung quanh sự khảo là phương tiện,

 

Xây dựng  niềm tin vững lối đường.

   

152

BÌNH TÂM ĐỊNH PHÁP

 

Bao điều nghiệp lực mãi đua tranh,

 

Mơ tưởng chi trần thứ giả danh.

 

Bạc  gió theo mây, tuồng phú quý,

 

Vàng sương cuộng nước, tích công khanh.

 

Mưa trôi, trôi cả thân phàm tục,

 

Gió cuống, cuống theo khối điển thanh.

 

Việc thế rõ bày nên tỉnh ngộ,

 

Bình tâm định pháp hởi nhân sanh.

   

153

CHỢT TỈNH

 

Trải bao gian khó nghiệp duyên đầy,

 

Kiểm lại hành trang những phút giây.

 

Đếm thử bao phen hư ảo vọng,

 

Lường xem mấy đoạn mịch mờ tây.

 

Thành công rực rở theo bèo nước,

 

Chiến tích vang lừng gởi gió mây.

 

Cát bụi trả về cho cát bụi,

 

Vẩn vơ hồn phách đến đâu đây ?...

   

154 

 MỘT GIẤC TƯƠNG TƯ

 

Còn chăng mơ ước thuở ban đầu,

 

Tâm sự vơi đầy có rõ đâu.

 

Khoé mắt bờ mi, dòng nước xoáy,

 

Con tim mạch máu, giọt mưa ngâu.

 

Tình yêu ngắn ngũi bao trường đoạn,

 

Mộng ước chưa tròn lắm bễ dâu.

 

Một giấc tương tư dường thế kỷ,

 

Nguồn thương, suối nhớ Đạo nên cầu.

   

155 

BUỘC RÀNG DANH VỌNG

 

Người ở trên đời dạ khó cân,

 

Những gì đánh mất bổn lương chân.

 

Cao sang quyền quý sanh tâm độc,

 

Danh vọng bạc tiền khởi ác nhân.

 

Ôi ! nghiệp bản thân che bản thể,

 

Ôi ! tình đơn thể buộc đơn thân.

 

Làm sao giải tỏa bao phiền lụy ?...

 

Tỉnh định ai ơi ! chớ lắm lần!...

   

156 

THƯƠNG TIẾC XA NGÀN

 

Thôi rồi ! một kiếp trãi nhân gian,

 

Để lại người thương giọt lệ tràn.

 

Cách ngã đường đi về cảnh giới,

 

Chia phương kẻ ở lại trần hoàn.

 

Kim ngôn Phật dạy xin lưu giữ,

 

Bửu huấn kinh truyền khá định an.

 

Trước phút đưa người về vĩnh cửu,

 

Nỗi buồn rung động, khóc ly tan.

   

157 

CÔNG ƠN SANH DƯỠNG

 

Công ơn sanh dưỡng lắm gian truân,

 

Mừng trẻ tập tành những bước chân.

 

Nghĩa mẹ sanh thành không kể xiết,

 

Công cha dưỡng dục khó lường cân.

 

Khi vì sự sống nơi đồng áng,

 

Lúc phải mưu sinh giữa bụi trần.

 

Công tợ thái sơn, ơn tợ hãi,

 

Mong con khôn lớn đặng nên thân.

   

158 

SÁNG NGỜI TRUYỀN THỐNG

 

Khá vững đường tu bước dạng dày,

 

Gương lành soi sáng hướng tương lai.

 

Vẹn gìn chánh ý cùng năm tháng,

 

Tròn giữ chơn tâm mãi tháng ngày.

 

Hiệp bút tình thương, lời sáng đẹp,

 

Hòa thơ bác ái, tiếng thơm bay.

 

Sáng ngời truyền thống dân Hồng Lạc,

 

Đạo đức con người chẵng đổi thay.

   

159

CHÚC THƠ TRẦN HÀ TIẾP VẬN

 

Gia đình sum họp Đạo Tông truyền,

 

Bảonhiệm chung phần kết bút nghiên.

 

Đường sáng gieo nhân, hồng huệ điểm,

 

Thi xanh kết quả, phúc ân truyền.

 

Trầngiao đậm nghĩa từng chi nhựt,

 

hiệp thâm tình trãi tất niên.

 

Tiếpnhận lưu hành thông lý chánh,

 

Vậnkỳ thể tựu ứng chân nguyên.

   

160

VIỆT, TRIỀU LƯU NIỆM

 

Hà Việthôm nay đến thất Triều,

 

Thâm tình cảm thấy biết bao nhiêu.

 

Lời thương trao đổi khơi lòng tỏ,

 

Ý nhớ luận bàn gợi dạ khiêu.

 

Chung bước đường dài, hồn bút kính,

 

Cùng đi nẽo thẳng, thể thơ yêu.

 

Thi giao kỷ niệm lưu tình đẹp,

 

Nghĩa ngọc càng thêm đậm sắc nhiều.

   

161 

THƠ TẶNG THI HỮU SONG VŨ

 

Thi nhân Song Vũ tiệc vui chơi,

 

Mừng gặp đệ huynh thỏa dạ rồi.

 

Ngọc hữu tương giao đây với đó,

 

Kim bằng kết nghĩa bạn và tôi.

 

Chung trà ngọt đắng, bàn cơ Đạo,

 

Chén rượu nồng cay, luận sự Đời.

 

Tiếng nhạc lời thơ hòa điệu kết,

 

Thâm tình vang mãi khắp muôn nơi.

   

162 

MỪNG CHÁU TRÒN TRĂNG

 

Mừng nay cháu đã được tròn trăng,

 

Vui bởi Lê gia tiếp ngọc bằng.

 

Rực rở Huỳnh tâm truyền mãi lối,

 

Sáng ngời Minh trí sắp  thêm hàng.

 

Đẹp lòng Mẫn định dồi nghiêm thất,

 

Thỏa dạ được trao điểm tuệ trang.

 

Vẹn thảo, tròn trung, Đời Đạo học,

 

Tuyệt vời trăng chiếu tỏa khang an.

   

163 

KÍNH MỪNG TĂNG THỌ

 

gia kính chúc vạn bình an,

 

Việtxuất tâm trung gởi đá vàng.

 

Kínhnguyện niên cao luôn khí phách,

 

Mừng cầu tuế thượng vẫn hiên ngang.

 

Tăngtài phúc lộc, danh ngời sáng,

 

Thọ đức khương ninh, tiếng vẻ vang.

 

Bácmãi nêu gương đàng hậu tấn,

 

Nhãnlinh khai mở chiếu soi đàng.

   

164

TÌNH THƠ TÂM PHÁP BÀI ( 1 )

 

Hà Việtđôi câu đậm nghĩa thơ,

 

Thâm sâu tình Đạo thỏa mong chờ.

 

Nhân ngày đến viếng, thông từ nhiệm,

 

Tiện buổi qua thăm, thấu bổn cơ.

 

Trước có ngộ duyên nên trúng điểm,

 

Sau hay nhiếp thọ mới ăn rơ.

 

Những gì siêu diệu trên thuyền pháp,

 

Chí hướng Đồng Nguyên rõ bến bờ.

   

165 

TÌNH THƠ TÂM PHÁP BÀI ( 2 )

 

Bến bờ soi sáng vạn tình thương,

 

Trước sự chuyển xoay đấng diệu thường.

 

Biết đó chẵng ngờ cầu Chúa Thánh,

 

Rõ kia là thật nguyện Minh Vương.

 

Hay đây niệm vị Huyền Khung Thượng,

 

Rằng nọ trì danh Bổn Phật Đường.

 

Nhất thể cũng đồng về chánh giác,

 

Đó lời tâm pháp đến Văn Tường.

   

166 

THƠ TẶNG KỶ SƯ VŨ THẾ TRỤ

 

Vũ Thế Trụ người đã có công,

 

Tinh thần yêu nước dẫu ngăn sông.

 

Tìm ra sự nghiệp, ngời tinh ý,

 

Đoán được tươn glai, đẹp thỏa lòng.

 

Kế hoạch tăng gia nhiều hưởng ứng,

 

Chương trình sản xuất lắm chờ mong.

 

Cẩm nang lưu để muôn kỳ hậu,

 

Kỷ thuật nuôi tôm đến Đại Đồng.

   

167 

TƯỞNG NHỚ TH THIỆN LINH

 

Tưởng đến Nguyễn truyền bổn tộc gia,

 

Nhớ thương Thị đã khuất ngày qua.

 

Người hay Thu mộng , đời bi lụy,

 

Vừa Ba sinh, kiếp lệ nhòa.

 

Khuất bóng, Bút nghiên đành vắng vẻ,

 

Dạng hình Hiệu triệu cũng phôi pha.

 

Nhà tu Thiện chí, gìn chơn Đạo,

 

Thơ thới Linh hương, kiến Phật Đà.

   

168 

THƠ TẶNG LÊ THANH NGA

 

Bài khai Thánh ý chuyển kỳ công,

 

Thơ phú ngân vang đẹp thỏa lòng.

 

Tâm cảm như nhiên cần thật có,

 

Pháp duyên tuyệt nhiệm phải tầm không.

 

Tặng trao bổn giác nơi tâm định,

 

lựu đào viên ở ý thông.

 

Thanh thế tỏ tường chung nhất điểm,

 

Nga danh rạng rở nghĩa tương đồng.

   

169

THƠ TẶNG THI HỮU THIỆN THANH

 

Bài bản thông truyền, rạng lý minh,

 

Thơ hòa diệu ứng thật siêu linh.

 

Tâm trung nhiếp phục, tươi ngời nghĩa,

 

Pháp ấn chuyển luân, đậm thắm tình.

 

Tặng phẩm lưu danh tròn đại thể,

 

Huynh hiền đề bảng vẹn Nguyên Sinh.

 

Thiện duyên tinh tuyệt cơ huyền nhiệm,

 

Thanh cảnh đài khai rực điển huỳnh.

   

170

THƠ TẶNG HUYNH CHÍ ĐẠT

 

Bài giải từ linh khiếu diệu thường,

 

Thơ ngâm thâm thúy tỏa ngời hương.

 

Tâm hồn hiến Đạo, thông duyên giác,

 

Pháp dâng Thầy, kết điểm chương.

 

Tặng phẩm tinh tường cơ Thế Pháp,

 

Huynh hiền thấu triệt luatä Âm Dương.

 

Chí thành nhất mực vì Nguyên Lý,

 

Đạt bản huyền cơ ứng nhiệm trường.

   

171

THƠ TẶNG NGUYỄN TẤN PHÁT

 

giang luân chuyển luyện tâm nhiên,

 

Việt quốc Thiên ân góp điểm truyền.

 

Kính bút lâu dài, quy bổn thiện,

 

Tặng thơ kỷ niệm hiệp Chân nguyên.

 

Huynh hiền phúc phẩm tầm chơn phẩm,

 

Nguyễn tộc duyên trường ngộ Đạo duyên.

 

Tấn hóa thể đồng thông ý pháp,

 

Phát huy tài đức rạng linh thuyền.

   

172 

THƠ TẶNG PHẠM TẤN THÀNH

 

Kính lời Hà Việt đến nhân hiền,

 

Tặng gởi tinh tường hiệp hữu duyên.

 

Huynh đệ kim bằng càng tuyệt quý,

 

Phạm, Hà kết nghĩa thật cao nhiên.

 

Tấn tâm tìm Đạo, hành Thiên mạng,

 

Thành ý nghiệm kinh thọ bí truyền.

 

Lưu dấu ngôn từ, thông mật chỉ,

 

Niệm ân Kim vị rạng Sinh Nguyên.

   

173 

THƠ TẶNG MUỘI DUYÊN

 

Tấm lòng hướng Đạo rất cao nhiên.

 

Cũng vốn vô vi sẳn diệu huyền.

 

Dù cuộc bể dâu, lo nợ nghiệp,

 

Mặc tình đeo đuổi, nặng ưu phiền.

 

Còn bao tiếng gọi xa vòng tục,

 

Lắm chuyện cơ may chọn phẩm Tiên.

 

Cảnh mộng có chi mà luyến tiếc,

 

Cần nên chọn đúng pháp lành duyên.

   

174 

NHIÊN ĐỨC BỒ TÁT

 

Dựng Đài Nguyên Pháp luyện viên dung,

 

Thuyết giảng châu thân chuển khắp vùng.

 

Hành hóa Đại Đồng xây Thánh Miếu,

 

Chuyển đàn Bộ Phận lập Tòa Cung.

 

Nho Tông nền tảng gìn nhân Đạo,

 

Giáo Tổ nguồn ân giữ hiếu trung.

 

Bồ Tát vị ngôi, Nhiên Đức hiệu,

 

Tự Trần Văn Tấn điểm gương chung.

   

175 

NHIÊN HOÀ NHƯ LAI

 

Cao Văn Tư hiệu thọ Đài chương,

 

Phụng sắc từ ân vững lập trường.

 

Tân Chiếu Minh Đài Thiền Điện Các,

 

Long Hoa Đại Lễ Trước Lâm Đường.

 

Tàng Thơ ẩn chuyển trong tam cõi,

 

Chánh Pháp hoằng dương khắp tứ phương.

 

Đắc vị Như Lai gương Diệu Pháp,

 

Nhiên Hòa bổn định, đắc Thuần Dương.

   

176 

TRẦM ẨN KIM TIÊN

 

Nguyễn Văn Năm hiệu thọ Thiên ân,

 

Học Đạo Đại thừa, giữ nghĩa nhân.

 

Chung khối Đại Đồng, rèn Thánh thể,

 

Cùng cơ Pháp Tổng, luyện Kim thân.

 

Thanh bần vẹn kiếp bồi âm đức,

 

An lạc tròn duyên lập phúc phần.

 

Chiếu triệu Đơn thơ  ngày quả mãn,

 

Kim Tiên Trầm Ẩn sáng gương ngần.

   

177 

THUẦN DƯƠNG ĐÀN

 

Thuần Dương Đàn Điện thọ Thiên ban,

 

Kính đức trọng nhân, tiếp phẩm vàng.

 

Diệu lýTàng thơ minh tự ngữ,

 

Đơn kinh Dịch Thuật điểm từng trang.

 

Hoằng khai Pháp Nhiệm thông từ huệ,

 

Ứng chuyển Đại Đồng rực điển quang.

 

Cảnh vật hồn nhiên vui học Đạo,

 

Bổn linh tinh tuyệt, tuyển khoa tràng.

   

178 

GỞI BẠN VĂN KUÔL

 

Đôi giòng thơ tả gởi Năm Kuôl,

 

Dẫu vắng từ lâu chẳng phải chuồl.

 

Khi rõ thuyền kia, giờ tís tís,

 

Rằng hay xe nọ, phút tuôl tuôl.

 

Lẽ đâu đắm mộng như nàng tuốs,

 

Há lại say tình thể cậu Buôl.

 

Đạo Pháp gắng nhanh, lòng chớ huộl,

 

Cũng không huổl huổl, cũng không huồi.

   

179 

THƠ TẶNG THI HỮU HÃI HÀ

 

Có một thi nhân tự Hãi Hà,

 

Tinh thần xây dựng thật bao la.

 

Hiền hòa nghĩa cảm tô màu ngọc,

 

Trung thực tình lưu điểm sắc ngà.

 

Ưu ái bạn bè dầu cách trở,

 

Quan tâm thân thuộc dẫu gần xa.

 

Tuổi cao ý chí càng năng động,

 

Từ việc kinh doanh đến việc nhà.

   

180 

THƠ TẶNG THI HỮU THANH TRẦN

 

Thi hữu Thanh Trần tuyệt tác thơ,

 

Hương danh phưởng phất tự bao giờ.

 

Thiên nhiên tạo hóa tường nguyên bổn,

 

Luật định nhân loài rõ ý cơ.

 

Yêu mộ văn chương xây vững bến,

 

Mến trao bút điển đắp nên bờ.

 

Tình thương cuộc sống càng nung nấu,

 

Đạo đức con người giải mộng mơ.

   

181 

THƠ TẶNG THI HỮU TỨ BẠCH

 

Nhà thơ Tứ Bạch tự Thành Nam,

 

Rộng mở tình thương tiếp luận đàm.

 

Ứng đối văn chương quy bổn nhứt,

 

Hài hòa thi phú hiệp đồng tam.

 

Trọng gìn Đạo đức điều ưa thích,

 

Năng giữ nghĩa nhân việc chọn làm.

 

Đúng Mạnh Thường Quân, ngời sức sống,

 

Cũng là duyên trước cội Già Lam.

   

182 

THƠ TẶNG THI BÁ ĐỨC NGHIỆP

 

Nhà thơ Đức Nghiệp bậc Tiên sinh,

 

Trong sáng tâm thanh đẹp nghĩa tình.

 

Tuổi đã cao ngời luôn mẫu mực,

 

Đời thêm ngút tỏa mãi uy linh.

 

Tinh thần bền bỉ thời giông tố,

 

Ý chí vững vàng buổi chiến chinh.

 

Thần bút khí Thiên càng hiển hiện,

 

Nguồn thơ điêu luyện vững quy trình.

   

183 

THƠ TẶNG THI HỮU KHÁNH TRIỀU

 

Nguyễn Khánh Triều đây tự Giáo Triều,

 

Một nhà thơ tuyệt, dễ người yêu.

 

Vui tình thi nghĩa, duyên càng mở,

 

Đẹp ý văn nhân, thể cũng siêu.

 

Nét điểm thật như dòng nước chuyển,

 

Màu tô đúng tợ ánh trăng nêu.

 

Càng thêm trong sáng câu hòa ái,

 

Chơn lý niềm tin rõ vẹn điều.

   

184 

THƠ TẶNG THI HỮU THANH BÌNH

 

Gíao Bình thi hữu tự Thanh Bình,

 

Khiêm tốn cần cù nghiệp kế sinh.

 

Có cả hương thơ như huệ trắng,

 

Cùng thêm vị phú tợ đường tinh.

 

Ngọt ngào ý thức , Đời xây dựng,

 

Thơm ngát văn chương, Đạo giữ gìn.

 

Cởi mở tâm lành nhân nghĩa trọng,

 

Nguồn thơ dào dạt thắm ân tình.

   

185 

THƠ TẶNG THI HỮU NĂM NGAY

 

Thi hữu Năm Ngay một lão nhân,

 

Cũng là bút hiệu gọi Nông Dân.

 

Chân tình góp ý dầu nghi kỵ,

 

Trung thực tiếp lời dẫu oán ân.

 

Chứa đựng pháp tâm đâu thể sánh,

 

Ẩn tàng thể tánh dễ nào cân.

 

Hết lòng vì bạn, vì trung nghĩa,

 

Đạo đức càng thêm ánh sáng ngần.

   

186

 THƠ TẶNG THI HỮU KÝ ỐM

 

Nhà thơ Ký Ốm bậc tài hiền,

 

Trí thức góp phần chẵng bởi riêng.

 

Có những tâm hồn ngời khí khái,

 

Lại thêm ý thể rực hùng thiên.

 

Hòa tình tri kỷ tròn nhân phẩm,

 

Hiệp nghĩa thâm giao vẹn bổn duyên.

 

Trọng Đạo, yêu Đời thành sự sống,

 

Sáng trưng ý chí bởi căn tiền.

   

187 

THƠ TẶNG THI HỮU HOÀNG LINH

 

Hoàng Linh Kim Chưởng một thi nhân,

 

Có sẳn nguồn thơ thật sáng ngần.

 

Ý chí mạnh lành, ngời nghĩa lý,

 

Tinh thần vững chắc rạng từ chân.

 

Ẩn tàng lưu mãi hơi thiên phú,

 

Phát triển vươn lên sức tự thân.

 

Trẻ đẹp tâm hồn như  nét bút,

 

Sắt son giòng chữ dẫu phong trần.

   

188 

THƠ TẶNG THI HỮU BẢO TRÂM

 

Thi hữu Bảo Trâm trọng nghĩa tình,

 

Hồn thơ xuân sắc vẹn niềm tin.

 

Cung thương uyển chuyển lời tươi thắm,

 

Nhạc điệu nhịp nhàng, ý tuyệt minh.

 

Dạ những dạt dào cầu hạnh phúc,

 

Lòng nghe rung cảm nguyện thanh bình.

 

Văn đàn tri kỷ còn lưu mãi,

 

Sức sống mạnh lành tự chí linh.

   

189 

THƠ TẶNG T.H HUỲNH THANH PHONG

 

Huỳnh Thanh Phong hiệu một nhà thơ,

 

Lý luận văn chương thế có ngờ.

 

Xây dựng cho người không phải dễ,

 

Đấu tranh với giặc chẳng đơn sơ.

 

Dân Sanh góp ý thông trường ảo,

 

Quốc kế điểm lời giải mộng mơ.

 

Hiểu cảnh, rõ tình vì cuộc sống,

 

Đường thi thúc giục sáng như tờ.

   

190 

THƠ TẶNG T.H TRẦN LỆ KHÁNH

 

Nhà thơ Lệ Khánh nữ tài danh,

 

Tình cảm thâm sâu ý chí thành.

 

Rung động lời thơ, lời nhạy bén,

 

Nồng nàng ý cảm, ý truyền nhanh.

 

Điểm tô hương vị thông đường sáng,

 

In đậm sắc màu hiện nét thanh.

 

Nổi bậc văn chương duyên dáng ngọc,

 

Càng thêm rạng tỏ đức ân lành.

   

191 

THƠ TẶNG THI HỮU LÊ MINH

 

Ngòi bút tài hoa rực ánh xuân,

 

Lê Minh thi hữu sáng gương ngần.

 

Lời thơ ca ngợi cầu trung hiếu,

 

Ý nhạc hân hoan tiếp nghĩa nhân.

 

Sự sống đậm ngời câu hảo hiệp,

 

Cuộc đời thắm đượm chữ tương lân.

 

Góp phần trí thức xây hoài bảo,

 

Thêm sắc, thêm hương mãi sáng ngần.

   

92 

THƠ TẶNG T.H HÀ BỬU PHÁT

 

Tiếng gọi nghĩa nhân đậm nét tình,

 

Nhà thơ Bửu Phát hướng tâm kinh.

 

Lời văn êm ái, gìn nguyên bổn,

 

Nét bút dịu dàng, giữ ý minh.

 

Hiếu khách tầm thi, thi mãi luyện,

 

Say duyên mộ luật, luật càng tinh.

 

Rõ phần xử thế, đông bằng hữu,

 

Nhắc nhở cùng nhau Đạo đức gìn.

   

193 

THƠ TẶNG THI HỮU ÁI NHÂN

 

Ái Nhân thi hữu rất yêu đời,

 

Xây dựng góp phần rạng rỡ nơi.

 

Tuổi tác càng cao, công vẫn tiến,

 

Tâm hồn trẻ mãi, việc không lơi.

 

Kiên trì việc nước, thêm tinh lẽ,

 

Nhẫn nại Đường thơ, mãi tuyệt lời.

 

Sinh động hòa tình, niềm cảm đẹp,

 

Hương thơ thắm đượm sắc mây trời.

   

94 

THƠ TẶNG THI HỮU NAM PHONG

 

Nam Phong thi hữu bậc tài năng,

 

Sống động, uy nghiêm, lại chuẩn thằng.

 

Đằm thắm lời văn, tình mãi nở,

 

Dịu dàng nét bút, nghĩa thêm tăng.

 

Nồng nàng giao hữu dầu lai chuyển,

 

Nhuần đượm duyên thơ dẫu giáng thăng.

 

Ý đẹp sắt son còn hậu để,

 

Quyết tâm xây dựng chữ công bằng.

   

195 

THƠ TẶNG THI HỮU NĂM THIỆP

 

Năm Thiệp thi nhân chí hiệp hào,

 

Tấm lòng bác ái, Đạo gìn trau.

 

Sưu tầm thơ luật , thông lề lối,

 

Nghiên cứu sách kinh, rõ trước sau.

 

Nghị lực vững vàng, hòa nẽo thấp,

 

Tinh thần bền bỉ, thuận đường cao.

 

Đượm ân đức cả từ duyên bổn,

 

Sáng rực niềm tinh đủ sắc màu.

   

196

THƠ TẶNG T.H TRẦN MINH THÔNG

 

Một nhà thơ cũng một lương y,

 

Thi hữu Minh Thông rõ vận thì.

 

Bác ái tình Đời không biến chuyển,

 

Hòa đồng nghĩa Đạo chẳng sai di.

 

Bảo toàn truyền thống càng như thuở,

 

Gìn giữ hậu lai thật đúng kỳ.

 

Nét bút tinh thần chung sức dựng,

 

Sáng ngời chí cả tuyệt vời thi.

   

197 

THƠ TẶNG T.H HOÀNG THÂN

 

Hoàng Thân nghệ sĩ lại thi đàn,

 

Thiên phú làng hơi để tiếng vang.

 

Lối diển vững vàng, thêm lẫm liệt,

 

Giọng ngâm truyền cảm, lại nghiêm trang.

 

Vui tình mến bạn, tình như ngọc,

 

Đẹp nghĩa trao duyên, nghĩa tợ vàng.

 

Hâm mộ văn chương, giàu nét chữ,

 

Tình thương ý chí giữ bình an.

   

198 

THƠ TẶNG THI HỮU NGŨ SẮC

 

Thi nhân Ngũ Sắc tuổi cao ngời,

 

Mẫu mực tinh thần góp sức hơi.

 

Tiếng gọi giác mê, kia sự thế,

 

Lời kêu say tỉnh, đó tuồng đời.

 

Hòa tâm hướng thượng càng tinh nhiệm,

 

Hiệp chí tầm nguyên rất tuyệt vời.

 

Đạo đức con người, chung góp ý,

 

Hương thơ phưởng phất khắp muôn nơi.

   

199 

THƠ TẶNG THI HỮU THIỆN LINH

 

Thiện Linh thi hữu đượm thơ ca,

 

Sắc thái văn chương ý mặn mà.

 

Đạt lý đối nhân, tình tợ ngọc,

 

Thông tình xử thế , ý như hoa.

 

Tấm lòng Bác Ái hòa nguyên bổn,

 

Tấc dạ Đại Đồng hiệp nhất gia.

 

Đức sáng tài gương, giàu nghĩa cả,

 

Hương thơ phưởng phất tỏa muôn xa.

   

200 

THƠ TẶNG T.H GIANG HỒ KHÁCH

 

Giang Hồ Khách hiệu, đậm tri âm,

 

Kết hợp tình thơ, nguyện nhất tâm.

 

Mãi võ cầu duyên, tình thắm đượm,

 

Sơn đông hiếu khách, nghĩa thâm trầm.

 

Văn chương tô điểm từ muôn kiếp,

 

Nghệ thuật trau giồi mãi vạn năm.

 

Chí hướng nhìn lên trời, đất, nước,

 

Giữ tâm trong sáng thể trăng rằm.

 

Home Đường thi lưu ký ĐƯỜNG THI LƯU KÝ 2 (101 - 200 )